Tiết 2 : Đức Giê-su chịu chết trên Thánh Giá

I. VỤ ÁN ĐỨC GIÊ-SU

Chia rẽ giữa các nhà chức trách Do Thái về Đức Giê-su

595  Đức Giê-su luôn là cớ gây chia rẽ giữa các nhà chức trách tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem. Thế nhưng vẫn có những người âm thầm theo làm môn đệ Chúa Giê-su như : ông Ni-cô-đê-mô (x. Ga 7, 50) thuộc nhóm Pha-ri-sêu và Gio-sép thành A-ri-ma-tha (x. Ga 19, 38-39); cho nên trước ngày Người chịu khổ nạn, thánh Gio-an có thể nói về họ rằng : "Ngay cả trong giới lănh đạo Do Thái, cũng có nhiều người đă tin vào Đức Giê-su, nhưng họ không dám xưng ra, kẻo bị khai trừ khỏi Hội Đường" (Ga 12, 42). Điều này không có ǵ lạ, v́ sau lễ Hiện Xuống "có nhiều tư tế đón nhận đức tin" (Cv 6, 7) và "có những người nhóm Pha-ri-sêu đă trở thành tín hữu" (Cv 15, 5), đến nỗi thánh Gia-cô-bê có thể nói với thánh Phao-lô rằng : "Có hàng vạn người Do Thái đă tin theo và tất cả đều nhiệt thành đối với luật Mô-sê" (Cv 21, 20).  

596 (1753)  Các nhà chức trách tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem đă không nhất trí với nhau trong cách xử sự đối với Đức Giê-su (x. Ga 9, 16; 10, 19). Nhóm Pha- ri-sêu dọa tuyệt thông những ai theo Người (x. Ga 9, 22). Với những người sợ rằng "mọi người sẽ tin vào Đức Giê-su, rồi người Rô-ma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta" (Ga 11, 48), Thượng Tế Cai-pha đă nói tiên tri khi đề nghị : "Điều có lợi cho các ông là : thà một người chết thay cho dân, c̣n hơn là toàn dân bị tiêu diệt" (Ga 11, 49-50). Thượng Hội Đồng tuyên bố Đức Giê-su "đáng chết" (Mt 26, 66) v́ tội phạm thượng, nhưng v́ đă mất quyền xử tử (x. Ga 18, 31), Thượng Hội Đồng đă nộp Đức Giê-su cho người Rô-ma, tố cáo Người về tội xách động chính trị, và liệt Người đồng hàng với Ba-ra-ba và bị tố cáo là "phiến loạn"(Lc 23, 19). Các thượng tế cũng đưa ra những lời đe dọa chính trị như vậy để buộc Phi-la-tô kết án tử h́nh Đức Giê-su (x. Ga 19, 12. 15, 21).

Người Do Thái không phải chịu trách nhiệm tập thể về cái chết của Đức Giê-su
 
597 (1735)  V́ tính cách phức tạp về lịch sử trong vụ án Chúa Giê-su được các Tin Mừng thuật lại, cũng như lỗi lầm cá nhân của những người tra tay vào vụ án (Giu-đa, Thượng Hội Đồng, Phi-la-tô). Chỉ ḿnh Thiên Chúa biết, nên chúng ta không thể qui trách nhiệm của tội đó cho toàn thể người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem, mặc dù đám đông có bị xúi giục la ó (x. Mc 15, 11), và trong những bài giảng kêu gọi hoán cải sau lễ Hiện Xuống (x. Cv 2, 23. 36; 3, 13-14; 4, 10; 5, 30; 7, 52; 10, 39; 13, 27 28; 1Tx 2, 14-15), các tông đồ có trách móc cả tập thể người Do Thái đi nữa. Chính Đức Giê-su trên thập giá đă tha thứ cho họ rồi (x. Lc 23, 34), sau đó thánh Phê-rô cũng coi những người Do Thái ở Giê- ru-sa-lem và cả các thủ lănh của họ đă hành động v́ "không biết" (Cv 3, 17). Chúng ta lại càng không thể dựa trên tiếng ḥ hét của dân chúng : "Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi" (Mt 27, 25), chỉ có nghĩa như một công thức thừa nhận bản án (x. Cv 5, 28; 18, 6), mà nới rộng trách nhiệm cho những người Do thái khác mọi thời và mọi nơi :

