Tiết 4:

Các Ki-tô hữu - cơ cấu phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến

 

871 (1268-1269 782-786)  "Ki-tô hữu là những người được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Ki-tô nhờ phép Thánh Tẩy, trở nên Dân Thiên Chúa, do đó tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Ki-tô. Theo điều kiện riêng của ḿnh, họ được mời gọi thực thi sứ mạng mà Chúa đă giao cho Hội Thánh thực hiện trên thế giới" (CIC 204, 1; LG 31).

872 (1934 794)  "Do được tái sinh trong Đức Ki-tô, mọi tín hữu đều b́nh đẳng về phẩm giá và hoạt động. Nhờ sự b́nh đẳng thật sự này, tất cả đều cộng tác xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô, tùy theo hoàn cảnh và chức vụ riêng của mỗi người" (can 208; x. LG 32).

873 (814, 1937)   Những khác biệt Chúa đă muốn đặt giữa những chi thể trong Thân Thể Người, là để phục vụ cho sự hiệp nhất và sứ mạng của Hội Thánh. "Trong Hội Thánh có nhiều thừa tác vụ khác nhau nhưng đều cùng chung một sứ mạng. Chúa Ki-tô đă trao phó cho các tông đồ và những người kế nhiệm các ngài nhiệm vụ nhân danh và lấy quyền Người mà giảng dạy, thánh hóa và cai quản. C̣n phần giáo dân, v́ họ tham dự thực sự vào nhiệm vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Ki-tô nên họ cũng đảm nhận phần việc của ḿnh trong sứ mạng chung của toàn Dân Thiên Chúa, trong Hội Thánh và ở giữa trần gian" (x. AA 2). "Trong cả hai thành phần giáo sĩ và giáo dân, có những tín hữu qua việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm theo cung cách riêng của họ", được thánh hiến cho Thiên Chúa để phục vụ sứ mạng cứu độ của Hội Thánh" (CIC can 207, 2).

I. CƠ CẤU PHẨM TRẬT CỦA HỘI THÁNH

Mục đích của thừa tác vụ trong Hội Thánh

874 (1544)   Chính Đức Ki-tô là nguồn cội của thừa tác vụ trong Hội Thánh. Người đă thiết lập, trao quyền và sứ mạng, phương hướng và cứu cánh cho thừa tác vụ Hội Thánh :

"Để chăn dắt và phát triển Dân Chúa luôn măi, Đức Ki-tô đă thiết lập các thừa tác vụ khác nhau trong Hội Thánh hầu mưu ích cho toàn thân. Thật vậy, các thừa tác viên sử dụng quyền bính thiêng liêng mà phục vụ các anh em ḿnh, để mọi người thuộc Dân Thiên Chúa ... đạt tới ơn cứu độ" (LG 18).

875 (166 1548 1536)  "Làm sao tin nếu không được nghe trước đă? Làm sao nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao rao giảng nếu không được sai đi?" (x. Rm 10, 14-15). Không ai, không cá nhân nào cũng như không cộng đoàn nào, có thể tự loan báo Tin Mừng cho chính ḿnh. "Có đức tin là nhờ nghe giảng" (x. Rm 10, 17). Không ai có thể tự cho ḿnh quyền và sứ mạng loan báo Tin Mừng. Sứ giả của Chúa nói và hành động không phải do quyền lực riêng, nhưng do uy quyền của Đức Ki-tô; không phải với tư cách là thành viên của cộng đồng nhưng nói với cộng đồng nhân danh Đức Ki-tô. Không ai có thể ban cho ḿnh ân sủng của Thiên Chúa; ân sủng phải được Thiên Chúa ban cho và trao tặng. Như thế, phải có các thừa tác viên phân phát ân sủng, được phép và được quyền do Đức Ki-tô ban. Từ nơi Người, các giám mục và linh mục nhận sứ mạng và quyền năng để hành động thay quyền Đức Ki-tô là Đầu, các phó tế nhận sức mạnh phục vụ Dân Thiên Chúa bằng "công tác phục vụ" trong phụng vụ, Lời Chúa và bác ái, trong sự hiệp thông với giám mục và hàng linh mục. Thừa tác vụ mà các sứ giả của Đức Ki-tô sử dụng để cử hành và trao ban, nhờ hồng ân Thiên Chúa, những ǵ bản thân họ không thể tự cử hành và trao ban, được truyền thống Hội Thánh gọi là "bí tích". Thừa tác vụ của Hội Thánh được trao ban qua một bí tích đặc biệt.

876 1(551 427)  Thừa tác vụ của Hội Thánh có tính phục vụ gắn liền với bản tính bí tích. V́ các thừa tác viên hoàn toàn tùy thuộc Đức Ki-tô là người giao sứ mạng và quyền hạn, nên họ thực sự là "nô lệ của Đức Ki-tô" (x. Rm 1, 1), theo gương Đức Ki-tô, Đấng tự nguyện v́ chúng ta "mặc lấy thân nô lệ" (x. Ph 2, 7). V́ lời và ân sủng mà họ phục vụ, không phải là của họ nhưng của Đức Ki-tô, được ủy thác cho họ để trao lại cho người khác, nên họ tự nguyện trở thành nô lệ cho mọi người (x. 1Cr 9, 19).

