Tiết 7 : Sự sa ngă


385 (309 457 1848 539)  Thiên Chúa vô cùng tốt lành nên mọi công tŕnh của Người đều tốt đẹp. Tuy nhiên, không ai thoát được kinh nghiệm về đau khổ, về những sự dữ trong thiên nhiên, những sự dữ này h́nh như gắn liền với các giới hạn riêng của loài thụ tạo, và nhất là sự dữ luân lư. Sự dữ từ đâu đến? Thánh Âu-tinh nói : "Tôi đă t́m căn nguyên của sự dữ và tôi không thấy có giải đáp nào" (x. Conf 7, 7, ll), và cuộc t́m kiếm đau thương của thánh nhân chỉ t́m được lối thoát lúc người hoán cải trở về với Thiên Chúa hằng sống. V́ "mầu nhiệm của sự gian ác" (2 Tx 2, 7) chỉ được sáng tỏ qua "mầu nhiệm của ḷng thành tín" (l Tm 3, l6). T́nh yêu của Thiên Chúa được mặc khải trong Đức Ki-tô đă biểu lộ một trật cả trương độ của sự dữ và sự đại của ân sủng (x. Rm 5, 20). Vậy chúng ta phải nghiệm xét vấn đề căn nguyên sự dữ với đôi mắt đức tin hướng về Đấng duy nhất đă chiến thắng nó (x. Lc. ll, 2l-22; Ga l6, ll; lGa 3, 8).
 
I. NƠI ĐÂU TỘI LỖI NGẬP TRÀN, Ở ĐẤY CHỨA CHAN ÂN SỦNG
 
Thực tại của tội lỗi
 
386 (1847) TộI lỗi hiện diện trong lịch sử loài người. Thật là vô ích khi kiếm cách làm ngơ hoặc tránh né thực tại bi đát này bằng cách gán cho nó những tên khác. Muốn hiểu tội là ǵ, trước tiên phải nhận chân mối tương quan mật thiết giữa con người với Thiên Chúa. Bởi v́, ngoài mối tương quan đó, chúng ta không thể hiểu căn tính đích thực của tội là chối bỏ và chống đối Thiên Chúa, cho dù tội lỗi vẫn đè nặng trên đời sống và lịch sử của con người.
 
387 (1848 1739)  Thực tại của tội lỗi, nhất là của nguyên tội, chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng mặc khải của Thiên Chúa. Mặc khải này giúp ta nhận biết Thiên Chúa; không có mặc kha<150)i này ta không thể nhận chân tội lỗi là ǵ và sẽ t́m cách giải thích nó như một khiếm khuyết trong quá tŕnh phát triển, một nhược điểm tâm lư, một sai lầm hoặc là hậu quả tất yếu của một cơ cấu xă hội không tương xứng v. v... Chỉ khi nào nhận biết được ư định của Thiên Chúa về con người, lúc đó người ta mới hiểu tội là lạm dụng sự tự do Chúa ban cho con người được sáng tạo để yêu mến Chúa và yêu mến nhau.
 
Nguyên tội - một chân lư chính yếu của đức tin
 
388 (431 208 359 729)  Qua quá tŕnh mặc khải, người ta hiểu rơ thực tại của tội hơn. Mặc dầu trong Cựu ước, dân Thiên Chúa đă đề cập đến thân phận đau thương của kiếp người qua ánh sáng lịch sử của sự sa ngă được thuật lại trong sách Sáng Thế, họ vẫn không thể nắm bắt được ư nghĩa tối hậu của lịch sử đó; lịch sử này chỉ được bày tỏ trong ánh sáng của sự chết và phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô mà thôi. Phải biết Đức Ki-tô là nguồn ân sủng mới nhận ra A-đam là căn nguyên của tội lỗi. Được Đức Ki-tô Phục sinh cử đến, Chúa Thánh Thần - Đấng Bào Chữa đă "tố cáo tội lỗi thế gian" (Ga l6, 8) bằng cách mặc khải Đấng Chuộc Tội.
 
389 (422) Có thể nói giáo lư về nguyên tội là "mặt trái" của Tin Mừng loan truyền Đức Giê-su là Đấng Cứu thế, mọi người đều cần được cứu độ và ơn cứu độ được ban cho tất cả nhờ Đức Ki-tô. Nhờ có cảm thức về Đức Ki-tô (x. lCr. 2, l6), Hội Thánh biết rơ không thể động chạm đến mặc khải về nguyên tội mà không động chạm đến Mầu Nhiệm Đức Ki-tô.
 