839  Hội Thánh tuyên bố tại Công đồng Va-ti-ca-nô II : "Không thể qui trách nhiệm một cách hàm hồ những tội ác đă phạm trong khi Đức Giê-su bị khổ nạn cho hết mọi người Do Thái thời đó, cũng như cho người Do Thái thời nay ... . Từ Thánh Kinh (x. NA 4), không thể rút ra kết luận : "Thiên Chúa đă loại bỏ người Do Thái hoặc đă chúc dữ họ. "

Mọi kẻ tội lỗi là thủ phạm gây ra cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô

598  Qua huấn quyền của ḿnh và chứng từ của các thánh, Hội Thánh không bao giờ quên rằng chính những "kẻ phạm tội là thủ phạm và như là dụng cụ thực hiện những cực h́nh mà Chúa Cứu Thế phải chịu" (Giáolư Rô-ma 1, 5. 11; x. Dt 12, 3). V́ tội lỗi chúng ta xúc phạm đến chính Đức Ki-tô (x. Mt 25, 45; Cv 9, 4-5), nên Hội Thánh không ngần ngại qui cho các Ki-tô hữu trách nhiệm nặng nhất về cực h́nh Đức Giê-su phải chịu, trách nhiệm mà họ thường trút đổ trên người Do Thái mà thôi :

(1851)  Chúng ta phải coi những kẻ sa đi ngă lại trong tội lỗi là những người đă phạm lỗi tầy trời ấy. Bởi lẽ, chính tội ác của chúng ta đă làm Đức Giê-su Ki-tô phải chịu khổ h́nh thập giá, th́ chắc chắn rằng những ai ch́m đắm trong gian tà cũng "tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa, và đă công khai sĩ nhục Người" (Dt 6, 6). Và phải nh́n nhận rằng, tội ác của chúng ta trong trường hợp này nặng hơn tội của người Do Thái. V́ theo thánh Phao-lô, "nếu họ đă được biết Vua vinh hiển, họ đă chẳng đóng đinh Người vào thập giá" (1Cr 2, 8). Trái lại, chúng ta tuyên xưng rằng chúng ta biết Người, nên khi chúng ta chối bỏ Người bằng những hành động, có thể nói được rằng chúng ta đă tra tay giết Người (Giáo lư Rô-ma 1, 5, 11).

Không phải quỉ dữ đă đóng đinh Người trên thập giá; chính bạn cùng với chúng đă đóng đinh Người vào thập giá; và c̣n đang đóng đinh Người nữa, khi bạn thích thú trong thói xấu và tội lỗi (T. Phan-xi-cô Át-xi-di, khuyến dụ 5, 3).

II. CÁI CHẾT CỨU CHUỘC CỦA ĐỨC KI-TÔ TRONG Ư ĐỊNH CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA

"Đức Giê-su đă bị nộp theo ư định của Thiên Chúa"

599 (517)  Cái chết đau thương của Đức Giê-su không phải là hậu quả của ngẫu nhiên do các hoàn cảnh bất ngờ hợp lại. Điều này thuộc về mầu nhiệm của ư định Thiên Chúa, như thánh Phê-rô giải thích cho người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem ngay từ bài giảng đầu tiên trong ngày lễ Hiện Xuống : "Người đă bị nộp theo ư Thiên Chúa đă định và biết trước" (Cv 2, 23). Kinh Thánh nói như vậy không có nghĩa là những kẻ đă "nộp Đức Giê-su " (Cv 3, 13) chỉ thụ động nhập vai trong một kịch bản do Thiên Chúa đă viết trước.
 
