Mục 6
Điều Răn Thứ Sáu

"Ngươi không được ngoại t́nh" (Xh 20,14, Đnl 5,17).

"Anh em nghe luật dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại t́nh". C̣n Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: "Ai nh́n người phụ nữ mà thèm muốn, th́ trong ḷng đă ngoại t́nh với người ấy rồi" (Mt 5,27-28).

I. "THIÊN CHÚA SÁNG TẠO CON NGƯỜI, CÓ NAM CÓ NỮ..."  369-373

2331 (1604)  "Thiên Chúa là t́nh yêu, Người sống mầu nhiệm hiệp thông và t́nh yêu nơi chính bản thân. Khi tạo dựng con người theo h́nh ảnh ḿnh ... Thiên Chúa trao ban cho người nam và người nữ một)thiên chức; do đó họ có khả năng và trách nhiệm sống yêu thương và hiệp thông" (x. FC. 11).

"Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh ḿnh ... Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ" (St 1,27). "Hăy sinh sôi nảy nở thât nhiều" (St 1,28); ngày Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người giống như Thiên Chúa. Chúa sáng tạo con người có nam có nữ: Chúa chúc phúc cho họ và đặt tên cho họ và gọi họ là "người", ngày họ được sáng tạo (St 5,1-2)

2332 (362)  Phái tính ảnh hưởng trên toàn bộ con người, cả xác và hồn. Phái tính đặc biệt liên quan đến đời sống t́nh cảm, khả năng yêu thương và truyền sinh, nói chung mọi tương quan với người khác.

2333 (1603)  Mỗi người, nam cũng như nữ, phải nh́n nhận và chấp nhận phái tính của ḿnh. Sự khác biệt và bổ sung cho nhau về thể xác, tinh thần và tâm linh hướng đến đời sống hôn nhân và gia đ́nh. Sự ḥa hợp của đôi vợ chồng và của xă hội tùy thuộc phần nào vào việc hai bên nam nữ bổ túc, đáp ứng và nâng đỡ lẫn nhau.

2334 (357)  "Khi tạo dựng con người có nam có nữ, Thiên Chúa cho họ b́nh đẳng về nhân phẩm" (x. FC 22, x. GS 49,2). "Con người là một nhân vị, v́ thế người nam và người nữ b́nh đẳng với nhau, cả hai được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa" (x. MD 6).

2335 (2205)  Người nam và người nữ b́nh đẳng về phẩm giá, dù cách thức khác nhau, cả hai là h́nh ảnh của Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sự)kết hợp giữa người nam và người nữ trong hôn nhân mô phỏng nơi thân xác con người sự quảng đại và sung măn của Đấng Sáng Tạo: "Người đàn ông ĺa cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh, và cả hai thành một xương một thịt" (St 2,24). Sự kết hợp này là nguồn gốc mọi thế hệ loài người (St 4, 1-2.25-26; 5,1).

2336 (1614)  Đức Giê-su đă đến trả lại cho thụ tạo t́nh trạng tinh tuyền nguyên thủy của chúng. Trong Bài Giảng Trên Núi, Người đă giải thích chính xác ư định của Thiên Chúa: "Anh em đă nghe luật dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại t́nh". C̣n Thầy, Thầy bảo anh em: "Ai nh́n người phụ nữ mà thèm muốn, th́ ngoại t́nh trong ḷng với người ấy rồi" (Mt 5,27-28). "Sự ǵ Thiên Chúa đă kết hợp loài người không được phân ly" (Mt 19,6).

Truyền thống của Hội Thánh hiểu điều răn thứ sáu đề cập đến mọi lănh vực về phái tính của con người.

II. ƠN GỌI SỐNG KHIẾT TỊNH

2337 (2520 2349)  Sống khiết tịnh là làm chủ phái tính, nhờ đó thống nhất được đời sống thể lư và tinh thần. Phái tính cho thấy con người thuộc về thế giới vật chất và sinh học, nhưng khi được hội nhập vào tương quan giữa người với người, trong đó người nam và người nữ hiến thân cho nhau trọn vẹn và vĩnh viễn, phái tính mới có giá trị thực sự nhân linh. Như vậy, đức khiết tịnh liên quan đến toàn thể nhân vị và đ̣i hiến thân trọn vẹn.

Toàn thể nhân vị

2338  Người khiết tịnh giữ được toàn bộ sức mạnh của sự sống và t́nh yêu có nơi ḿnh; nhờ đó thống nhất được nhân vị và tránh được mọi thái độ làm tổn thương đến sự thống nhất này. Người khiết tịnh không chấp nhận cuộc sống hai mặt, cách nói hai ư (Mt 5,37).