Để hiểu tŕnh thuật về sự sa ngă

390 (289)  Tŕnh thuật về sự sa ngă (St 3) sử dụng một ngôn ngữ tượng h́nh, nhưng xác định một biến cố hàng đầu xảy ra vào thời khởi nguyên lịch sử nhân loại(x. GS l3, l). Mặc khải giúp chúng ta xác tín rằng tất cả lịch sử nhân loại đều mang dấu tích nguyên tội mà nguyên tổ đă cố t́nh phạm (x. Cđ. Tren-tô: DS l5l3 ; Pi-ô XII; DS 3897; Phao-lô VI bài giảng ll/7/ l966).
 
II. SỰ SA NGĂ CỦA CÁC THIÊN THẦN
 
391 (2538)  Đằng sau sự lựa chọn bất tuân của các nguyên tổ có một tiếng gọi quyến rũ chống lại Thiên Chúa (x. St 3, l-5), v́ ganh tị với con người, đă đưa nguyên tổ sa vào cơi chết (x. St 2, 24). Thánh Kinh và Truyền Thống của Hội Thánh đă cho nhân vật đó là một thiên thần sa ngă gọi là Xa-tan hay ma quỷ (x. Ga 8, 44; Kh 12, 9). Hội Thánh dạy rằng thoạt đầu đó là một thiên thần tốt do Thiên Chúa tác tạo. "Chắc chắn quỷ dữ và các thứ ma quỷ khác đều được Thiên Chúa sáng tạo với bản tính tốt lành, nhưng tự chúng đă trở nên xấu" (x. Cđ. La-tran IV năm 1215 : DS 800).
 
392 (1850 2482)  Kinh Thánh có nói đến một tội của các thiên thần này (x. 2Pr 2, 4). Việc sa ngă là do các thụ tạo thuần linh ấy đă tự do chọn lựa từ chối Thiên Chúa và Vương Triều của Người cách triệt để và dứt khoát. Cuộc nổi loạn này được phản ánh trong lời của tên cám dỗ nói với các nguyên tổ : "Các người sẽ trở nên như Thiên Chúa" (St 3, 5). Ma quỷ là kẻ "phạm tội ngay từ thuở sơ khai" (l Ga 3, 8), là "cha sự dối trá"
(Ga 8, 44).

 
393 (1033- 1037 1022)  Không phải v́ Thiên Chúa thiếu ḷng thương xót nhưng v́ các thiên thần ấy đă chọn lựa dứt khoát, cho nên tội của họ không thể tha thứ được. "Sau khi sa ngă, các thiên thần không c̣n có thể hối cải, cũng như con người không thể ăn năn sám hối sau khi chết" (T. Gio-an Đa-ma-sô f. o. 2, 4).
 
394 (538- 540 550 2846- 2849)  Thánh Kinh xác nhận ảnh hưởng tai hại của kẻ mà Đức Giê-su gọi là "tên sát nhân ngay từ lúc sơ khai"(Ga 8, 44), kẻ đă xúi giục Người bỏ sứ mệnh Chúa Cha trao phó (x. Mt 4, l-ll). "Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ" (l Ga 3, 8). Điều tai hại nhất trong các công việc của ma quỷ là dùng sự dối trá để quyến rũ con người bất tuân Thiên Chúa.
 
395 (309 1673 412, 2850- 2854)  Thế nhưng sức mạnh của Xa-tan không phải là vô hạn. Nó chỉ là một thụ tạo, có sức mạnh v́ là thuần linh nhưng vẫn là thụ tạo: nó không thể ngăn chặn công tŕnh xây dựng Vương Triều của Thiên Chúa. Xa-tan hành động nơi trần thế do thù hận Thiên Chúa và Vương Quốc Người được thiết lập trong Đức Giê-su Ki-tô. Hành động đó gây tác hại rất nghiêm trọng về mặt tinh thần và gián tiếp cả về mặt thể lư, nơi mỗi người và nơi xă hội; hành động ấy được Chúa quan pḥng để cho xảy ra, Người là Đấng điều khiển lịch sử loài người và thế giới cách mạnh mẽ mà cũng rất dịu dàng. Việc Chúa để cho ma quỷ hành động quả là một mầu nhiệm lớn, nhưng "chúng ta biết rằng : Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người" (Rm 8, 28).
 