877 (1559)  Cũng thế, đặc tính tập đoàn phát xuất từ bản tính bí tích của thừa tác vụ Hội Thánh. Khi bắt đầu thừa tác vụ của ḿnh, Chúa Giê-su đă thiết lập nhóm Mười Hai, "mầm mống của dân Ít-ra-en mới, đồng thời cũng là nguồn gốc của hàng giáo phẩm" (x. AG 5). Được tuyển chọn chung với nhau, họ cùng được sai đi chung với nhau và t́nh hiệp nhất huynh đệ của họ sẽ giúp cho mọi tín hữu được hiệp thông huynh đệ sự hiệp thông này sẽ phản ảnh và làm chứng cho sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa (x. Ga 17, 21-23). V́ thế, mỗi giám mục thi hành thừa tác vụ của ḿnh trong ḷng Giám Mục Đoàn, hiệp thông với Giám Mục Rô-ma, người kế nhiệm thánh Phê-rô và là thủ lănh Giám Mục Đoàn; các linh mục thi hành thừa tác vụ của ḿnh trong ḷng linh mục đoàn giáo phận, dưới sự chỉ đạo của vị giám mục.

878 (1448)   Sau cùng, do bản tính bí tích, thừa tác vụ Hội Thánh c̣n có đặc tính cá nhân. Các thừa tác viên của Đức Ki-tô hiệp thông với nhau trong hành động, nhưng họ cũng hành động cách cá nhân. Mỗi người được gọi đích thân : "Phần con, hăy theo Thầy" (Ga 21, 22) (x. Mt 4, 19. 21; Ga 1, 43), để đích thân trở thành một chứng nhân cá thể trong sứ mạng chung, đích thân lănh trách nhiệm trước Đấng đă trao sứ mạng cho ḿnh, hành động "như đích thân Đức Ki-tô" phục vụ những cá nhân cụ thể : "Tôi rửa anh, nhân danh Chúa Cha... "; "Tôi tha tội cho anh... "

879  Như thế, thừa tác vụ bí tích trong Hội Thánh là một việc phục vụ nhân danh Đức Ki-tô, vừa có tính cá nhân vừa mang h́nh thức tập thể. Điều này thể hiện rơ trong mối tương quan giữa Giám Mục Đoàn và thủ lănh Giám Mục Đoàn, người kế nhiệm thánh Phê-rô và trong mối tương quan giữa trách nhiệm mục vụ của giám mục đối với giáo phận của ḿnh và sự quan tâm chung của Giám Mục Đoàn đối với Hội Thánh toàn cầu.

Giám Mục Đoàn và người đứng đầu là Đức Giáo Hoàng

880 (552, 862)   "Khi thành lập nhóm Mười Hai, Đức Ki-tô đă tổ chức các tông đồ này theo cách thức một tập đoàn, nghĩa là một nhóm kiên vững; Người chọn Phê-rô, một người trong số họ, làm đầu tập đoàn ấy" (x. LG 19). "Cũng như thánh Phê-rô và các tông đồ khác tạo thành một tập đoàn tông đồ duy nhất, như Chúa đă thiết lập; th́ tương tự như thế, Giám Mục Rô-ma, người kế nhiệm thánh Phê-rô cùng với các giám mục, là những người kế nhiệm các tông đồ, cũng liên kết với nhau và hiệp nhất với nhau" (LG 22; x. CIC, can. 330).

881 (553 642)   Chúa đă chọn một ḿnh Xi-mong mà Người đặt tên là Phê-rô làm đá nền cho Hội Thánh. Người đă trao cho ông các ch́a khóa của Hội Thánh (x. Mt 16, 18-19), và đặt ông làm mục tử chăn dắt cả đoàn chiên (x. Ga 21, 15-17). "Nhưng quyền tháo gỡ cầm buộc đă ban cho Phê-rô, chắc chắn Người cũng ban cho cả đoàn tông đồ hiệp nhất với thủ lănh" (x. LG 22). Nhiệm vụ mục tử này của Phê-rô và các tông đồ khác là một trong những yếu tố căn bản của Hội Thánh. Các giám mục tiếp tục thi hành nhiệm vụ này dưới quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng.

882   Đức Giáo Hoàng, vừa là Giám Mục Rô-ma vừa là vị kế nhiệm thánh Phê-rô, "là nguyên lư và nền tảng hữu h́nh, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục cũng như giữa các tín hữu" (x. LG 23). "Thật vậy, do nhiệm vụ là đại điện Chúa Ki-tô và mục tử của toàn thể Hội Thánh, Giám Mục Rô-ma có quyền bính trọn vẹn. tối cao, phổ quát trên Hội Thánh và bao giờ Ngài cũng được tự do thi hành quyền ấy" (x. LG 22; CD 2, 9).

883  "Giám Mục Đoàn chỉ có quyền hành khi hiệp nhất với Giám Mục Rô-ma là thủ lănh của họ". Như thế, "Giám Mục Đoàn cũng có quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Hội Thánh, nhưng chỉ có thể thi hành quyền này khi có sự ưng thuận của Giám Mục Rô-ma" (x. LG 22; CIC can 336).

884 "Quyền bính tối cao của Giám Mục Đoàn trên toàn thể Hội Thánh được thi hành cách trọng thể trong Công Đồng Chung" (x. CIC, can. 337, 1). "Nhưng không bao giờ có Công Đồng Chung, nếu không được vị kế nhiệm Phê-rô phê chuẩn hay ít ra chấp nhận" (LG 22).

885  "Gồm nhiều thành phần khác nhau, Giám Mục Đoàn diễn tả đặc tính đa dạng và phổ quát của Dân Thiên Chúa; đồng thời, tập họp dưới quyền một thủ lănh duy nhất, Giám Mục Đoàn diễn tả sự hiệp nhất của đoàn chiên Chúa Ki-tô" (LG 22).