600 (312)  Đối với Thiên Chúa mọi thời điểm đều là hiện tại. Khi tiền định một điều ǵ đó trong kế hoạch vĩnh cửu, Người cũng "tiền định" tùy theo quyền của mỗi người tự do đáp trả ân sủng của Người : "Đúng vậy, Hê-rô-đê, Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng với các dân ngoại và dân chúng Ít-ra-en đă toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Người là Đức Giê-su, Đấng Người đă xức dầu. (x. Tv 2, 1-2) Như thế họ đă thực hiện tất cả những ǵ quyền năng và sự khôn ngoan của Người đă định trước" (Cv 4, 27-28). Thiên Chúa cho phép xảy ra những hành vi do sự mù quáng của họ (x. Mt 26, 54; Ga 18, 36;19, 11), để thực hiện ư định cứu độ của Người (x. Cv 3, 17-18).

"Chết v́ tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh"

601 (652 713)   Ư định cứu độ của Thiên Chúa là giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi nhờ cái chết của "Người Tôi Tớ, Đấng Công Chính" (Is 53, 11) (x. Cv 3, 14), ư định này đă được báo trước trong Kinh Thánh như là mầu nhiệm cứu chuộc phổ quát (x. Is 53, 11-12; Ga 8, 34-36). Thánh Phao-lô tuyên xưng đức tin mà Người đă "lănh nhận "(1Cr 15, 3): "Đức Ki-tô đă chết v́ tội lỗi chúng ta, <BI)đúng như lời Thánh Kinh" (x. Cv 3, 18; 7, 52; 13, 29; 26, 22-23)). Cái chết cứu chuộc của Đức Giê-su ứng nghiệm lời tiên tri về Người Tôi Tớ đau khổ. (x. Is. 53, 7-8; et Cv 8, 32-35) Chính Đức Giê-su đă tŕnh bày ư nghĩa cuộc sống và cái chết của Người dưới ánh sáng của những lời nói về Người Tôi Tớ đau khổ (x. Mt 20, 28). Sau phục sinh, Người cũng giải thích Thánh Kinh như thế cho các môn đệ đi Em-mau (x. Lc 24, 25-27), rồi cho chính các tông đồ (x. Lc 24, 44-45).

"V́ chúng ta, Thiên Chúa đă coi Người như hiện thân của tội lỗi"

602 (400 519)   V́ thế, thánh Phê-rô có thể tŕnh bày đức tin tông truyền về ư định cứu độ của Thiên Chúa như sau : "Anh em đă được giải thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Anh em đă được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô t́ tích, là Đức Ki-tô. Người là Đấng Thiên Chúa đă biết từ trước khi chưa có vũ trụ, và đă xuất hiện v́ anh em trong thời cuối cùng này" (1 Pr 1, 18-20). Con người phải chết v́ những tội lỗi xuất phát từ nguyên tội (x. Rm 5, 12; 1Cr 15, 56). Khi cử chính Con Một Người đến trong thân phận tôi đ̣i (x. Pl 2, 7), thân phận loài người sa đoạ và phải chết v́ tội lỗi (x. Rm 8, 3), "Thiên Chúa v́ chúng ta, đă coi Đức Ki-tô, Đấng không hề biết tội là ǵ, như hiện thân của tội lỗi, để trong Người, chúng ta được trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa" (2Cr 5, 21).