2339  Đức khiết tịnh đ̣i hỏi phải)học biết tự chu<180), để sống như một con người. Rơ ràng con người phải chọn lựa: hoặc chế ngự các đam mê và được b́nh an; hoặc làm nô lệ chúng và trở nên bất hạnh (Hc 1,22). "Phẩm giá con người đ̣i họ phải hành động theo một sự lựa chọn ư thức và tự do, được tác động và quyết định bởi một xác tín cá nhân chứ không phải chỉ dưới hiệu quả các thôi thúc của bản năng hoặc của một sự cưỡng chế bên ngoài. Con người đạt đến phẩm cách đó khi tự giải thoát khỏi mọi nô dịch của các đam mê, nhờ tự do chọn lấy điều thiện, con người theo đuổi cùng đích của ḿnh và khôn khéo thực sự tạo cho ḿnh những phương tiện thích ứng" (x.GS 17).

2340 (2015)  Ai muốn trung thành với những lời hứa khi được rửa tội và chống lại các cơn cám dỗ, phải dùng những)phương thế sau: phải biết ḿnh, khổ chế tùy theo hoàn cảnh, tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa, thực hành các đức tính luân lư và chuyên cần cầu nguyện. "Khiết tịnh giúp chúng ta t́m lại được sự thống nhất bản thân đă đánh mất khi để cho ḿnh bị phân tán". (T. Âu tinh, conf.10,29)

2341 (1809)  Muốn sống khiết tịnh phải giữ đức tiết độ, v́ nhân đức này dùng lư trí để hướng dẫn các đam mê và những thèm muốn giác quan của con người.

2342 (407)  Muốn tự chủ phải luyện tập lâu dài và công phu. Không bao giờ có thể coi như đă tập xong, phải cố gắng suốt đời, ở mọi lứa tuổi (x.Tt 2,1-6), phải đặc biệt cố gắng vào một số giai đoạn h́nh thành nhân cách, như tuổi nhi đồng và thiếu niên.

2343 (2223)  Đời sống khiết tịnh cũng có những qui luật tăng trưởng, phải kinh qua những bất toàn và có khi cả tội lỗi nữa. "Ngày qua ngày, con người đức độ và khiết tịnh được h́nh thành bằng nhiều lựa chọn tự do. Nhờ đó, họ nhận biết, yêu mến và chu toàn điều thiện luân lư qua những giai đoạn tăng trưởng" (x. FC 34).

2344 (2525)  Sống khiết tịnh là nhiệm vụ của mỗi người, nhưng cũng là một)nỗ lực về văn hóa, v́ sự thăng tiến của nhân vị và sự phát triển của xă hội lệ thuộc nhau (x. GS 25,1). Người ta chỉ sống khiết tịnh được, khi các quyền của con người được tôn trọng, đặc biệt quyền được thông tin và giáo dục để biết tôn trọng các giá trị luân lư và tâm linh của đời sống con người.

2345 (1810)  Đức khiết tịnh là một nhân đức luân lư. nhưng đó cũng là hồng ân của Thiên Chúa, một ân sủng, một hoa trái của Thánh Thần (x. Gl 5,22). Chúa Thánh Thần ban cho người tín hữu sức mạnh để noi theo (x. 1Ga 3,3) sự thanh khiết của Đức Ki-tô.
Hiến thân trọn vẹn

2346 (1827 210)  Đức mến là linh hồn của mọi nhân đức. Dưới ảnh hưởng của đức mến, đức khiết tịnh là trường dạy tự hiến. Tự chủ là để tự hiến. Người sống khiết tịnh trở thành nhân chứng của Thiên Chúa trung tín và yêu thương.

2347 (374)  Đức khiết tịnh nảy nở trong t́nh bằng hữu, giúp người môn đệ bước theo và bắt chước Đấng đă chọn chúng ta làm bạn hữu của Người (x. Ga 15,15), đă hiến thân trọn vẹn cho chúng ta và cho ta thông phần thiên tính của Người. Thiên Chúa hứa ban cuộc sống bất diệt cho người sống khiết tịnh.

Đức khiết tịnh bộc lộ rơ ràng qua t́nh thân với những người xung quanh. T́nh thân hữu phát triển giữa những người cùng phái, khác phái là điều tốt đẹp cho mọi người, dẫn đến sự hiệp thông tinh thần.

Những cách sống khiết tịnh

2348  Mọi tín hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh. Ki-tô hữu là người đă "mặc lấy Đức Ki-tô" (Gl 3,27), khuôn mẫu của đời sống khiết tịnh. Ai tin vào Đức Ki-tô đều được mời gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống của ḿnh. Khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu cam kết giữ đức khiết tịnh trong đời sống t́nh cảm.

2349 (1620)  "Mỗi người giữ đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của ḿnh: người này trong bậc trinh khiết hay độc thân của đời thánh hiến, một cách thức dễ dàng tận hiến trọn vẹn tâm hồn cho Thiên Chúa; kẻ khác trong bậc gia đ́nh hay độc thân, tùy theo luật luân lư xác định" (x. CDF, déd."Persona humana" À11). Người có gia đ́nh được mời gọi giữ đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng; người độc thân giữ đức khiết tịnh khi sống tiết dục.