III. NGUYÊN TỘI
 
Thiên Chúa thử thách tự do của con người

 

396 (1730, 311 301)Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh Ngài và cho họ sống trong t́nh thân với Người. Là một thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống t́nh thân đó khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Điều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ "v́ ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết" (St 2, l7). "Cây biết lành biết dữ" (St 2, l7) nói lên một cách biểu tượng ranh giới mà con người là thụ tạo không thể vượt qua nhưng phải tự ư nh́n nhận và tôn trọng với ḷng tín thác. Con người tùy thuộc vào Đấng Sáng Tạo, phải tuân theo các định luật tự nhiên và các tiêu chuẩn luân lư qui định việc sử dụng tự do.
 
Tội đầu tiên của con người

397 (1707, 2541 1850 215)  Con người bị ma quỷ cám dỗ, đă đánh mất ḷng tín thác vào Đấng Sáng Tạo, và khi lạm dụng sự tự do, con người đă bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Từ đó mọi tội lỗi đều là do bất tuân Thiên Chúa và thiếu tín thác vào ḷng nhân hậu của Người.

398 (2084 2113)  Trong tội này, con người đă chọn chính ḿnh thay v́ Thiên Chúa và do đó đă khinh mạn Thiên Chúa: Con người đă chọn ḿnh bất chấp Thiên Chúa, bất chấp những đ̣i hỏi của t́nh trạng thụ tạo và do đó bất chấp cả điều tốt lành cho bản thân . Khi tác thành con người trong t́nh trạng thánh thiện, Thiên Chúa đă dành sẵn ơn "thần hóa" sung măn trong vinh quang. Do ma quỷ cám dổ, con người đă muốn "nên như Thiên Chúa" (x. St 3, 5) mà "không cần Thiên Chúa, qua mặt cả Thiên Chúa, và không theo Thiên Chúa" (Th: Niaxime le Confesseur, ambig).
 
399  Kinh Thánh cho thấy những hậu quả bi đát của sự bất tuân đầu tiên đó. A-đam và E-và đă tức khắc đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Họ sợ hăi trước vị Thiên Chúa (x. St 3, 9-l0) mà họ quan niệm cách sai lệch, như một Thiên Chúa ganh tị, sợ mất các đặc quyền của ḿnh (x. St 3, 5).
 
400 (1607 2514, 602, 1008)  Trước kia nguyên tổ sống trong sự hài ḥa do t́nh trạng công chính nguyên thủy, nay tội đă phá hủy sự hài ḥa đó, làm cho những khả năng điều khiển của linh hồn trên thể xác bị thương tổn (x. St 3, 7); sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); mối quan hệ giữa họ đầy những ham muốn và thống trị (x. St 3, l6). Sự hài ḥa với vạn vật bị phá vỡ : thế giới hữu h́nh trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). V́ con người, muôn loài đă "lâm vào cảnh hư ảo" (Rm 8, 20). Cuối cùng, hậu quả đă được báo trước rơ ràng cho tội bất tuân, nay thành hiện thực : "Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro" (St 3, l9). Sự chết đă xâm nhập vào lịch sử nhân loại (x. Rm 5, l2) .
 
401 (1865, 2259 1799)  Từ tội đầu tiên này cả trần thế bị ch́m trong tội lỗi: huynh đệ tương tàn, khởi đầu là Ca-in giết A-ben (St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người; cũng vậy, trong lịch sử Ít-ra-en, tội thường xuyên xuất hiện, nhất là dưới dạng bất trung với Thiên Chúa Giao Ước và sự vi phạm luật Mô-sê; cả sau biến cố cứu độ của Đức Ki-tô, tội xuất hiện dưới nhiều dạng ngay giữa người Ki-tô hữu (x. 1Cr 1-6; Kh 2-3). Thánh Kinh và truyền thống Hội Thánh không ngừng nhắc nhở tội hiện diện khắp nơi trong lịch sử loài người :
 
Điều Thiên Chúa mặc khải cho ta biết, cũng được kinh nghiệm của ta xác nhận. Bởi v́ nếu nh́n sâu tận đáy ḷng, con người cũng khám phá ra ḿnh hướng về sự dữ, và ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể xuất phát từ Đấng Tạo Hóa tốt lành . Nhiều khi từ chối không nh́n nhận Thiên Chúa như nguyên uỷ của ḿnh, con người cũng đă phá đổ trật tự phải có để đạt tới cùng đích tối hậu, đồng thời phá vỡ mọi ḥa hợp nơi chính bản thân cũng như đối với những người khác và với mọi loài thụ tạo (GS l3, l).
 
