CHƯƠNG BA
THIÊN CHÚA CỨU ĐỘ: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG

1949  Con người được gọi tới hưởng chân phúc, nhưng bị thương tổn do tội, nên cần được Thiên Chúa cứu độ. Thiên Chúa cứu giúp con người trong Đức Ki-tô: Người ban lề luật để hướng dẫn họ và ân sủng để nâng đỡ họ:

"Anh em hăy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho ḿnh được cứu độ. V́ chính Thiên Chúa tác động nơi anh em để anh em quyết chí và hành động theo kế hoạch Người đă đặt ra v́ yêu thương anh em" (Pl 2,12-13) .

Mục 1
Luật luân lư

1950 (53 1719)  Luật luân lư là tác phẩm của Thiên Chúa khôn ngoan. Theo nghĩa Kinh Thánh, có thể định nghĩa luật này như lời người Cha dạy dỗ con cái, như một phương pháp giáo dục của Thiên Chúa. Luật luân lư quy định cho con người những con đường, những quy tắc sống, dẫn đưa họ tới chân phúc Thiên Chúa hứa, cấm con người đi vào đường sự dữ, ĺa bỏ Thiên Chúa và t́nh yêu của Người. Luật luân lư tuy là những mệnh lệnh nghiêm khắc nhưng cũng là những lời hứa dễ thương.

1951 (295 306)  Luật là một quy tắc sống, được quyền bính hợp pháp ban hành nhằm phục vụ công ích. Luật luân lư giả thiết một trật tự hợp lư được Đấng Sáng Tạo quyền năng, khôn ngoan và nhân từ thiết lập để các thụ tạo đạt tới lợi ích và cứu cánh của chúng. Mọi luật đều nhận được chân lư nguyên thủy và tối hậu trong luật vĩnh cửu. Con người dùng lư trí công bố và thiết lập luật như một cách tham dự vào sự quan pḥng của Thiên Chúa hằng sống, Đấng Sáng Tạo và Cứu Độ mọi người. "Luật là quy định trật tự theo lư trí" (Lê-ô XIII, ") .

(301)  "Trong tất cả các sinh vật, chỉ con người mới có thể tự hào xứng đáng đón nhận luật của Thiên Chúa. V́ có lư trí để hiểu biết và nhận định, con người phải cư xử theo tự do và lư trí để suy phục Đấng trao ban mọi sự cho ḿnh" (Tertullien, Marc. 2,4) .

1952  Luật luân lư được thể hiện dưới nhiều dạng thức, và tất cả đều liên kết với nhau: luật vĩnh cửu là nguồn gốc thiên linh của mọi lề luật; luật tự nhiên; luật mặc khải gồm luật cũ và luật mới hay luật Tin Mừng; sau cùng dân luật và giáo luật.

1953 (587)  Luật luân lư được viên măn và thống nhất trong Đức Ki-tô. Người là hiện thân của con đường hoàn thiện, là cùng đích của lề luật, v́ chỉ có Người dạy dỗ và ban sự công chính của Thiên Chúa. "Cứu cánh của lề luật là Đức Ki-tô, khiến bất cứ ai tin đều được nên công chính" (Rm 10,4) .

I. LUẬT LUÂN LƯ TỰ NHIÊN

1954 (307 1776)  Con người được tham dự vào sự khôn ngoan và nhân từ của Đấng Sáng Tạo, Đấng cho họ quyền làm chủ mọi hành vi và khả năng tự hướng đến chân lư và sự thiện. Luật tự nhiên bày tỏ cảm thức luân lư nền tảng, nhờ đó con người dùng lư trí mà nhận định điều tốt và điều xấu, chân thật và dối trá:

Luật tự nhiên đă được Thiên Chúa viết và khắc ghi trong tâm hồn mọi người và mỗi người, v́ đây chính là lư trí của con người ra lệnh phải làm lành và lánh dữ...Quy định này của lư trí con người chỉ có giá trị là luật, v́ là tiếng nói và lời truyền đạt của một lư trí cao hơn mà tâm trí và tự do của chúng ta đều phải tùng phục (Lê-ô XIII,) .