886 (1560, 833 2448)  "Mỗi giám mục là nguyên lư và nền tảng hữu h́nh của sự hiệp nhất trong Hội Thánh địa phương" (x. LG 23). Như thế, "mỗi giám mục thi hành quyền mục vụ trên phần Dân Thiên Chúa được ủy thác cho ḿnh" (x. LG 23), với sự trợ giúp của các linh mục và phó tế. Nhưng với tư cách là thành viên Giám Mục Đoàn, mỗi giám mục có bổn phận quan tâm đến toàn thể Hội Thánh (x. CD 3). Các ngài thể hiện mối quan tâm đó trước hết bằng việc "điều hành tốt Hội Thánh địa phương như một phần của Hội Thánh toàn cầu", như vậy đă là góp phần hữu hiệu vào "công ích của toàn Nhiệm Thể cũng là thân thể của các Hội Thánh" (x. LG 23). Các ngài phải đặc biệt quan tâm đến những người nghèo (x. Gl 2, 10), những người bị bách hại v́ đức tin, cũng như đến các thừa sai đang hoạt động trên toàn thế giới.

887  Các Hội Thánh địa phương lân cận và có chung nền văn hóa tạo thành những giáo tỉnh, hay những tập thể lớn hơn gọi là giáo miền hay vùng dưới quyền thượng phụ (x. Canon des apôtres 34). Các giám mục thuộc những tập thể này có thể họp hội nghị hay công đồng địa phương. "Cũng thế, ngày nay các Hội Đồng Giám Mục có thể góp phần cách phong phú và đa dạng để cụ thể hóa tinh thần tập đoàn" (LG 23).

(85-87 2032-2040)

Nhiệm vụ giáo huấn

888 (2068)  Các giám mục, với những cộng sự viên là các linh mục, "trước tiên có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng Thiên Chúa cho mọi người" (x. PO 4), theo lệnh của Chúa Ki-tô (x. Mc 16, 15). Các ngài "là sứ giả đức tin đem nhiều môn đệ mới về với Chúa Ki-tô, là thầy dạy đích thực" của đức tin tông truyền, "có uy quyền của Chúa Ki-tô" (LG 25).

889 (92)   Để ǵn giữ đức tin tinh tuyền do các tông đồ truyền lại, Chúa Ki-tô muốn cho Hội Thánh Người tham dự vào sự bất khả ngộ của chính Người, v́ Người là Chân lư. Nhờ "cảm thức siêu nhiên về đức tin", Dân Thiên Chúa "gắn bó không sờn với đức tin" dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền sống động của Hội Thánh (LG 12; DV 10).

890 (851 1785)   Sứ mạng của Huấn Quyền gắn liền với đặc tính chung cuộc của Giao Ước do Thiên Chúa lập trong Đức Ki-tô với Dân Người. Huấn Quyền bảo vệ Dân Chúa khỏi những sai lạc và khiếm khuyết, đồng thời bảo đảm cho Dân khả năng khách quan để tuyên xưng không sai lầm đức tin chân chính. Như thế, trách nhiệm mục vụ của Huấn Quyền là giữ ǵn Dân Chúa luôn trung thành với chân lư giải phóng. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Chúa Ki-tô đă ban cho các mục tử đặc sủng không sai lầm về đức tin và phong hóa. Đặc sủng này có thể được hành xử dưới nhiều dạng khác nhau :

891  "Giám Mục Rô-ma, vị thủ lănh của Giám Mục Đoàn, hưởng ơn bất khả ngộ đó do nhiệm vụ của ngài; khi với tư cách là mục tử và thầy dạy tối cao của mọi Ki-tô hữu, để củng cố anh em ḿnh vững mạnh trong đức tin, ngài công bố một điểm giáo thuyết về đức tin và phong hóa bằng một phán quyết chung thẩm. Ơn bất khả ngộ được hứa ban cho Hội Thánh cũng có nơi Giám Mục Đoàn, khi các ngài thi hành huấn quyền tối thượng kết hiệp cùng với vị kế nhiệm thánh Phê-rô", nhất là trong một Công Đồng Chung (x. LG 25; x. Vatican I: DS 3074). Khi Hội Thánh dùng Huấn Quyền tối thượng để đề ra một điều ǵ "phải tin bởi do Thiên Chúa mặc khải" (x. DV 10) và là giáo huấn của Chúa Ki-tô, chúng ta "phải lấy đức tin mà vâng phục các định tín ấy" (x. LG 25). Giới hạn của ơn bất khả ngộ này nằm trong giới hạn của kho tàng mặc khải" (x. LG 25).

892  Ơn trợ giúp này của Thiên Chúa cũng được ban cho những người kế nhiệm các thánh tông đồ, khi các ngài dùng huấn quyền thông thường đề ra một giáo huấn giúp hiểu rơ mặc khải hơn về đức tin và phong hóa. Tuy không định tín hay công bố một "cách chung thẩm", các giám mục được ơn Chúa trợ giúp để giảng dạy trong sự hiệp thông với vị kế nhiệm thánh Phê-rô, đặc biệt ơn trợ giúp này được ban cho Giám Mục Rô-ma, vị mục tử của toàn thể Hội Thánh. Dù biết rằng đây là giáo huấn thông thường nên không phải vâng phục như các tín điều, nhưng các tín hữu vẫn phải "vâng theo với ḷng kính cẩn" (LG 25).