603  V́ không hề phạm tội, Đức Giê-su không bao giờ bị Thiên Chúa ruồng bỏ (x. Ga 8, 46). Đức Giê-su đă đón nhận chúng ta trong t́nh yêu cứu chuộc hằng liên kết Người với Chúa Cha (x. Ga 8, 29), cho đến độ Người xem như bị tách ĺa Thiên Chúa v́ tội chúng ta, nên Người thay chúng ta mà thốt lên trên thập giá : "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con!" (Mc 15, 34;Tv 22, 1). V́ đă muốn liên kết Đức Ki-tô với chúng ta là những kẻ tội lỗi, nên Thiên Chúa "đă chẳng dung tha, nhưng đă trao nộp chính Con Một của Người v́ hết thảy chúng ta"(Rm 8, 32), để chúng ta "được hoà giải với Người nhờ cái chết của Con Một Người" (Rm 5, 10).

V́ yêu thương, Thiên Chúa đi bước trước để cứu chuộc mọi người

604 (211, 2009 1825)  Khi trao nộp Con của Người v́ tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa cho thấy ư định yêu thương của Người đi trước mọi công trạng của chúng ta : "T́nh yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đă yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta, và đă cử Con của Người đến hy sinh làm của lễ đền tội cho chúng ta" (1Ga 4, 10) (x. 4, 19). "Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, là Đức Ki-tô đă chết v́ chúng ta, ngay khi chúng ta c̣n là tội nhân" (Rm 5, 8).

605 (202 634, 2793)   T́nh thương này không loại trừ một ai, Đức Giê-su nhắc lại điều này để kết luận dụ ngôn về con chiên lạc: "Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Mt 18, 14). Người khẳng định "sẽ hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20, 28). Thuật ngữ này không có ư thu hẹp số người được cứu độ, nhưng chỉ muốn đối chiếu toàn thể nhân loại đông đảo với một ḿnh Đấng Cứu Độ, tự hiến để cứu chuộc muôn người (x. Rm 5, 18-19). Hội Thánh nối gót các tông đồ dạy rằng : (x. 2 Cr 5, 15; 1Ga 2, 2) Đức Ki-tô đă chết cho hết thảy mọi người không trừ một ai. "Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Đức Giê-su không chịu chết cho họ" (x. Cđ. Quierey năm 853: DS 624).

III. ĐỨC KI-TÔ ĐĂ HIẾN DÂNG CHÍNH M̀NH CHO CHÚA CHA V̀ TỘI LỖI CHÚNG TA

Tất cả cuộc sống của Đức Ki-tô là của lễ dâng hiến Chúa Cha

606 (517 536)  Con Thiên Chúa, Đấng "từ trời xuống, không phải để làm theo ư Người, nhưng để làm theo ư Đấng đă cử Người" (Ga 6, 38), "khi vào trần gian, Người nói:... Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ư Ngài... Chính theo ư đó của Thiên Chúa, mà chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đă hiến dâng thân ḿnh làm lễ tế, chỉ một lần là đủ" (Dt 10, 5-10). Ngay từ phút đầu tiên khi nhập thể, Chúa Con sống chết với ư định cứu độ của Thiên Chúa trong sứ vụ cứu thế của ḿnh : "Lương thực nuôi sống Thầy là thi hành ư muốn của Đấng đă sai Thầy, và hoàn tất tốt đẹp công tŕnh của Người" (Ga 4, 34). Lễ hy sinh của Đức Giê-su "đền bù tội lỗi cả thế gian" (1Ga 2, 2) là cách diễn tả sự thông hiệp t́nh yêu với Chúa Cha : "Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, chính v́ tôi hy sinh mạng sống ḿnh" (Ga 10, 17). "Thế gian phải biết rằng tôi yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đă truyền cho tôi" (Ga 14, 31).

607 (457)  Ước muốn sống chết với ư định yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha là động lực cho cả cuộc đời Đức Giê-su (x. Lc 12, 50; 22, 15; Mt 16, 21-23), v́ cuộc khổ nạn cứu thế là lư do khiến Người nhập thể : "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này ! Nhưng chính v́ giờ này mà con đă đến" (Ga 12, 27). "Chén đắng Chúa Cha đă trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?" (Ga 18, 11). Và trên Thập Giá, trước khi "mọi sự đă hoàn tất" (Ga19, 30), Người c̣n nói : "Tôi khát!" (Ga 19, 28).