1955 (1787 396 2070)  "Luật thiên định và tự nhiên" (x. GS 89,1) vạch cho loài người con đường phải theo để thi hành điều thiện và đạt tới cùng đích. Luật tự nhiên nêu ra những mệnh lệnh đầu tiên và chính yếu điều khiển đời sống luân lư. Trọng tâm của luật tự nhiên là tâm t́nh khao khát và tùng phục Thiên Chúa vốn là căn nguyên và tiêu chuẩn mọi điều thiện, cùng với cảm thức về tha nhân như người b́nh đẳng với ḿnh. Luật này được tŕnh bày thành những điều răn chính trong "Thập Giới". Luật này được gọi là tự nhiên, không phải v́ được rút ra từ thế giới tự nhiên không lư trí, nhưng xuất phát từ lư trí tự nhiên của con người:

"Các quy luật này được ghi chép ở đâu nếu không phải là trong quyển sách của thứ ánh sáng mà người ta gọi là chân lư ? Đó là nơi mọi lề luật đúng đắn được viết ra, từ đó được chuyển vào ḷng người để thực thi công chính. Không phải luật này đến "di trú" nơi ḷng người, nhưng ghi dấu ấn vào đó như chiếc nhẫn huy hiệu ghi dấu trên sáp, sáp mang h́nh huy hiệu nhưng huy hiệu vẫn ở trên nhẫn" (T Âu-tinh, Chúa Ba Ngôi 14,15,21) .

"Luật tự nhiên không ǵ khác hơn là ánh sáng trí tuệ do Chúa đặt trong ta, nhờ đó, chúng ta biết điều phải làm và điều phải tránh. Ánh sáng này hay luật này, Thiên Chúa đă ban khi sáng tạo con người" (T.Tô-ma A-qui-nô 1) .

1956 (2261)  Luật tự nhiên được Thiên Chúa ghi khắc trong ḷng mỗi người và được lư trí xác nhận, các điều khoản của luật tự nhiên có giá trị phổ quát, và buộc mọi người phải tuân theo. Luật này nói lên phẩm giá con người và xác định nền tảng các quyền và các bổn phận cơ bản của con người:

"Chắc chắn có một luật chân thật là lẽ phải, luật này phù hợp với tự nhiên, luật bất biến và vĩnh cửu. Mọi người phải thi hành các mệnh lệnh của nó. Những cấm đoán của nó giúp tránh xa tội lỗi...Thay thế nó bằng một luật nghịch lại là phạm thánh. Không được bỏ qua một điều luật nào. Không ai có thể loại bỏ hoàn toàn được" (Cicéron 3,22, 33) .

1957  Việc áp dụng luật tự nhiên rất đa dạng, có khi phải suy nghĩ để thích ứng với nhiều điều kiện sống khác nhau, tùy theo nơi chốn, thời đại và hoàn cảnh. Dù các nền văn hóa khác nhau, luật tự nhiên vẫn là một quy tắc nối kết con người với nhau, đặt cho họ những nguyên tắc chung, vượt trên những khác biệt không thể tránh khỏi.

1958 (2072)  Luật tự nhiên bất biến (x. GS 10) và trường tồn qua mọi biến thiên của lịch sử. Giữa những trào lưu ư tưởng và tập tục, lụât tự nhiên vẫn tồn tại và c̣n giúp chúng phát triển nữa. Về cơ bản, những luật diễn tả luật tự nhiên vẫn luôn có giá trị. Dù có chối bỏ cả đến những nguyên lư của luật tự nhiên, người ta cũng không thể hủy diệt nó, không thể gạt nó khỏi ḷng người; nó luôn tái xuất hiện trong đời sống của những cá nhân và của các xă hội:

"Lạy Chúa, mọi người đều biết luật của Chúa cấm trộm cắp, và luật đă ghi trong ḷng con người. Cũng thế, dù bao gian ác cũng không xóa được" (T.Âu-tinh, tự thuật 2,4,9) .