Hậu quả của tội A-đam trên nhân loại

402 (430, 605)  Mọi người đều liên lụy với tội A-đam. Thánh Phao-lô khẳng định : "Do một người bất tuân, muôn người (nghĩa là mọi người) đă mang tội" (Rm 5, l9): "Cũng như v́ một người duy nhất, mà tội lỗi đă xâm nhập trần gian, và tội lỗi đă gây nên sự chết. Như thế, sự chết đă lan tràn tới mọi người, bởi v́ mọi người đă phạm tội" (Rm l5, l2). Thánh tông đồ đối chiếu tính phổ quát của tội lỗi và sự chết với tính phổ quát của ơn cứu độ trong Đức Ki-tô : "Cũng như v́ một người duy nhất đă sa ngă mà mọi người bị kết án, th́ nhờ một người duy nhất đă thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được làm cho nên công chính, nghĩa là được sống" (Rm 5, l8).

403 (2606 1250)  Theo chân thánh Phao-lô, Hội Thánh luôn dạy rằng chúng ta không thể hiểu được nỗi khốn khổ lớn lao đang đè nén con người cũng như việc họ hướng chiều về sự dữ và sự chết, nếu không nối kết chúng với tội A-đam và việc nguyên tổ đă truyền lại cho chúng ta một tội mà mỗi người phải mang lấy từ khi sinh ra và tội này là "cái chết của linh hồn" (x. Cđ Tren-tô; DS. l5l2). Với xác tín do đức tin này, Hội Thánh ban phép Thánh Tẩy để tha tội cho cả những trẻ em chưa từng phạm tội riêng (x. Cđ Tren-tô : DS l5l4).

404 (360 50)  Bằng cách nào tội A-đam đă trở nên tội của cả nhân loại? Toàn thể nhân loại đều ở trong A-đam "như một thân thể duy nhất của một con người duy nhất" (T. Tô-ma A-qui-nô, mal 4-l). Do "thể thống nhất của nhân loại", mọi người đều liên lụy với tội A-đam, cũng như đồng hưởng sự công chính của Đức Ki-tô. Tuy nhiên, việc lưu truyền nguyên tội là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu thấu trọn vẹn. Nhưng nhờ mặc khải chúng ta biết rằng A-đam đă được hưởng nhận sự thánh thiện và công chính không phải cho riêng ḿnh, mà cho cả bản tính nhân loại : khi chiều theo cám dỗ, A-đam và E-và phạm tội với tính cách cá nhân nhưng tội đó ảnh hưởng đến cả bản tính con người mà nguyên tổ đă truyền lại trong t́nh trạng sa đọa (x. Cđ Tren-tô: DS. l5ll-l5l2). Tội đó đă truyền lại cho hết nhân loại qua sinh sản nghĩa là truyền lại một bản tính loài người đă mất sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ. Do đó, nguyên tội được gọi là "tội" do loại suy : đó là một thứ tội con người bị "nhiễm" chứ không phải đă "phạm"; một t́nh trạng, chứ không phải một hành vi.
 
405 (2515 1264)  Tội ấy mặc dầu truyền đến mỗi người (x. Cđ Tren-tô: DS. l5l3), nhưng không hề mang tính cách một tội riêng nơi bất kỳ ai trong con cháu A-đam. Nguyên tội làm mất đi sự thánh thiện và công chính ban đầu, nhưng không làm hư hoại hoàn toàn bản tính loài người : Bản tính loài người chỉ bị thương tổn trong các khả năng tự nhiên, bị lâm cảnh mê muội, đau khổ và phải chết, (hướng chiều về tội lỗi, hướng chiều này được gọi là "vật dục"). Khi ban cho con người đời sống ân sủng của Đức Ki-tô, bí tích Thánh Tẩy cũng xóa bỏ nguyên tội và quy hướng con người về Thiên Chúa; nhưng hậu quả của nguyên tội trên bản tính bị suy yếu và nghiêng chiều về sự dữ, vẫn tồn tại nơi con người và đ̣i buộc con người phải chiến đấu luôn măi.