"Chiên xóa bỏ tội trần gian"

608 (523 517)  Sau khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giê-su giữa những kẻ tội lỗi (x. Lc 3, 21; Mt 3, 14-15), Gio-an Tẩy Giả đă thấy và giới thiệu Người : "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1, 29) (x. Ga 1, 36). Như vậy ông cho thấy rằng Đức Giê-su vừa là Người Tôi Tớ đau khổ, im lặng chịu dẫn đến ḷ sát sinh (Is 53, 7) (x. Gr 11, 19) và gánh tội lỗi muôn dân (x. Is 53, 12), vừa là Chiên Vượt Qua biểu tượng cho việc Ít-ra-en được cứu chuộc trong cuộc Vượt Qua lần đầu (Xh 12, 3-14) (x. Ga 19, 36; 1Cr 5, 7). Toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô diễn tả sứ mạng của Người là "hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10, 45).

Đức Giê-su tự nguyện sống chết theo t́nh thương cứu chuộc của Chúa Cha
 
609 (478 515 272, 539)  Khi sống chết với t́nh thương của Chúa Cha dành cho con người bằng trọn trái tim nhân loại của ḿnh, Đức Giê-su "đă thương yêu họ đến cùng" (Ga 13, 1) "v́ không có t́nh thương nào lớn hơn t́nh thương của người hy sinh mạng sống ḿnh cho bạn hữu" (Ga 15, 13). Như vậy, trong đau khổ và cái chết, nhân tính của Người đă trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo cho t́nh yêu Thiên Chúa luôn ước muốn cứu chuộc loài người (x. Dt 2, 10, 17-18; 4, 15; 5, 7-9). Quả thật, Người đă tự do chấp nhận chịu nạn và chịu chết v́ yêu mến Chúa Cha và yêu mến loài người mà Chúa Cha muốn cứu độ : "Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ư hy sinh mạng sống ḿnh" (Ga 10, 18). Do đó, Chúa Con đă tự do tột bực khi hiến thân chịu chết (x. Ga 18, 4-6; Mt 26, 53).

Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đă tự do hiến dâng mạng sống của ḿnh trước

610 (766 1337)  Vào "đêm bị nộp" (1Cr 11, 23) Đức Giê-su diễn tả tột độ việc tự hiến bản thân Người trong bữa tiệc với mười hai tông đồ (x. Mt 26, 20) . Hôm trước ngày chịu nạn, khi c̣n hoàn toàn tự do, Đức Giê-su đă biến buổi Tiệc Ly với các tông đồ thành lễ tưởng niệm việc Người tự nguyện hiến dâng cho Chúa Cha (x. 1Cr 5, 7) để cứu độ nhân loại : "Đây là Ḿnh Thầy hiến tế v́ anh em" (Lc 22, 19). "Đây là Máu Thầy, Máu để lập Giao ước sẽ đổ ra cho muôn người được tha tội" (Mt 26, 28).  

611 (1364 1341, 1566)  Bí tích Thánh Thể Chúa Giê-su thiết lập sẽ là "lễ tưởng niệm" (1Cr 11, 25) hy tế của Người. Người hội nhập các tông đồ vào lễ hiến dâng của Người và yêu cầu họ lưu truyền hy lễ này măi măi (x. Lc 22, 19). Như thế, Đức Giê-su đặt các tông đồ làm tư tế Giao Ước mới : "V́ họ, con xin thánh hiến chính ḿnh con, để trong chân lư, họ cũng được thánh hiến" (Ga 17, 19) (x. Cđ. Trente: DS 1752;1764).