Nhiệm vụ thánh hóa

893 (1561)   Vị giám mục v́ là thượng tế có "trách nhiệm ban phát ân sủng của Đức Ki-tô, vị tư tế tối cao" (x. LG 26), đặc biệt trong thánh lễ do chính ngài dâng hoặc lo liệu cho có các cộng sự viên là các linh mục dâng. V́ thánh lễ là tâm điểm của đời sống Hội Thánh địa phương. giám mục và các linh mục thánh hoá Hội Thánh địa phương bằng kinh nguyện và công việc của các ngài, bằng thừa tác vụ Lời Chúa và các bí tích, bằng gương mẫu, "đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đă giao phó cho anh em, nhưng hăy nêu gương sáng cho đoàn chiên" (x. 1Pr 5, 3). Nhờ đó, "cùng với đoàn chiên Chúa giao phó, các ngài đạt tới đời sống vĩnh cửu" (LG 26).

Nhiệm vụ cai quản

894 (801)   "Là đại diện và sứ giả Chúa Ki-tô, các giám mục điều khiển Giáo Hội địa phương bằng lời khuyên bảo, khích lệ, gương sáng của ḿnh và cũng bằng uy quyền và quyền Thánh Chức nữa" (x. LG 27). Các ngài phải thi hành quyền này để xây dựng cộng đoàn trong tinh thần phục vụ của Thầy ḿnh (x. Lc 22, 26-27).

895 (1558)  "Quyền bính mà các ngài đích thân thi hành nhân danh Đức Ki-tô, là một quyền bính riêng biệt, thông thường và trực tiếp; nhưng việc thi hành quyền này c̣n tùy thuộc vào thẩm quyền tối cao của Hội Thánh" (x. LG 27). Chúng ta không được coi các giám mục như những đại diện của Đức Giáo Hoàng; quyền thường xuyên và trực tiếp của Đức Giáo Hoàng trên toàn Hội Thánh không hủy bỏ mà c̣n xác nhận và bảo vệ quyền của các ngài. Các ngài phải thi hành quyền này trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.

896 (1550)   Vị mục tử nhân lành phải là khuôn mẫu cho các giám mục trong nhiệm vụ mục vụ. Ư thức những yếu đuối của ḿnh, "giám mục có thể cảm thông với những ai dốt nát và lầm lạc. Ngài nên lắng nghe những kẻ thuộc quyền, và ân cần săn sóc họ như những người con đích thực. C̣n các tín hữu, họ phải liên kết với giám mục của ḿnh như Hội Thánh gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô và như Chúa Giê-su Ki-tô với Chúa Cha" (LG 27).

Tất cả anh em hăy theo giám mục, như Chúa Ki-tô theo Chúa Cha; hăy theo linh mục đoàn như theo các tông đồ hăy kính trọng các phó tế như kính trọng luật Chúa. Đừng ai làm việc ǵ có liên quan đến Hội Thánh ngoài ư giám mục. (T. Inhaxiô Antiôkia, thư gởi giáo đoàn Smyrn 8, 1).

II. GIÁO DÂN

897 (873)   "Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những Ki-tô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu tŕ được Hội Thánh công nhận, nghĩa là những tín hữu đă được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Ki-tô nhờ phép Thánh Tẩy, đă trở nên Dân Thiên Chúa, được tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki-tô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thi hành sứ mạng của toàn dân Ki-tô giáo trong Hội Thánh và trên trần gian theo phận vụ riêng của ḿnh" (LG 31).

Ơn gọi giáo dân

898 (2105)  "Ơn gọi riêng của giáo dân là t́m kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ư Thiên Chúa. Họ có nhiệm vụ đặc biệt là soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng được thực hiện và phát triển theo thánh ư Chúa Ki-tô, hầu ca tụng Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc" (LG 31).

899 (2442)  Sáng kiến của giáo dân đặc biệt cần thiết khi phải khám phá, và tạo ra những phương thế để đem các đ̣i hỏi của đạo lư và đời sống Ki-tô giáo thấm nhập vào các thực tại xă hội, chính trị và kinh tế. Công việc này là chuyện b́nh thường trong đời sống Hội Thánh.

Giáo dân đứng ở tuyến đầu của Hội Thánh. Nhờ họ Hội Thánh trở thành nguyên lư mang lại sự sống cho xă hội. Chính v́ thế họ luôn luôn phải ư thức rất rơ rằng không những họ thuộc về Hội Thánh, mà họ c̣n là Hội Thánh nữa, nghĩa là cộng đoàn tín hữu đang sống trên trần thế này, dưới sự hướng dẫn của vị thủ lănh chung là Đức Giáo Hoàng và các giám mục hiệp thông với ngài. Họ là Hội Thánh (Đức Pi-ô XII, diễn từ 20 tháng 2 1946; được Đức Gio-an Phao-lô II, trích dẫn trong CL 9).

900 (863)  Cũng như mọi tín hữu được Thiên Chúa trao nhiệm vụ tông đồ qua bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, người giáo dân có bổn phận và có quyền, một ḿnh hay họp thành nhóm, hoạt động để mọi người khắp mọi nơi biết đến và đón nhận sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa. Bổn phận này càng thúc bách hơn nữa, khi chỉ nhờ họ những người khác mới có thể nghe được Tin Mừng và nhận biết Đức Ki-tô. Trong các cộng đoàn Hội Thánh, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi không có họ, việc tông đồ của các mục tử phần lớn không thể phát huy hiệu quả tối đa (x. LG 33).