"Có ba h́nh thức sống khiết tịnh: khiết tịnh của bậc hôn nhân, khiết tịnh của người góa bụa và khiết tịnh của kẻ đồng trinh. Chúng ta không ca tụng lối sống này mà loại bỏ lối sống khác. Về điều này, kỷ luật của Hội Thánh rất rộng răi" (T. Am-rô-xi-ô,Vid. 23).

2350 (1632)  Những người đă đính hôn cũng được mời gọi tiết dục để giữ khiết tịnh. Trong thời gian thử thách này, họ học biết tôn trọng lẫn nhau, tập chung thủy và hy vọng được đón nhận nhau như quà tặng của Thiên Chúa. Họ sẽ dành những hành động biểu lộ t́nh yêu vợ chồng cho sau ngày thành hôn. Họ phải giúp nhau sống khiết tịnh.

Những lỗi phạm đến đức khiết tịnh

2351 (2528)  Dâm ô là ham muốn sai trái hay hưởng thụ vô độ khoái lạc t́nh dục. Khoái lạc t́nh dục trở thành sai trái, khi con người chỉ t́m hưởng thụ để thỏa măn chính ḿnh, chứ không nhằm mục đích truyền sinh và kết hợp trong t́nh yêu.

2352  Thủ dâm là cố t́nh kích thích cơ quan sinh dục nhằm gây khoái lạc t́nh dục. "Dựa theo truyền thống ngàn đời và bất biến, huấn quyền cũng như cảm thức luân lư của các tín hữu không ngần ngại khẳng định rằng, thủ dâm tự bản chất là một hành động sai trái nghiêm trọng", v́ "tự ư sử dụng khả năng t́nh dục ngoài quan hệ vợ chồng b́nh thường, dù với động lực nào đi nữa, cũng là sai mục đích". Làm như vậy, người ta hưởng thụ khoái lạc t́nh dục bên ngoài "quan hệ t́nh dục hợp luật luân lư là quan hệ thực hiện một sự hiến thân trọn vẹn cho nhau và thực hiện việc truyền sinh trong khuôn khổ của t́nh yêu đích thực" (x. CDF,déd. "Persona humana" 9).

1735  Để phán đoán đúng đắn về trách nhiện luân lư của đương sự, cũng như đưa ra một đường hướng mục vụ, chúng ta cần lưu ư đến t́nh trạng thiếu trưởng thành t́nh cảm, áp lực của các thói quen, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lư xă hội. Các nhân tố này có thể làm trách nhiệm luân lư của đương sự được giảm khinh ngay cả đến mức tối thiểu.

2353  dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Đây là lỗi nặng, xúc phạm đến nhân phẩm và phái tính của con người, vốn qui về lợi ích của đôi vợ chồng, cũng như sinh sản và giáo dục con cái. Ngoài ra, tà dâm c̣n là một gương xấu nghiêm trọng khi làm băng hoại giới trẻ.

2354 (2523)  Sách báo và tranh ảnh khiêu dâm, cố ư phơi bày những hành vi t́nh dục thầm kín thực sự hay mô phỏng ấn phẩm khiêu dâm, xúc phạm đến đức khiết tịnh v́ làm biến chất hành vi ái ân là việc trao ban thầm kín của vợ chồng với nhau; chúng làm tổn thương nặng nề đến phẩm giá của những người dự phần (diễn viên, kẻ kinh doanh, khán giả), v́ người này trở thành đối tượng cho một thú vui thô lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính cho người kia. Ấn phẩm khiêu dâm đưa tất cả những người tham gia vào thế giới ảo tưởng. Đó là một lỗi nặng. Chính quyền phải ngăn cấm việc sản xuất và phổ biến những ấn phẩm khiêu dâm này.

2355 (1735)  Mại dâm xúc phạm đến phẩm giá của người bán dâm v́ họ biến ḿnh thành tṛ vui xác thịt cho người mua dâm. Kẻ mua dâm phạm tội nặng nơi bản thân: họ vi phạm đức khiết tịnh đă cam kết khi lănh nhận bí tích Thánh Tẩy, và làm ô uế thân xác là đền thờ Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6,15-20). Mại dâm là một đại họa cho xă hội, thường là phụ nữ hành nghề, nhưng cũng có đàn ông, trẻ em cũng như thiếu niên (trong hai trường hợp cuối, tội thêm nặng v́ gây gương mù, gương xấu). Mại dâm bao giờ cũng là tội trọng; nhưng trách nhiệm của kẻ mại dâm có thể giảm khinh v́ túng bấn, bị hăm dọa hay áp lực xă hội.

2356 (2297 1756 2388)  Hiếp dâm là dùng bạo lực bắt kẻ khác quan hệ nhục dục với ḿnh. Đây là tội phạm đến công bằng và bác ái. Hiếp dâm xúc phạm nặng nề đến quyền được tôn trọng, quyền tự do và toàn vẹn thể lư cũng như tinh thần của nạn nhân, gây thương tổn nghiêm trọng có thể kéo dài cả cuộc đời của nạn nhân. Hiếp dâm tự nó là một hành vi xấu xa, tội này lại càng nặng nề hơn nữa, khi cha mẹ hay người giáo dục lạm dụng thân xác các em được ủy thác cho họ.