1959 (1879)  Luật tự nhiên là công tŕnh rất tốt đẹp của Đấng Sáng Tạo, cho con người những nguyên tắc cơ bản để thiết lập các quy tắc luân lư hướng dẫn họ lựa chọn. Luật tự nhiên cũng đặt nền móng luân lư không thể thiếu cho việc kiến tạo cộng đoàn nhân loại; và cung cấp cơ sở cần thiết cho luật dân sự. Luật dân sự phải gắn liền với luật tự nhiên, hoặc bằng cách rút ra kết luận từ các nguyên tắc của luật tự nhiên, hoặc bằng những bổ sung mang tính chất thành văn và pháp lư.

1960 (2071 37)  Không phải ai cũng có thể nhận ra cách rơ ràng và trực tiếp những giới luật của luật tự nhiên. Trong hoàn cảnh hiện tại, con người tội lỗi rất cần đến ân sủng và mặc khải để nhận biết các chân lư tôn giáo và luân lư "một cách trọn vẹn, dễ dàng, chắc chắn và không pha lẫn sai lầm" (Pi-ô XII, "Humani generis) ":DS 3876) . Luật tự nhiên là cơ sở do Thiên Chúa dọn sẵn và thích hợp với công tŕnh của Chúa Thánh Thần để con người đón nhận luật mặc khải và ân sủng.

II. LUẬT CŨ

1961 (62)  Thiên Chúa Sáng Tạo và Cứu Độ đă tuyển chọn Ít-ra-en làm dân riêng, và đă mặc khải cho họ Luật của Người để chuẩn bị cho Đức Ki-tô đến. Luật Mô-sê nêu ra nhiều chân lư mà lư trí tự nhiên có thể đạt tới. Các chân lư này được công bố và chứng thực ngay trong giao ước cứu độ.

1962  Luật cũ là bước đầu của luật mặc khải. Những mệnh lệnh luân lư của luật cũ được tóm lược trong mười điều răn. Các điều răn của Thập Giới đặt nền tảng cho ơn gọi làm người vốn được tạo dựng giống h́nh ảnh Thiên Chúa. Các điều răn ấy ngăn cấm những ǵ nghịch lại t́nh yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân và ấn định những đ̣i hỏi chính yếu của t́nh yêu ấy. Thập giới là ánh sáng cho lương tâm của mọi người, giúp họ nhận ra tiếng gọi và những con đường của Thiên Chúa, và bảo vệ họ khỏi sự ác:

"Thiên Chúa đă viết trên các bia luật những ǵ mà con người không đọc ra được trong ḷng ḿnh" (FT. Âu-tinh, 57) .

1963 (1610 2542 2515)  Theo truyền thống Ki-tô giáo, Luật cũ dù thánh thiện (x. Rm 7,12) , thiêng liêng (x. Rm 7,14) và tốt lành (x. Rm 7,16) nhưng vẫn chưa hoàn thiện. Như người giám thị (x. Gl 3,24) , luật cho thấy điều phải làm nhưng không ban cho sức mạnh là ân sủng của Thánh Thần để chu toàn. V́ không xóa được tội lỗi, luật cũ vẫn c̣n là luật của t́nh trạng nô lệ. Theo thánh Phao-lô, luật có chức năng tố cáo và) vạch trần tội lỗi, v́ tội lỗi tạo ra thứ "luật của dục vọng" (x. Rm 7) trong ḷng con người. Tuy nhiên, luật cũ vẫn là chặng đầu tiên trên con đường tiến về Nước Trời. Luật cũ chuẩn bị và giúp dân được tuyển chọn cũng như mỗi ki-tô hữu sẵn sàng để hoán cải và tin vào Thiên Chúa Cứu Độ. V́ là Lời của Thiên Chúa, luật cũ cho chúng ta một giáo huấn tồn tại đến muôn đời.