Giáo dân tham gia vào nhiệm vụ tư tế của Chúa Ki-tô

901 (784, 1268)   "V́ giáo dân đă được thánh hiến cho Chúa Ki-tô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa kết quả nơi họ ngày càng phong phú hơn. Thực vậy, mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đ́nh, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên tŕ đón nhận, th́ tất cả đều trở nên "hiến lễ thiêng liêng đẹp ḷng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô" (1 Pr 2, 5), v́ những hiến lễ ấy được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với Ḿnh Thánh Chúa khi cử hành lễ tạ ơn. Như thế, giáo dân thánh hiến thế giới này cho Thiên Chúa nhờ biết phụng thờ Người bằng đời sống thánh thiện khắp nơi" (LG 34).

902 (1143) Đặc biệt, các cha mẹ công giáo tham dự vào nhiệm vụ thánh hóa "khi sống đời vợ chồng và giáo dục con cái theo tinh thần Ki-tô giáo" (CIC, can. 835, 4).

903 (1143)  Nếu hội đủ điều kiện, giáo dân có thể lănh nhận thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ (x. CIC, can 230, 1). "Nơi nào nhu cầu Hội Thánh đ̣i hỏi v́ thiếu thừa tác viên, giáo dân dù không có nhận thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay thế họ làm một số việc như thi hành thừa tác vụ Lời Chúa, chủ tọa các buổi cầu nguyện, rửa tội và cho rước lễ theo các quy tắc luật định" (CIC, can 230, 3).

Giáo dân tham gia vào nhiệm vụ ngôn sứ của Chúa Ki-tô

904 (785 92)  "Đức Ki-tô chu toàn chức vụ ngôn sứ không những nhờ hàng giáo phẩm ... nhưng cũng nhờ các giáo dân. Người đă đặt họ làm chứng nhân, bằng cách ban cho họ cảm thức đức tin và ơn dùng ngôn từ " (LG 35).

Dạy dỗ người khác để đưa họ đến đức tin là nhiệm vụ của mỗi vị giảng thuyết và cả của mỗi tín hữu (T. Tô-ma A-qui-nô, tổng luận thần học 371, 4, 3).

905 (2044)  Giáo dân cũng chu toàn sứ mạng ngôn sứ của họ bằng việc phúc âm hóa, "nghĩa là loan báo Đức Ki-tô bằng đời sống chứng tá và lời nói". Nơi giáo dân, "hoạt động phúc âm hóa này ... mang sắc thái và có một hiệu năng đặc biệt v́ được thể hiện trong những hoàn cảnh thông thường ở trần gian" (LG 35).

(2472)  "Hoạt động tông đồ này không chỉ là làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực c̣n phải t́m dịp loan truyền Đức Ki-tô bằng lời nói, cho người chưa tin ... hoặc cho tín hữu" (AA 6; x. AG 15).

906 (2495)  Những giáo dân có khả năng và đă được huấn luyện, cũng có thể cộng tác trong việc hướng dẫn giáo lư (x. CIC can 774;776;780) , giảng dạy các khoa học thánh (x. CIC can 229), việc truyền thông xă hội (x. CIC can 823, 1).

907  "Tùy theo nhiệm vụ kiến thức chuyên môn và uy tín của ḿnh, họ có quyền và đôi khi có bổn phận, bày tỏ cho các vị mục tử có chức thánh biết ư kiến của ḿnh liên quan tới lợi ích của Hội Thánh. Họ cũng có quyền phát biểu ư kiến của ḿnh cho các tín hữu khác, miễn là bảo vệ sự vẹn toàn của đức tin và phong hóa, cũng như sự tôn kính đối với các mục tử, và quan tâm đến công ích và phẩm giá của tha nhân" (CIC can 212, 3).

Giáo dân tham gia vào nhiệm vụ vương giả của Chúa Ki-tô

908 (786)  Nhờ vâng phục cho đến chết (x. Pl 2, 8-9), Đức Ki-tô thông ban cho các môn đệ hồng ân tự do vương giả"để chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi bản thân họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện" (LG 36).  

"Ai chế ngự thân xác và điều khiển hồn ḿnh, không để dục vọng khuất phục là làm chủ bản thân. Người ấy có thể được gọi là vua, v́ có khả năng cai trị chính bản thân; người ấy tự do, độc lập và không làm nô lệ cho tội lỗi" (x. T. Am-rô-xiô, chú giải Thánh vịnh 118, 14, 30: PL 15, 1403A).

909 (1887)   "Ngoài ra, khi các cơ chế và hoàn cảnh sống trong thế gian gây nên dịp tội, giáo dân phải hiệp sức làm cho các cơ chế và hoàn cảnh sống đó trở nên lành mạnh, phù hợp với các tiêu chuẩn của đức công b́nh, và giúp phát huy hơn là ngăn trở việc thực hành các nhân đức. Hành động như thế, giáo dân sẽ làm cho những giá trị luân lư thấm nhập vào văn hóa và các công tŕnh của loài người" (LG 36).

910 (799)   "Các giáo dân cũng có thể cảm thấy được gọi hay thực sự được gọi để cộng tác với các mục tử phục vụ cho sự sống và tăng trưởng của cộng đoàn Hội Thánh, bằng cách thực hành các thừa tác vụ rất khác nhau, tùy theo ân sủng và các đặc sủng Chúa đă ban cho họ" (EN 73).

911 (2245)  "Theo luật Hội Thánh, giáo dân có thể cộng tác vào việc hành sử quyền cai trị" (x. CIC can 129, 2) : Họ tham gia các hội đồng tư vấn (x. Can 443, 4), các hội nghị giáo phận (x. CIC Can 463, 1. 2), các hội đồng mục vụ (x. Can 511;536), thi hành trách nhiệm mục vụ trong giáo xứ (x. Can 517, 2), hợp tác vào những hội đồng kinh tế (x. Can 492, 1), tham gia vào các ṭa án đạo (Can 1421, 2), v. v...