406  Giáo lư của Hội Thánh về sự lưu truyền nguyên tội đă được minh định, vào thế kỷ V, đặc biệt là qua tư duy của Thánh Âu-tinh chống lại giáo thuyết Pélagiô, và vào thế kỷ XVI, chống lại cuộc cải cách Tin Lành. Theo Pélagiô, với khả năng tự nhiên của ư chí tự do, con người không cần ơn Thiên Chúa trợ giúp cũng có thể sống tốt lành về mặt luân lư. Ông giản lược ảnh hưởng tội A-đam thành ảnh hưởng của một gương xấu. Ngược lại, những nhà Cải Cách đầu tiên chủ trương nguyên tội đă làm con người hoàn toàn sa đọa và tiêu hủy sự tự do của con người; họ đồng hóa tội truyền đến mỗi người với xu hướng về sự dữ mà họ cho là không thể khắc phục được. Hội Thánh làm nổi bật ư nghĩa công bố đă xác định nội dung mặc khải về nguyên tội đặc biệt tại công đồng Orange II năm 529 (DS 37l-372) và Công Đồng Tren-tô năm l546 (x. DS l5l0-l5l6).
 
Một cuộc chiến cam go

407 (2015 2852 1888)  Giáo lư về nguyên tội gắn liền với giáo lư về ơn cứu chuộc nhờ Đức Ki-tô, giúp ta biết nhận định sáng suốt về hoàn cảnh và hành động của con người nơi trần thế. V́ nguyên tổ phạm tội, ma quỷ đă phần nào thống trị trên con người, mặc dầu con người vẫn c̣n tự do. Hậu quả của nguyên tội là con người phải làm nô lệ dưới quyền kẻ bá chủ sự chết là ma quỉ (x. Cđ Tren-tô : x. DS. l5ll - Dt 2, l4). Nếu không biết bản tính con người đă bị thương tổn, nghiêng chiều về sự dữ, người ta có nguy cơ mắc phải những lầm lẫn nghiêm trọng trong lănh vực giáo dục, chính trị, hoạt động xă hội (x. CA 25) và luân lư.
 
408 (1865)  Các hậu quả của nguyên tội và của tất cả các tội riêng của con người đưa toàn bộ thế giới vào một t́nh trạng tội lỗi mà chúng ta có thể dùng cách nói của Thánh Gio-an để diễn tả : "tội trần gian" (Ga l, 29). Với thành ngữ này, người ta muốn nhấn mạnh ảnh hưởng tiêu cực trên con người do các hoàn cảnh và cơ cấu xă hội, vốn là hậu quả của những tội lỗi (x. RP l6).
 
409 2516
 
Hoàn cảnh bi đát của trần thế "nằm dưới ách thống trị của ác thần" (lGa 5, l9) (x. lPr 5, 8) làm cho cuộc sống con người trở nên một cuộc chiến đấu.

 
Một cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối tiếp diễn suốt trong lịch sử nhân loại; khởi đầu từ lúc khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như Lời Chúa phán... Dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện và chỉ đạt được sự thống nhất nội tâm, sau khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của ơn Chúa (x. GS 37, 2).
 
IV. "THIÊN CHÚA ĐĂ KHÔNG BỎ MẶC CON NGƯỜI DƯỚI QUYỀN SỰ CHẾT"
 
410 (55, 705 1609, 2568 675)  Sau khi sa ngă, con người không bị Thiên Chúa bỏ rơi. Ngược lại, Thiên Chúa kêu mời con người và tiên báo cách huyền nhiệm sự dữ sẽ bị đánh bại và con người sa ngă sẽ được nâng dậy. Đoạn này trong sách Sáng Thế được gọi là "Tiền Tin Mừng" v́ đó là lời loan báo đầu tiên về Đấng Mê-si-a cứu chuộc, về cuộc chiến đấu giữa con rắn và người nữ và về chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này.
411 359, 615 491
 
Truyền thống Ki-tô giáo nhận ra trong đoạn trên lời tiên báo một "A-đam mới" (x. 1Cr. l5, 21-22. 45), Đấng "vâng phục cho đến chết trên thập giá" (Pl 2, 8), đă sửa lại sự bất tuân của A-đam mà c̣n mang lại ân sủng tràn đầy. Vả lại, có nhiều giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh nhận ra Đức Ma-ri-a, Mẹ Đức Ki-tô, là người nữ được tiên báo trong Tiền Tin Mừng và được xem như "E-và mới". Mẹ là người đầu tiên đă thừa hưởng một cách độc nhất vô nhị chiến thắng của Đức Ki-tô trên tội lỗi : Mẹ đă không hề nhiễm vết nhơ nguyên tội (x. Pi-ô IX - DS 28O3) và nhờ ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa, Mẹ đă không hề phạm một tội nào trong suốt cuộc đời trần thế (Cđ Tren-tô. DS. l573).