1964 (122)  Luật cũ chuẩn bị cho Tin Mừng. "Luật tiên báo và giáo dục về các thực tại sẽ đến" (T. I-rê-nê, chống lạc giáo 4,15,1) . Luật cũ tiên báo công tŕnh Đức Ki-tô sẽ thực hiện để giải thoát khỏi tội lỗi, cung cấp cho Tân Ước những h́nh ảnh, những tiên trưng, những biểu tượng, để diễn tả đời sống theo Thánh Thần. Cuối cùng, các sách giáo huấn và các ngôn sứ, bổ túc và hướng luật cũ đến Tân Ước và Nước Trời.

(1828)  Trong thời Cựu Ước, nhiều người đă được đức mến và ân sủng của Thánh Thần thúc đẩy, họ hết ḷng khát mong Thiên Chúa thực hiện những lời hứa thiêng liêng và vĩnh cửu, nhờ đó họ được nối kết với luật mới. Ngược lại, trong thời Tân Ước, cũng có những con người sống theo xác thịt, c̣n xa với sự hoàn thiện của luật mới. Để khuyến khích họ sống đức hạnh, phải giúp họ biết sợ Chúa phạt và mong được thưởng công. Dù luật cũ có dạy phải sống đức mến nhưng không ban Thánh Thần, "nhờ Người mà Thiên Chúa ban đức mến chan ḥa trong ḷng chúng ta" (Rm 5,5) (T.Tô-ma A-qui-nô 1-2, 107,1,2) .

III. LUẬT MỚI HAY LUẬT TIN MỪNG

1965 (459 581 715)  Luật mới hay luật Tin Mừng là dạng hoàn hảo ở đời này của luật Thiên Chúa, tự nhiên và mặc khải. Đây là luật của Đức Ki-tô, được tŕnh bày cách đặc biệt trong Bài Giảng Trên Núi. Đây cũng là công tŕnh của Thánh Thần, và nhờ Người, trở thành luật đức mến trong ḷng con người: "Ta sẽ thiết lập với nhà Ít-ra-en một giao ước mới...Ta sẽ ghi vào ḷng chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta, và Ta sẽ là Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta" (Dt 8,6-10) (x. Gr 31,31-34) .

1966 (1999)  Luật mới là ân sủng Chúa Thánh Thần ban cho các tín hữu nhờ tin vào Đức Ki-tô. Người tín hữu thực thi luật mới bằng đức mến. Trong luật mới, Chúa Ki-tô dùng bài giảng trên núi để dạy chúng ta điều phải làm, và các bí tích để thông ban ân sủng giúp chúng ta thực hiện.

"Ai suy niệm với ḷng đạo đức và sáng suốt, bài giảng mà Chúa chúng ta công bố trên núi, như được ghi trong sách Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu, chắc chắn sẽ t́m thấy bản hiến chương hoàn hảo cho đời sống ki-tô hữu....Bài giảng này chứa đựng tất cả những giới luật đặc thù để hướng dẫn đời sống Kitô hữu" (T. Âu-tinh bài giảng 1,1)

1967 (577)  Luật Tin Mừng "hoàn tất" tinh luyện, trổi vượt và kiện toàn luật cũ. Nơi các mối phúc, luật mới hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa bằng cách nâng cao và quy hướng chúng về "Nước Trời". Luật Tin Mừng dành cho những ai sẵn sàng tin tưởng đón nhận niềm hy vọng mới: những người nghèo, người khiêm tốn, người đau khổ, người có tâm hồn trong sạch, kẻ bị bách hại v́ Đức Ki-tô. Như thế Luật Tin Mừng mở ra những con đường của Nước Trời.

1968 (129 582)  Luật Tin Mừng hoàn tất các điều răn của Luật cũ. Bài giảng trên núi không hủy bỏ hay là giảm giá trị các qui định luân lư của Luật cũ, mà c̣n khai thông những tiềm năng tàng ẩn, và làm nổi bật những đ̣i hỏi mới của các qui định ấy. Luật mới làm sáng tỏ toàn bộ chân lư về Thiên Chúa và về con người trong luật cũ. Luật mới không thêm vào luật cũ những giới luật mới ở bên ngoài, nhưng canh tân tâm hồn là nơi phát xuất mọi hành vi, nơi con người chọn lựa giữa thanh khiết và ô uế (x. Mt 15,18-19) , nơi h́nh thành đức tin - cậy - mến, và các nhân đức khác. Như thế, Tin Mừng đưa luật cũ tới chỗ viên măn khi dạy chúng ta nên hoàn thiện như Cha trên trời (x. Mt 5,48) , tha thứ cho kẻ thù, và cầu nguyện cho những người bách hại theo gương ḷng cao thượng của Thiên Chúa (x. Mt 5 ,44) .