912 (2245)   Các tín hữu phải "lưu tâm phân biệt đâu là quyền lợi và nghĩa vụ của họ với tư cách một phần tử của Hội Thánh, đâu là quyền lợi và nghĩa vụ với tư cách một phần tử trong xă hội loài người. Họ phải cố gắng ḥa hợp cả hai loại nghĩa vụ và quyền lợi đó với nhau và hăy nhớ rằng trong mọi lănh vực trần thế, lương tâm Ki-tô giáo phải luôn hướng dẫn họ, v́ không một hoạt động nào của con người, dù thuộc phạm vi trần thế, có thể vượt khỏi quyền thống trị của Thiên Chúa" (LG 36).

913  "V́ những ân huệ đă lănh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân, vừa là khí cụ sống động cho chính sứ mạng Hội Thánh, "tùy theo mức độ ân sủng Chúa Ki-tô ban cho (Eph 4, 7)" (LG 33)".

III. ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

914 (2103)  "Bậc sống được thành lập do việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật, nhưng vẫn thuộc về đời sống và sự thánh thiện của Hội Thánh" (LG 44).

Các lời khuyên Phúc Âm và đời sống thánh hiến

915 (1973-1974)   Mọi môn đệ Chúa Ki-tô đều được mời gọi sống các lời khuyên Phúc Âm, vốn có rất nhiều. Mọi tín hữu đều được gọi sống đức ái hoàn hảo, nhưng những ai tự nguyện sống đời tận hiến, th́ buộc tuân giữ đức vâng phục, đức nghèo khó, và đức khiết tịnh trong đời sống độc thân v́ Nước Trời. Chính việc tuyên khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, trong một bậc sống ổn định được Hội Thánh công nhận, diễn tả nét đặc thù của "đời sống thánh hiến" cho Thiên Chúa (x. LG 42-43; PC 1).

916 (2687 933)   Bậc sống thánh hiến là một trong những cách thức để được thánh hiến "sâu xa hơn", bắt nguồn từ bí tích Thánh Tẩy và việc tận hiến cho Thiên Chúa (x. PC 5). Trong đời sống thánh hiến, các Ki-tô hữu dưới tác động của Thánh Thần, sẵn sàng theo sát Đức Ki-tô hơn, tự hiến cho Thiên Chúa là Đấng được yêu mến trên hết mọi sự và theo đuổi đức ái hoàn hảo để phục vụ Nước Trời, bày tỏ và loan báo trong Hội Thánh sự vinh quang của thế giới tương lai (x. CIC can 573).

Cây lớn có nhiều cành

917 (2684)   "Như một hạt giống Thiên Chúa đă gieo, nay thành một cây lớn có nhiều cành kỳ diệu trong vườn, cũng thế, trong Hội Thánh phát sinh nhiều lối sống khác nhau, cô tịch hay cộng đoàn; phát sinh nhiều ḍng tu khác nhau mà gia sản thiêng liêng của họ vừa sinh ích cho các ḍng tu ấy vừa có ích cho toàn Nhiệm Thể của Đức Ki-tô" (LG 43).

918  "Ngay từ thời sơ khai của Hội Thánh, đă có những người nam cũng như nữ<177), qua việc thực thi các lời khuyên Phúc Âm, quyết theo Chúa Ki-tô với một tinh thần tự do thanh thoát hơn, bắt chước Người khắng khít hơn, và mỗi người một cách, tất cả đều sống tận hiến cho Thiên Chúa; trong số có nhiều người được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, hoặc là theo đuổi đời sống cô tịch, hoặc đă lập ra những ḍng tu mà Hội Thánh đă sung sướng dùng quyền của ḿnh để đón nhận và phê chuẩn" (PC 1).

919  Các giám mục phải luôn luôn cố gắng phân định những hồng ân mới, được Thánh Thần phó thác cho Hội Thánh. Chỉ Ṭa Thánh mới có quyền phê chuẩn những h́nh thức mới của đời thánh hiến (x. CIC can 605).

Đời ẩn tu

920  Các vị ẩn tu thường không công khai tuyên khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm, "họ dâng hiến cuộc đời để ngợi khen Thiên Chúa và cứu độ thế gian, qua việc triệt để lánh xa trần thế, giữ yên lặng cô tịch, cầu nguyện liên lỉ và sống khổ hạnh đền tội" (CIC can 603, 1).

921 (2719 2015)   Họ cho mọi người thấy mặt trong của mầu nhiệm Hội Thánh là sống mật thiết cá nhân với Đức Ki-tô. Dù người đời không nh́n thấy, nhưng đời ẩn tu là bài giảng thầm lặng về Đức Ki-tô mà vị ẩn tu đă tận hiến cuộc đời cho Người, v́ Người là tất cả mọi sự đối với họ. Đó là lời kêu gọi đặc biệt để ngay trong hoang mạc, giữa cuộc đời chiến đấu thiêng liêng, họ gặp được vinh quang của Đấng chịu đóng đinh.

Các trinh nữ và góa phụ sống đời thánh hiến

922 (1618-1620)   Từ thời các tông đồ, đă có các trinh nữ và góa phụ Ki-tô giáo được Chúa mời gọi để tâm hồn, thể xác và tinh thần được tự do hơn mà gắn bó hoàn toàn với Người (x. 1Cr 7, 34-36). Họ quyết định sống trong bậc đồng trinh hoặc khiết tịnh vĩnh viễn "v́ Nước Trời" (Mt 19, 12). Lối sống này được Hội Thánh phê chuẩn.