Đức Giê-su hấp hối trong vườn Giết-sê-ma-ni

612 (533, 2600 1009)  Chén Giao Ước mới mà Đức Giê-su đă dâng trước trong bữa Tiệc Ly, giờ đây, Người lănh nhận từ tay Cha trong cơn hấp hối tại Giết-sê-ma-ni (x. Mt 26, 42), khi Người "vâng lời cho đến nỗi bằng ḷng chịu chết" (Pl 2, 8; Dt 5, 7-8). Đức Giê-su cầu nguyện : "Lạy Cha, nếu được, xin cho con khỏi uống chén đắng này... " (Mt 26, 39). Người diễn tả nỗi khiếp sợ mà nhân tính của Người cảm nghiệm trước cái chết. Thật vậy, nhân tính của Đức Giê-su cũng như của chúng ta được Thiên Chúa dựng nên để sống đời đời, nhưng khác với chúng ta, nhân tính này hoàn toàn không có tội (x. Dt 4, 15), mà tội mới gây nên sự chết (x. Rm 5, 12); nhất là nhân tính này đă được Ngôi Vị Thiên Chúa của "Đấng khơi nguồn sự sống" (Cv 3, 15), "Đấng hằng sống" (Kh 1, 17) (x Ga 1, 4;5, 26) đảm nhận. Với ư chí nhân loại, Đức Giê-su chấp nhận thánh ư Chúa Cha (x. Mt 26, 42), đón nhận cái chết để cứu độ con người, nhờ đó "tội lỗi chúng ta, chính Người mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá" (1Pr 2, 24).

Đức Giê-su chịu chết làm hy lễ duy nhất và chung cuộc

613 (1366 2009) Đức Ki-tô chịu chết vừa là hy tế Vượt Qua hoàn tất việc cứu độ chung cuộc loài người (x. 1Cr 5, 7; Ga 8, 34-36)v́ "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1, 29) (x. 1Pr 1, 19), vừa là hy tế của Giao Ước Mới (x. 1Cr 11, 25) cho con người hiệp thông lại với Thiên Chúa (x. Xh 24, 8), bằng cách giao ḥa con người với Thiên Chúa nhờ "máu được đổ ra cho muôn người được tha tội" (Mt 26, 28) (x. Lv 16, 15-16).

614 (529, 1330 2100)  Hy tế của Đức Ki-tô là duy nhất, hoàn tất và vượt trên mọi hy tế (x. Dt 10, 10). Trước hết hy tế này là một hồng ân của chính Chúa Cha : Chúa Cha phó nộp Con Ḿnh để giao ḥa chúng ta với Người (x. 1 Ga 4, 10). Kế đến, đây cũng là việc Chúa Con làm người, với ư chí tự do và v́ mến yêu (x. Ga 15, 13), hiến dâng mạng sống ḿnh (x. Ga 10, 17-18) cho Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần (x. Dt 9, 14), để đền bù sự bất tuân của chúng ta.

Đức Giê-su thay thế sự bất tuân của chúng ta bng sự vâng phục của Người

615 (1850 433 411)  "Cũng như v́ một người duy nhất đă không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người bị liệt vào hàng tội nhân, th́ nhờ một người duy nhất đă vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ được kể là công chính" (Rm 5, 19). Nhờ vâng phục cho đến chết, Đức Giê-su đảm nhận hoàn toàn vai tṛ Người Tôi Tớ đau khổ, "hiến mạng sống ḿnh làm Của lễ đền tội muôn dân", "khi làm cho họ nên công chính bằng cách chính Người gánh lấy tội lỗi của họ" (Is 53, 10-12). Đức Giê-su đă đền bù và đền tạ thỏa đáng cho Chúa Cha v́ tội lỗi của chúng ta (Cđ Tren-tô:DS 1529).  