1969 (1434)  Luật mới dạy con người thực hành các hành vi tôn giáo: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, nhưng qui hướng về Cha "Đấng thấu suốt những ǵ kín đáo" thay v́ "cho người ta" (x. Mt 6,1-6, 16-18) . Kinh Lạy Cha (x. Mt 6,9-13) là lời cầu nguyện của những người sống theo luật mới.

1970 (1696 1789)  Luật Tin Mừng đ̣i chúng ta chọn lựa dứt khoát giữa "hai con đường" (x. Mt 7,13-14) và thực hành các lời Chúa dạy (x. Mt 7,21-27) . Luật Tin Mừng được tóm lược trong) khuôn vàng thước ngọc: "Tất cả những ǵ anh em muốn người khác làm cho ḿnh, th́ chính anh em cũng hăy làm cho người ta, v́ sách luật Mô-sê và các sách ngôn sứ dạy như thế" (Mt 7,12) (x. Lc 6,31) .

1823  Toàn bộ luật Tin Mừng thu gọn trong điều răn mới của Đức Giê-su (Ga 13,34) , là chúng ta hăy yêu thương nhau như Người đă yêu thương chúng ta (x. Ga 15,12) .

1971 (1789)  Chúng ta nên nối kết giáo huấn luân lư của các tông đồ vào bài giảng trên núi (x. Rm 12,15; 1Cr 12-13; Cl 3-4; Eph 4-5; v.v...) . Các lời dạy này truyền lại giáo huấn của Chúa với thẩm quyền của các tông đồ, đặc biệt trong việc tŕnh bày các nhân đức xuất phát từ ḷng tin vào Đức Ki-tô, và được đức mến là hồng ân chính yếu của Chúa Thánh Thần làm cho sống động. "V́ ḷng bác ái không được giả h́nh giả bộ... thương mến nhau với t́nh huynh đệ... hăy vui mừng v́ có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân và chuyên cần cầu nguyện. Hăy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đăi khách đến nhà" (Rm 12,9-13) . Các giáo huấn này cũng dạy chúng ta giải quyết những vấn đề lương tâm theo ánh sáng của mối tương quan giữa chúng ta với Chúa Ki-tô và với Hội Thánh (x. Rm 14; 1Cr 5-10) .

1972 (782 1828)  Luật mới được gọi là luật yêu thương v́ dạy ta hành động theo t́nh yêu mà Thánh Thần thông ban cho, hơn là v́ sợ hăi. Luật mới được gọi là) luật ân sủng, v́ nhờ đức tin và các bí tích, chúng ta nhận được sức mạnh của ân sủng để hành động. Luật mới là luật tự do (x. Gcb 1,25; 2,12) v́ giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc về nghi thức và pháp lư cũ, giúp chúng ta hành động theo sự thôi thúc của đức mến, và sau hết nâng chúng ta từ t́nh trạng tôi tớ "không biết việc chủ làm", lên bậc bạn hữu của Đức Ki-tô "v́ tất cả những ǵ Thầy nghe được nơi Cha Thầy th́ Thầy đă tỏ cho anh em biết" (Ga 15,15) và làm con thừa tự nữa (x. Gl 4,1-7. 21-31; Rm 8,15) .