Đức khiết tịnh và sự đồng tính luyến ái

2357 (2333)  Đồng tính luyến ái là những liên hệ giữa những người nam hay nữ cảm thấy bị lôi cuốn tính dục với người đồng phái nhiều hơn với người khác phái. Đồng tính luyến ái xuất hiện trong nhiều thời đại và văn hóa, với nhiều h́nh thức khác nhau. Cho đến nay, người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân tâm thần của hiện tượng này. Căn cứ vào Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng (x. St 19,1-29; Rm 1,24-27; 1 Cr 6,10; 1Tm 1,10), truyền thống HộiThánh luôn tuyên bố: "Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn" (x. CDF, décl "persona humana" 8). Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên v́ loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc thực sự về t́nh cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.

2358  Đừng quên một số người đă có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Đối với đa số những người này, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón nhận họ với ḷng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ư Chúa trong cuộc sống và, nếu là

2359 (2347)  Những người đồng tính luyến ái cũng được mời gọi sống khiết tịnh. Họ có thể và phải cương quyết tiến dần đến sự toàn thiện Ki-tô giáo nhờ kinh nguyện và ân sủng bí tích, nhờ biết tự chủ để củng cố tự do nội tâm và nhờ sự nâng đỡ của một t́nh bạn vô vị lợi.

III. T̀NH YÊU VỢ CHỒNG

2360 (1601)  Theo ư định của Thiên Chúa, phái tính hướng về t́nh yêu vợ chồng. Trong hôn nhân, ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần. Giữa hai tín hữu, dây liên kết hôn nhân được thánh hóa bằng bí tích.

2361 (1643-2332)  "Nhờ khả năng tính dục, người nam và người nữ hiến thân cho nhau qua những hành vi dành riêng cho vợ chồng. Tính dục không chỉ là hành vi sinh lư, nhưng liên can đến những điều thâm sâu nhất của nhân vị. Tính dục chỉ thực sự xứng đáng với con người, khi nó là thành phần không thể thiếu của t́nh yêu giữa người nam và người nữ đă cam kết hiến thân cho nhau trọn vẹn suốt đời (x. FC 11).

(1611)  Tô-bi-a chỗi dậy, ra khỏi giường và nói với Sa-ra: "Đứng lên em, chúng ta hăy cầu nguyện nài xin Đức Chúa xót thương và phù hộ chúng ta". Cô đứng lên, rồi cả hai bắt đầu cầu nguyện và nài xin cho ḿnh được an lành. Tô-bi-a bắt đầu như sau: "Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con, xin chúc tụng Chúa.... Chính Chúa đă dựng nên ông A-đam, dựng nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ là bà E-và vợ ông. Và loài người đă sinh ra từ hai ông bà. Chính Chúa đă nói: "Con người ở một ḿnh th́ không tốt, Ta sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó". Giờ đây, không phải v́ ḷng dục mà con lấy em con đây, nhưng v́ ḷng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con, cho chúng con được sống bên nhau đến tuổi già". Rồi họ đồng thanh nói: "A-men, A-men!" Sau đó, họ ngủ luôn cho đến sáng" (Tb 8, 4-9).

2362  "Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quư và chính đáng. Được thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn" (x. GS 49,2).

Chính Đấng Sáng Tạo ... đă muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm thấy một sự vui thú và thỏa măn nơi thân xác và tinh thần. V́ vậy, vợ chồng chẳng làm điều ǵ xấu khi t́m kiếm và tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ đón nhận những ǵ Đấng Sáng Tạo đă ban cho. Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết độ (Pi-ô XII, bài giảng 29 - 10 - 1951).

2363  Nhờ sự kết hợp của vợ chồng, hai mục đích của hôn nhân được thực hiện: lợi ích của chính đôi vợ chồng và lưu truyền sự sống. Không thể tách rời hai ư nghĩa hoặc hai giá trị này của hôn nhân mà không làm biến chất đời sống tinh thần của vợ chồng cũng như phương hại đến lợi ích của hôn nhân và tương lai của gia đ́nh.
Như thế t́nh yêu vợ chồng đ̣i hỏi người nam và người nữ vừa phải chung thủy vừa phải sẵn sàng đón nhận con cái.

Sự thủy chung của vợ chồng (1646-1648)

2364 (1603 1615)  "Đấng Sáng Tạo đă thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và yêu thương của đôi vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân nghĩa là sự ưng thuận cá nhân và không thể rút lại (x. GS 48,1). Cả hai hiến thân cho nhau vĩnh viễn và trọn vẹn. Họ không c̣n là hai, nhưng đă trở thành một thân thể duy nhất. Khi đă tự do cam kết, hôn ước buộc đôi vợ chồng không được tiêu hủy hoặc lập một hôn ước khác (x. CIC, can. 1056). "Sự ǵ Thiên Chúa đă liên kết, th́ loài người không được phân ly" (Mc 10,9) (x. Mt 19,1-12 , 1 Cr 7,10-11).