Đức Giê-su hoàn thành hy lễ của Người trên thập giá

616 (478 468 519)  V́ Đức Giê-su đă "yêu thương đến cùng" (Ga 13, 1) nên hy tế của Người có giá trị cứu chuộc và đền bù, xá tội và đền tạ. Người biết và thương yêu hết thảy chúng ta trong việc hiến dâng mạng sống của Người (x. Ga 2, 20; Ep. 5, 2. 25). "T́nh yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, khi chúng tôi nghĩ rằng : nếu một người đă chết thay cho mọi người, th́ mọi người đều chết" (2 Cr 5, 14). Không ai, dù thánh thiện nhất, có thể gánh hết tội lỗi mọi người và hiến ḿnh làm hy lễ cho mọi người. V́ là Con Thiên Chúa, Đức Ki-tô vừa vượt trổi vừa đồng thời bao gồm mọi người và là đầu toàn thể nhân loại, nên Người mới có thể dâng hy tế cứu chuộc mọi người.

617 (1992 1235)  Nhấn mạnh đến hy lễ duy nhất của Đức Ki-tô như "nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu" (Dt 5, 9), Công Đồng Tren-tô dạy (DS 1529) : "Nhờ cuộc khổ nạn trên cây thập giá, Đức Ki-tô công chính hoá chúng ta". Và khi tôn kính Thánh Giá, Hội Thánh ca ngợi : "Ôi Thánh Giá, nguồn cậy trông duy nhất của chúng con !"

Đức Ki-tô cho chúng ta tham dự vào hy tế của Người

618 (1460 307, 2100 964)   Thánh Giá là hy tế duy nhất của Đức Ki-tô, "Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người" (1Tm 2, 5). Nhưng, v́ khi nhập thể, Con Thiên Chúa "đă kết hợp với tất cả mọi người" (GS 22, 2), nên đă "ban cho mọi người khả năng được thông phần vào mầu nhiệm Vượt Qua cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi" (GS 22, 5). Người mời gọi môn đệ "vác thập giá ḿnh mà theo Người" (Mt 16, 24), v́ "Người đă chịu đau khổ v́ chúng ta, đă để lại một gương mẫu cho chúng ta dơi bước theo Người" (1 Pr 2, 21). Thật vậy, Người muốn cho những kẻ đầu tiên được hưởng nhờ hy tế đó, cùng thông phần vào hy tế cứu độ của Người (x. Mc 10, 39; Ga 21, 18-19; Cl 1, 24). Điều ấy được thể hiện tột bực nơi Thân Mẫu của Người, Đấng đă thông phần vào mầu nhiệm đau thương cứu độ của Người mật thiết hơn ai khác (x. Lc 2, 35):

“Ngoài thập giá, không có chiếc thang nào khác để lên trời" (T. Rô-sa thành Li-ma,).

TÓM LƯỢC
 
619  Đức Ki-tô đă chết v́ tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh " (1Cr 15, 3)

620  V́ yêu mến, Thiên Chúa đă đi bước trước để cứu độ chúng ta. "Người đă yêu thương chúng ta, và cử Con của Người đến hy sinh làm của lễ đền tội cho chúng ta" (1Ga 4, 10). "Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đă cho thế gian được hoà giải với Người" (2Cr 5, 19).

621  Đức Giê-su tự hiến để cứu độ chúng ta. Người cho thấy ư nghĩa và thể hiện trước sự tự hiến này trong bữa Tiệc Thánh : "Đây là ḿnh Thầy, hiến tế v́ anh em" (Lc 22, 19).

622  Đức Ki-tô cứu chuộc nhân loại bằng cách "hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20, 28), nghĩa là "thương yêu những kẻ thuộc về ḿnh đến cùng" (Ga 13, 1), để "giải thoát họ khỏi lối sống phù phiếm do cha ông họ truyền lại" (1Pr 1, 18).

623  Nhờ yêu thương vâng phục Chúa Cha "đến nỗi chết trên cây thập giá" (Pl 2, 8), Đức Giê-su hoàn tất sứ mạng đền tội của Người Tôi Tớ đau khổ, "làm cho muôn người nên công chính bằng cách gánh lấy tội lỗi của họ" (Is 53, 11; x. Rm 5, 19).