923 (1537 1672)  "Để bày tỏ quyết tâm theo sát Đức Ki-tô hơn, các trinh nư, được giám mục giáo phận theo nghi thức phụng vụ đă được phê chuẩn, thánh hiến cho Thiên Chúa, kết hôn cách thần bí với Đức Ki-tô Con Thiên Chúa để phục vụ Hội Thánh" (x. CIC, can. 60 4, 1). Qua nghi thức trọng thể này, "người trinh nữ được thánh hiến, trở thành dấu chỉ siêu việt của t́nh yêu Hội Thánh dành cho Đức Ki-tô và là h́nh ảnh cánh chung của vị Tân Nương trong Nước Trời và của đời sống tương lai" (Nghi thức Thánh Hiến Trinh Nữ, tiểu dẫn 1).

924   "Tương tự với những h́nh thức khác của đời thánh hiến" (x. CIC can 604, 1), bậc đồng trinh đặt người nữ sống giữa thế gian trong kinh nguyện, sám hối, phục vụ anh chị em ḿnh và làm việc tông đồ tùy theo t́nh trạng và đặc sủng của mỗi người (x. Nghi thức Thánh Hiến trinh nữ, tiểu dẫn 2). Các trinh nữ sống đời thánh hiến có thể lập hội, để nhờ sự trợ giúp lẫn nhau, họ thực hiện ư định của họ cách trung thành hơn (x. CIC can 604, 2).

Các ḍng tu

925 (1672)  Đời sống tu tŕ phát sinh từ Đông Phương trong những thế kỷ đầu của Ki-tô giáo (x. UR 15) và được thể hiện trong các ḍng tu được Hội Thánh thành lập theo giáo luật (x. CIC can 573). Lối sống này phân biệt với những h́nh thức khác của đời thánh hiến ở các điểm : tổ chức đời sống phụng tự, công khai khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, sống huynh đệ, làm chứng cho sự kết hợp giữa Đức Ki-tô với Hội Thánh (x. CIC can 607).

926 (796)  Đời sống tu tŕ thuộc về mầu nhiệm Hội Thánh. Đó là hồng ân Hội Thánh tiếp nhận từ Chúa và trao lại như một bậc sống ổn định cho tín hữu được Thiên Chúa mời gọi khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm. Như vậy, Hội Thánh vừa biểu lộ Đức Ki-tô vừa tự nhận ḿnh là Hiền Thê của Đấng Cứu Thế. Đời sống tu tŕ được mời gọi để bày tỏ đức ái của Thiên Chúa trong ngôn ngữ thời đại dưới nhiều dạng khác nhau.

927 (854)   Tất cả tu sĩ, dù miễn trừ hay không (x. CIC can 591), đều là những người hợp tác với giám mục giáo phận trong nhiệm vụ mục vụ của ngài (x. CD 33-35). Các ḍng tu rất cần thiết cho việc khai nguyên và phát triển truyền giáo của Hội Thánh ngay từ buổi đầu của công cuộc phúc âm hoá (x. AG 18; 40). "Lịch sử chứng minh công lao to lớn của các hội ḍng trong việc truyền bá đức tin và trong việc gầy dựng các Giáo Hội mới : từ những đan viện đầu tiên và các ḍng tu thời trung cổ cho đến những tu hội mới hiện nay" (Gio-an Phao-lô II, RM 69).

Các tu hội đời

928  "Tu hội đời là một hội sống đời thánh hiến, trong đó các tín hữu sống giữa đời, hướng tới đức ái trọn hảo và nỗ lực góp phần thánh hóa trần gian ngay giữa ḷng đời" (CIC can 710).

929 (901)   "Nhờ đời sống tận hiến để thánh hóa trần gian" (Piô XII, tông hiến Provida Mater), các thành viên tu hội đời tham dự vào nhiệm vụ phúc âm hóa của Hội Thánh, "ngay giữa đời và từ môi trường đời" (x. PC 11); nơi đó, họ hiện diện và tác động như "men trong bột". Chứng từ đời sống Ki-tô hữu của họ nhằm chỉnh đốn những thực tại trần thế theo thánh ư Thiên Chúa và được thâm nhập vào thế giới sức mạnh của Tin Mừng. Bằng những mối ràng buộc thánh thiện, họ sống các lời khuyên Phúc Âm và ǵn giữ sự hiệp thông huynh đệ thích ứng với lối sống giữa đời của họ (x. CIC 713, 2).

Các hiệp hội tông đồ

930  Bên cạnh những h́nh thức khác nhau của đời thánh hiến, có các hiệp hội tông đồ. Trong các hiệp hội này, các thành viên tuy không có lời khấn ḍng, nhưng theo đuổi nhiệm vụ tông đồ riêng của hội và bằng đời sống chung trong t́nh huynh đệ họ hướng tới Đức Ái hoàn hảo theo nếp sống riêng của họ <139)nhờ việc tuyên giữ hiến chương của hội. Trong số các hiệp hội ấy cũng có những hiệp hội mà các thành viên sống các lời khuyên Tin Mừng theo "hiến chương của họ"(CIC, can. 731, 1. 2).