2365 (1640)  Thiên Chúa là Đấng trung tín v́ Người kiên tŕ giữ lời thề hứa. Bí tích Hôn Phối làm cho hai vợ chồng tham dự vào sự trung tín của Đức Ki-tô đối với Hội Thánh. Nhờ sống khiết tịnh trong hôn nhân, họ minh chứng mầu nhiệm đó trước mặt thế gian.

Thánh Gio-an Kim Khẩu gợi ư cho các tân lang tâm sự với tân nương: anh yêu em, anh quí em hơn cả mạng sống ḿnh. Cuộc sống này chẳng là ǵ hết, anh chỉ mơ ước được sống bên em ở đời này và hy vọng không bao giờ chia ĺa ở đời sau....Anh yêu em hơn mọi sự, và không ǵ làm cho anh khổ tâm bằng anh không có được những tâm t́nh như em (Bài giảng Eph. 20,8).
Chức năng truyền sinh

2366  Truyền sinh là một ân huệ, một mục tiêu của hôn nhân, v́ t́nh yêu vợ chồng tự nhiên hướng về việc sinh sản con cái. Con cái là hoa quả và thành tựu của t́nh yêu vợ chồng, hiện diện ngay trong việc vợ chồng hiến thân cho nhau, chứ không phải một cái ǵ từ bên ngoài được ghép vào. V́ thế Hội Thánh "bảo vệ sự sống" (x. FC 30) và dạy rằng "mọi hành vi ân ái phải tự nó mở ngỏ cho việc truyền sinh" (x. HV 11). "Giáo lư này đă được Huấn Quyền tŕnh bày nhiều lần, nền tảng của giáo lư này là sự liên kết bất khả phân ly giữa hai ư nghĩa của hành vi ân ái: kết hợp và truyền sinh. Đây là điều chính Thiên Chúa đă muốn và con người không được tách rời (x. HV 12; x. Piô XI, enc. "Casti connubii").

2367 (2205)  V́ được mời gọi thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo và tư cách làm cha làm mẹ cùng với Thiên Chúa (x. Ep 3,14, Mt 23,9). "Trong khi thi hành bổn phận truyền sinh và giáo dục (điều phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng), đôi vợ chồng biết rằng ḿnh cộng tác với t́nh yêu của Thiên Chúa sáng tạo và như trở thành những người diễn đạt t́nh yêu của Người. Do đó, họ sẽ chu toàn bổn phận trong tinh thần trách nhiệm của một con người và của Ki-tô hữu" (x. GS 50,2).

2368   Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm đó là điều ḥa truyền sinh. Khi có lư do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài khoảng cách giữa các lần sinh nở. Chính họ phải chứng thực rằng ước muốn đó không do ích kỷ, nhưng xứng hợp với ḷng quảng đại chính đáng của bậc làm cha mẹ có trách nhiệm. Ngoài ra, họ phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lư:

"Khi cần ḥa hợp t́nh yêu vợ chồng với việc sinh sản con cái có trách nhiệm, phải ư thức rằng giá trị luân lư của hành động không chỉ lệ thuộc vào ư muốn thành thực và việc cân nhắc các lư do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính nhân vị và của hành động nơi nhân vị: những tiêu chuẩn ấy tôn trọng ư nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh t́nh yêu đích thực. Đó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng" (x. GS 51,3).

2369  "Khi duy tŕ hai khía cạnh thiết yếu là kết hợp và truyền sinh, hành vi ân ái giữ được toàn vẹn ư nghĩa của t́nh yêu hỗ tương và chân thực, qui hướng về ơn gọi vô cùng cao cả của con người là được làm cha làm mẹ" (x. HV 12).

2370  Tiết dục định kỳ cũng như những phương pháp điều ḥa sinh sản đặt nền tảng trên việc tự quan sát và sử dụng những thời gian không thể thụ thai (x. HV 16), đều phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của luân lư. Những phương pháp này tôn trọng thân thể của vợ chồng, khuyến khích họ âu yếm và giúp nhau hướng đến tự do chân chính. Ngược lại, "mọi hành động nhằm mục đích hay tạo phương thế ngăn cản sự truyền sinh trước, hoặc trong khi giao hợp, hoặc trong diễn tiến các hiệu quả tự nhiên của việc giao hợp, tự bản chất là xấu" (HV 14).

Trong hôn nhân, hai vợ chồng hiến thân trọn vẹn cho nhau. Việc ngừa thai đi ngược lại v́ họ không c̣n trao tặng cho nhau trọn vẹn nữa. Chẳng những họ không cộng tác vào công cuộc trao ban sự sống mà c̣n làm sai lạc chân lư nội tại của t́nh yêu vợ chồng là hiến thân trọn vẹn cho nhau. Về mặt nhân học và luân lư, sự khác biệt giữa ngừa thai và việc sử dụng các chu kỳ thụ thai bắt nguồn từ hai quan niệm không thể giản lược với nhau về con người và về tính dục của con người (FC 32).