412 (310, 395 272 1994)  Nhưng tại sao Thiên Chúa lại không ngăn cản con người đầu tiên phạm tội ? Thánh Lê-ô Cả trả lời : "Ân sủng khôn tả của Đức Ki-tô, đem lại cho ta những điều tốt đẹp hơn những ǵ mà v́ ganh ghét ma quỉ đă cướp mất" (Bài giảng 73, 4), và thánh Tô-ma A-qui-nô cũng nói : "Sau khi con người đă phạm tội, không có ǵ ngăn cản bản tính loài người đượchướng về một cứu cánh cao đẹp hơn". Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra để từ sự dữ rút ra sự lành tốt hơn. Do đó, thánh Phao-lô nói : "Ở đâu tội lỗi ngập tràn, ở đấy ân sủng cũng được thông ban dư dật" (Rm 5, 20); và Hội Thánh hoan ca khi chúc lành nến Phục Sinh : "Nguyên tội hỡi, tội hoá thành hồng phúc, nhờ có ngươi, ta mới được Đấng Cứu Tinh cao cả dường này" (T. Tôma S. th III, 1, 3 ad 3).
 
TÓM LƯỢC
 
413  "Thiên Chúa không tạo ra sự chết. Người chẳng vui thích ǵ khi các sinh linh hư mất ... Cái chết đă xâm nhập vào trần thế do ḷng ghen ghét của ma quỷ (Kn l, l3; 2, 24)".
 
414  Xa-tan hoặc ma quỉ và các ác thần khác là những thiên thần sa đọa v́ đă tự ư khước từ phục vụ Thiên Chúa và ư định của Người. Đây là một lựa chọn dứt khoát chống lại Thiên Chuá. Chúng đă có dụng ư lôi kéo con người cùng với chúng nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
 
415  "Được Thiên Chúa đặt trong t́nh trạng thánh thiện, ngay từ phút đầu của lịch sử, con người nghe theo thần dữ nên đă lạm dụng tự do của ḿnh khi nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của ḿnh ngoài Thiên Chúa" (GS l3, 1) .
 
416  A-đam, con người đầu tiên, v́ phạm tội đă đánh mất sự thánh thiện và công chính nguyên thủy được Thiên Chúa ban, không những cho ḿnh mà cho cả nhân loại.
 
417  A-đam và E-và đă truyền lại cho hậu duệ một nhân tính bị tội đầu tiên làm tổn thương, không c̣n sự thánh thiện và công chính nguyên thủy. Sự mất mát đó được gọi là "nguyên tội".
 
418  Hậu quả của nguyên tội là bản tính loài người bị suy yếu trong các khả năng, lâm cảnh mê muội, bị sự chết thống trị, hướng chiều về tội lỗi (hướng chiều này gọi là "vật dục") và như thế, mỗi người đều mắc nguyên tội.
419  Cùng với Công Đồng Tren-tô chúng tôi xác quyết nguyên tội được lưu truyền lại cùng với bản tính nhân loại "không phải do bắt chước mà do sinh sản" và từ đó, nguyên tội trở nên của mỗi người" (SPF l6).
420  Đức Ki-tô chiến thắng tội lỗi đă mang lại cho chúng ta những ân huệ cao đẹp hơn những ǵ tội lỗi đă làm mất đi : "Ở đâu tội lỗi ngập tràn, ở đấy ân sủng được thông ban dư đầy" (Rm 5, 2O).
421 "Người Ki-tô hữu tin rằng thế giới này đă được thiết lập và giữ ǵn nhờ t́nh yêu của Đấng Sáng Tạo, tác thành và bảo tŕ. Thế giới ấy đă rơi vào ách nô lệ tội lỗi; nhưng Đức Ki-tô đă nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh bẻ gẫy uy quyền của ác thần và giải thoát thế giới" (GS 2, 2).