Sự thánh hiến và sứ mạng : loan báo Đức Vua đang đến

931  Khi chịu phép Thánh Tẩy, các tín hữu đă được thuộc về Thiên Chúa nhờ trao dâng chính ḿnh cho Thiên Chúa, Đấng họ yêu mến trên hết mọi sự. Họ được thánh hiến thâm sâu hơn để phục vụ Thiên Chúa và mưu ích cho Hội Thánh. Nhờ bậc thánh hiến, Hội Thánh biểu lộ Đức Ki-tô và cho thấy Thánh Thần hành động một cách kỳ diệu trong Hội Thánh như thế nào. Vậy những ai khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm như thế, có sứ mạng đầu tiên là sống sự thánh hiến ấy. "Nhưng v́ đă được thánh hiến để phục vụ Hội Thánh, nên họ có nghĩa vụ góp phần đặc biệt vào việc truyền giáo, theo cách thức riêng của tu hội ḿnh" (CIC, can. 783; RM 69).

932 (775)  Trong Hội Thánh như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự sống Thiên Chúa, đời thánh hiến là dấu chỉ đặc biệt của mầu nhiệm cứu chuộc. Dơi bước và theo gương Đức Ki-tô "sát hơn, " bày tỏ "rơ hơn" sự tự hạ của Người, là hiện diện "cách sâu sắc hơn" với anh em trong t́nh yêu Chúa Ki-tô. V́ những ai đi trong con đường "hẹp hơn" này, cổ vũ anh em bằng gương sáng của ḿnh, họ làm chứng rơ ràng là thế giới "không thể cải tạo và dâng hiến cho Thiên Chúa được nếu không có tinh thần các mối phúc thật" (LG 31)

933 (672)  Việc quang lâm của Đức Ki-tô luôn là nguồn gốc và phương hướng cho đời sống của tất cả những ai sống đời thánh hiến, dù chứng từ của họ công khai như trong bậc tu tŕ, hoặc kín đáo hơn hay cả bí mật nữa.

769  "Bởi dân Thiên Chúa không đặt thành tŕ vĩnh viễn ở đời này... V́ thế, đời sống thánh hiến tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải trên trời đă có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Ki-tô đă đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời" (LG 44).

TÓM LƯỢC

934   "Do Thiên Chúa thiết lập, trong số các tín hữu của Hội Thánh, có những thừa tác viên có chức thánh, theo luật gọi là giáo sĩ c̣n những người khác được gọi là giáo dân. "Có những tín hữu thuộc cả hai thành phần trên, được thánh hiến cho Thiên Chúa để phục vụ sứ mạng Hội Thánh qua việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm (CIC, can. 207, 1. 2.)

935   Đức Ki-tô sai các tông đồ và những người kế nhiệm rao truyền đức tin và gầy dựng Nước Trời. Người cho họ tham gia vào sứ mạng của ḿnh. Và ban cho họ quyền hành động thay Người.

936  Chúa đặt thánh Phê-rô làm nền tảng hữu h́nh của Hội Thánh. Và trao cho ông các ch́a khóa Nước Trời. Giám Mục Rô-ma, vị kế nhiệm thánh Phê-rô, là "thủ lănh Giám Mục Đoàn. người đại diện Đức Ki-tô và Mục tử của toàn thể Hội Thánh trên thế gian" (CIC, can. 331)

937  Do Chúa thiết lập, Đức Giáo Hoàng "được hưởng quyền tối cao, trọn vẹn, trực tiếp và phổ quát trong việc chăm sóc các linh hồn" (CD 2).  

938  Được Thánh Thần thiết đặt, các Giám mục là những người kế nhiệm các tông đồ. "Mỗi Giám mục, là nguyên lư và nền tảng hữu h́nh của sự hiệp nhất trong Hội Thánh địa phương" (LG 23).

939   Được các cộng sự viên là linh mục và Phó tế giúp đỡ, các giám mục có thẩm quyền chính thức giảng dạy đức tin, cử hành phụng tự, nhất là Thánh thể, điều hành Hội thánh địa phương như mục tử đích thực. Cùng với Đức Giáo Hoàng và dưới quyền Đức Giáo Hoàng, các ngài phải quan tâm đến toàn thể các Hội Thánh.

940   "V́ bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và lo việc đời, nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi, để nhờ sức mạnh tinh thần Ki-tô giáo của ḿnh, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột"(AA 2).

941  Người giáo dân tham gia vào nhiệm vụ tư tế của Đức Ki-tô: càng kết hợp với Người, họ càng khai triển ân sủng của bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức trong mọi chiều kích của đời sống cá nhân, gia đ́nh, xă hội và Hội Thánh; như vậy, họ đáp lại lời mời gọi nên thánh dành cho những ai đă được rửa tội.

942  Nhờ sứ mạng ngôn sứ, người giáo dân "c̣n được kêu gọi làm chứng cho Chúa Ki-tô trong mọi hoàn cảnh và giữa cộng đồng nhân loại" (GS 43, 4).  

943  Nhờ sứ mạng vương giả, người giáo dân có khả năng chiến thắng tội lỗi nơi bản thân và trong thế giới, bằng đời sống từ bỏ và thánh thiện (x. HLG 36).

944   Đặc tính của đời sống thánh hiến cho Thiên Chúa là công khai khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm về nghèo khó, khiết tịnh và vâng phục trong một bậc sống ổn định được Hội Thánh phê chuẩn.

945   Kẻ nhờ Phép Rửa đă được thuộc về Thiên Chúa th́ nhờ được thánh hiến cho Thiên Chúa là Đấng họ yêu mến trên hết mọi sự, họ càng dấn thân sâu xa hơn để phục vụ Thiên Chúa và mưu ích cho Hội Thánh.