2371 (1703)  "Ngoài ra, mọi người đều phải ư thức rằng sự sống con người, và trách nhiệm lưu truyền sự sống, không chỉ giới hạn ở đời này, cũng như không thể hiểu và đo lường được trọn vẹn ư nghĩa ở đời này, nhưng luôn qui chiếu về)định mệnh vĩnh cửu của con người" (x. GS 51, 4).

2372 (2209)  Nhà Nước có trách nhiệm mang lại lợi ích cho các công dân, nên có quyền can thiệp để định hướng việc gia tăng dân số. Tuy nhiên, chỉ được làm qua những thông tin khách quan và tôn trọng tự do, chứ không bao giờ được dùng biện pháp quyền lực và cưỡng bách. Nhà Nước không được tước bỏ quyền quyết định của các đôi vợ chồng, v́ chính họ là những người đầu tiên có trách nhiệm về việc sinh sản và giáo dục các con cái (x. HV 23,PP 37). Trong lănh vực này, Nhà Nước không có quyền can thiệp bằng những phương thế trái với luật luân lư.
Con cái là quà tặng của Thiên Chúa

2373  Thánh Kinh và Thánh Truyền coi những gia đ́nh đông con là một dấu chỉ phúc lành của Thiên Chúa và ḷng quảng đại của cha mẹ (x. GS 50, 2).

2374 (1654)  Thật đau khổ cho những đôi vợ chồng không con. "Ông Áp-ra-ham thưa: Lạy Đức Chúa, Chúa sẽ ban cho con cái ǵ? Con ra đi mà không con cái" (St 15, 2). Ra-khen nói với chồng ḿnh là Gia-cóp: "Xin cho tôi được có con, không th́ tôi chết mất" (St 30,1)

2375 (2293)  Những nghiên cứu nhằm giải quyết chứng vô sinh rất đáng khuyến khích, với điều kiện chúng phải "phục vụ con người, phục vụ các quyền bất khả nhượng cũng như lợ)i ích đích thực và toàn vẹn của con người, đúng theo dự định và ư muốn của Thiên Chúa" (x."Donum vitae" 2).

2376  Những kỹ thuật phá vỡ liên hệ phụ mẫu qua sự can thiệp của một người thứ ba (cho tinh dịch hoặc noăn bào, cho mượn tử cung) là những hành vi phải bị loại bỏ. Những kỹ thuật này (thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo khác nguồn) vi phạm quyền của đứa trẻ phải được sinh ra do cha mẹ đă chính thức kết hôn và quyền được biết cha mẹ là ai. Những kỹ thuật này vi phạm "độc quyền làm cha làm mẹ của đôi vợ chồng" (x."Donum vitae" 2,1).

2377  Nếu được thực hiện cho đôi vợ chồng, những kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo cùng nguồn, có lẽ sẽ ít tổn hại hơn; nhưng về mặt luân lư, chúng vẫn không thể được chấp nhận, v́ tách rời hành vi tính dục với việc truyền sinh. Sinh sản con cái không c̣n là một hành vi của hai con người hiến thân cho nhau, nhưng "sự sống và căn tính của phôi thai bị trao vào tay các bác sĩ và các nhà sinh học, và để kỹ thuật thống trị trên nguồn gốc và vận mệnh của con người. Một mối quan hệ thống trị như thế tự bản chất đi ngược với phẩm giá và sự b́nh đẳng chung của cả cha mẹ lẫn con cái" (x."Donum vitae" 2,5). Về phương diện luân lư, việc truyền sinh mất đi sự hoàn thiện đặc thù của nó, khi không c̣n là kết quả của hành vi ân ái, nghĩa là quan hệ vợ chồng... Để cho việc truyền sinh xứng với phẩm giá con người, chúng ta phải tôn trọng mối dây liên hệ giữa những ư nghĩa của hành vi ân ái và sự tôn trọng tính thống nhất của bản tính con người" (x."Donum vitae" 2,4).

2378  Đứa trẻ không phải là một của nợ, nhưng là một)món quà. "Món quà ưu việt của hôn nhân" là một con người. Không được coi đứa trẻ như một vật sở hữu, như người ta thường nghĩ là ḿnh có "quyền trên con cái". Trong lănh vực nầy, đứa trẻ thực sự có những quyền: quyền được sinh ra trong t́nh yêu của cha mẹ, và quyền được tôn trọng như một con người ngay từ lúc mới thành thai (x."Donum vitae" 2,8).

2379  Tin Mừng cho thấy vô sinh thể lư không phải là một điều dữ tuyệt đối. Đôi vợ chồng nào, sau khi đă tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, vẫn phải chịu nỗi đau khổ vô sinh, được mời gọi liên kết với Thập Giá của Chúa là nguồn mạch mọi phong phú thiêng liêng. Họ có thể sống quảng đại bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc tham gia những công tác phục vụ tha nhân.

IV. NHỮNG XÚC PHẠM ĐẾN PHẨM GIÁ HÔN NHÂN

2380 (1611)  Ngoại t́nh là thất tín của vợ chồng. Khi hai người nam nữ có quan hệ tính dục với nhau, dù là nhất thời mà trong đó có ít nhất một người đă kết hôn th́ cả hai phạm tội ngoại t́nh. Đức Ki-tô lên án tội này ngay cả khi chỉ là một ước muốn (x. Mt 5,27-28). Điều răn thứ sáu và Tân Ước tuyệt đối cấm tội ngoại t́nh (x. Mt 5,32; 19,6; Mc 10,11; 1Cr 6,9-10).

Các ngôn sứ tố giác tội ngoại t́nh là một tội trọng v́ là một trong các h́nh thức thờ ngẫu tượng (x. Hs 2,7; Gr 5,7; 13,27).

2381 (1640)  Ngoại t́nh là điều bất công. Người phạm tội đó bỏ không thực hiện những cam kết của ḿnh, làm tổn hại đến dây liên kết hôn nhân là dấu chỉ của sự giao ước, vi phạm quyền của người phối ngẫu và xâm phạm định chế hôn nhân khi lỗi phạm hôn ước. Người ấy làm phương hại đến lợi ích của việc sinh sản và của con cái vốn cần đến sự kết hợp bền vững của cha mẹ.

Ly hôn

2382 (1614)  Chúa Giê-su nhấn mạnh đến ư định ban đầu của Đấng Sáng Tạo là hôn nhân bất khả phân ly (x. Mt 5,31-32; 19,3-9; Mc 10,9; Lc 16,18; 1Cr 7,10-11). Người băi bỏ những khoan nhượng trong luật cũ (x. Mt 19,7-9).

Giữa hai người đă chịu Bí Tích Thánh Tẩy, "hôn nhân đă kư kết và hoàn hợp th́ không thể bị tháo gỡ bởi bất cứ quyền lực nhân loại nào, bất cứ v́ lư do ǵ, ngoại trừ cái chết" (x. CIC, can. 1141).

2383 (1649)  Trong một số trường hợp đă được Giáo Luật dự liệu, đôi vợ chồng có thể được phép ly thân nhưng vẫn c̣n duy tŕ dây liên kết hôn nhân (x. CIC, can. 1151-1155).

Nếu việc ly hôn về phần đời là phương cách duy nhất c̣n lại để bảo đảm một số quyền lợi chính đáng, chăm sóc con cái hoặc bảo vệ gia sản, th́ có thể tạm chấp nhận mà không lỗi về luân lư.

2384 (1650)  Ly dị vi phạm nghiêm trọng luật tự nhiên, phế bỏ khế ước mà vợ chồng đă tự do ưng thuận để sống với nhau cho đến chết. Ly dị làm tổn hại giao ước cứu độ mà bí tích Hôn Phối là dấu chỉ. Tái hôn dù được luật đời công nhận càng làm cho t́nh trạng đỗ vỡ thêm tệ hại: người tái hôn, sau khi ly dị, phạm tội ngoại t́nh công khai và thường xuyên:

Nếu người chồng, sau khi đă chia ly với vợ ḿnh, ăn ở với một người phụ nữ khác, th́ phạm tội ngoại t́nh, v́ làm cho phụ nữ đó cũng phạm tội ngoại t́nh; người phụ nữ ăn ở với người đàn ông đó phạm tội ngoại t́nh v́ đă dụ dỗ chồng của người khác (T. Ba-xi-li-ô, nguyên tắc luân lư 73).

2385  Ly dị là phi luân v́ làm xáo trộn gia đ́nh và xă hội. Việc xáo trộn này kéo theo nhiều tổn hại nghiêm trọng: cho người phối ngẫu v́ bị ruồng bỏ; cho con cái phải đau khổ v́ cha mẹ phân ly, và lắm khi c̣n bị dằng co không biết theo ai; cho xă hội v́ hiệu quả lây lan của nó, nó thực sự là một tai ương cho xă hội.

2386 (1640)  Nếu một trong đôi vợ chồng là nạn nhân vô tội của phán quyết ly dị do ṭa án dân sự, người này không vi phạm luật luân lư. Có sự phân biệt rơ ràng giữa người phối ngẫu thành thật cố gắng trung thành với bí tích Hôn Phối và bị ruồng bỏ bất công, với người phá hủy hôn nhân thành sự theo Giáo Luật (x. FC 84) do phạm lỗi nặng.

Những xúc phạm khác đến phẩm giá hôn nhân

2387 (1610)  Chúng ta hiểu được bi kịch của một người, v́ muốn hoán cải theo Tin Mừng buộc phải từ bỏ một hoặc nhiều người vợ đă chung sống nhiều năm. Tuy nhiên, đa thê không phù hợp với luật luân lư, tuyệt đối nghịch lại với sự hiệp thông giữa vợ chồng: trực tiếp chối bỏ kế hoạch của Thiên Chúa đă được mặ)c khải cho ta từ buổi đầu, nghịch với phẩm giá b́nh đẳng của người nữ và người nam, cả hai hiến thân cho nhau trong một t́nh yêu trọn vẹn, duy nhất và độc hữu (x. FC 19; GS 47,2). Theo đức công b́nh, người đa thê khi trở thành ki-tô hữu phải chu toàn những trách vụ tài trợ cho các bà vợ trước và con cái của ḿnh.

2388 (2356 2207)  Tội loạn luân là quan hệ tính dục giữa những người họ hàng cùng huyết tộc hoặc hôn thuộc, mà luật cấm kết hôn với nhau (x. Lv 18,7-20). Thánh Phao-lô lên án trọng tội này: "Đi đâu cũng chỉ nghe nói đến chuyện dâm ô xảy ra giữa anh em... có kẻ ăn ở với thê thiếp của cha ḿnh! ... Nhân danh Chúa Giê-su, chúng ta phải nộp con người đó cho Xa-tan để xác thịt nó bị hủy diệt" (x. 1 Cr 5,1.4-5)...Tội loạn luân phá vỡ quan hệ gia đ́nh và cho thấy một sự thoái hóa trở về thú tính.

2389 (2285)  Có thể gọi là loạn luân, những lạm dụng tính dục do những người trưởng thành đối với trẻ con hoặc thiếu niên đă được ủy thác cho họ. Người phạm tội này phải chịu trách nhiệm gấp đôi: một mặt v́ gây gương xấu xâm phạm đến sự toàn vẹn thể lư và luân lư của các người trẻ, và để lại hậu quả tai hại suốt đời, mặt khác v́ họ lỗi trách nhiệm giáo dục của ḿnh.

2390 (1631)  Tự do sống chung là khi một người nam và một người nữ sống như vợ chồng nhưng không chịu tiến hành hôn nhân chính thức theo luật.

Kiểu nói tự do sống chung là dối trá, v́ có nghĩa ǵ một sự kết hợp trong đó hai con người không cam kết với nhau và do đó cũng chứng tỏ rằng họ không tín nhiệm nơi người kia, nơi chính ḿnh, hoặc ở tương lai?

353 (1385)  Kiểu nói này chỉ nhiều hoàn cảnh khác nhau: ăn ở với nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng tính chất của hôn nhân, không thể ràng buộc nhau bằng những cam kết dài lâu (x. FC 81). Tất cả những trường hợp này xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, phá hủy ư niệm về gia đ́nh, làm suy giảm cảm thức về ḷng thủy chung. Chúng nghịch với luật luân lư: hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân; ngoài hôn nhân, luôn luôn đó là một tội trọng và không được hiệp thông các bí tích.

2391 (2364)  Ngày nay, nhiều người đ̣i hỏi " quyền thử nghiệm", khi có ư định kết hôn. Dù những người quan hệ tính dục tiền hôn nhân có quyết tâm kết hôn, cũng không thể bảo đảm quan hệ liên vị giữa họ là chân thật và thủy chung, và nhất là giữ cho quan hệ này khỏi những ư muốn ngông cuồng và nông nổi (x."Persone humana" 7). Về phương diện luân lư, sự kết hợp xác thịt chỉ hợp pháp khi đă chính thức kết hôn. T́nh yêu không chấp nhận thử nghiệm; nhưng đ̣i hỏi hiến thân cho nhau trọn vẹn và dứt khoát (x. FC 80).

TÓM LƯỢC

2392  "T́nh yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi con người" (x. FC 11).

2393  Khi sáng tạo con người có nam có nữ, Thiên Chúa cho họ b́nh đẳng về nhân phẩm. Mỗi người, nam cũng như nữ, phải nh́n nhận và chấp nhận phái tính của ḿnh.

2394  Đức Ki-tô là khuôn mẫu của đời sống khiết tịnh. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống của ḿnh.

2395  Sống khiết tịnh là làm chủ phái tính, giúp ta làm chủ bản thân.

2396  Các tội trọng nghịch với đức khiết tịnh là: thủ dâm, tà dâm, sản xuất và phổ biến ấn phẩm khiêu dâm, đồng tính luyến ái.

2397  Giao ước đôi vợ chồng đă tự do kư kết bao hàm một t́nh yêu chung thủy, buộc vợ chồng bất khả phân ly.

2398  Con cái là phúc lành, quà tặng, cứu cánh của hôn nhân. Khi thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào tư cách làm cha làm mẹ cùng với Thiên Chúa.

2399  Việc điều ḥa sinh sản là một trong những khía cạnh thể hiện tư cách làm cha làm mẹ có trách nhiệm. Nhưng ư hướng chính đáng của vợ chồng không đủ để biện minh cho việc sử dụng các phương thế không thể chấp nhận về phương diện luân lư (thí dụ trực tiếp triệt sản hoặc ngừa thai).

2400  Ngoại t́nh và ly dị, đa thê và tự do sống chung là những xúc phạm nặng nề đến phẩm giá của hôn nhân.