1973 (2053 915)  Ngoài các giới luật, Luật Mới c̣n có những lời khuyên Phúc Âm. Truyền thống phân biệt các điều răn của Thiên Chúa với các lời khuyên Phúc Âm dựa trên tương quan với đức mến, là đỉnh cao của đời sống ki-tô hữu. Các điều răn ngăn cấm những ǵ nghịch với đức mến. Các lời khuyên nhằm loại bỏ những điều dù không nghịch với đức mến nhưng có thể cản trở đức mến phát triển (T.Tô-ma Aquinô 2-2; 184,3) .

1974 (2013)  Các lời khuyên Phúc Âm bày tỏ đức mến viên măn sống động, một đức mến không cho phép chúng ta thỏa măn với những ǵ đă làm được. Các lời khuyên minh chứng sức năng động của đức mến và mời gọi chúng ta có một tư thế sẵn sàng nội tâm. Luật mới đạt tới mức hoàn hảo trong giới luật mến Chúa yêu người. Các lời khuyên giới thiệu những con đường thẳng, những phương thế thuận lợi và được thực hành tùy theo ơn gọi của mỗi người:

"Thiên Chúa không muốn mỗi người đều phải giữ tất cả các lời khuyên, mà chỉ giữ những lời khuyên nào thích hợp với từng người, từng thời đại, trường hợp và sức lực khác nhau tùy đức mến đ̣i hỏi; v́ đức mến là nữ hoàng của mọi nhân đức; mọi giới răn, mọi lời khuyên, nói chung của mọi lề luật và hành động theo tinh thần Đức Ki-tô, nên đức mến ban cho chúng tất cả: thứ bậc, trật tự, thời gian và giá trị" (T. Phan-xi-cô Xa-lê-si-ô, 8,6) .

TÓM LƯỢC

1975  Theo Thánh Kinh, luật là lời Thiên Chúa như người cha dạy dỗ con cái, qui định cho con người những nẻo đường dẫn tới chân phúc Thiên Chúa hứa và cấm con người đi vào đường sự dữ.

1976  Luật là qui định trật tự theo lư trí nhằm phục vụ công ích, được người phụ trách cộng đoàn công bố (T. Tô-ma A-qui-nô 1-2,90,4) .

1977  Đức Ki-tô là cùng đích của lề luật (Rm 10,4) , chỉ có Người dạy dỗ và ban sự công chính của Thiên Chúa.

1978  Luật tự nhiên là sự tham dự của con người (được tạo dựng theo h́nh ảnh Đấng Sáng Tạo) vào sự khôn ngoan và nhân từ của Thiên Chúa. Luật tự nhiên nói lên phẩm giá con người và xác định nền tảng các quyền và các bổn phận cơ bản của con người.

1979  Luật tự nhiên th́ bất biến và trường tồn qua ḍng lịch sử. Về cơ bản, những qui luật diễn tả luật tự nhiên, vẫn luôn có giá trị. Luật tự nhiên là cơ sở cần thiết cho việc thiết lập các qui luật luân lư và cho luật dân sự.

1980  Luật cũ là bước đầu của luật mặc khải. Những qui định luân lư của luật cũ được tóm lược trong Mười Điều Răn.

1981  Luật Mô-sê nêu ra nhiều chân lư mà lư trí tự nhiên có thể đạt tới. Thiên Chúa đă mặc khải các chân lư ấy bởi v́ con người đă không đọc ra chúng trong ḷng ḿnh.

1982  Luật cũ là sự chuẩn bị cho Tin Mừng.

1983  Luật mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần ban cho các tín hữu nhờ tin vào Đức Ki-tô. Người tín hữu thực thi luật mới bằng đức mến. Chúa Ki-tô dùng Bài Giảng Trên Núi để diễn tả những điểm chính của luật mới và dùng các bí tích để thông ban ân sủng cho con người thực thi luật đó.

1984  Luật Tin Mừng hoàn tất trổi vượt và kiện toàn luật cũ: kiện toàn các lời hứa của luật cũ bằng các mối phúc của Nước Trời, kiện toàn các điều răn của luật cũ bằng canh tân tâm hồn là nơi phát xuất mọi hành vi.

1985  Luật mới là luật yêu thương, luật ân sủng, luật tự do.

1986  Ngoài những giới luật, luật mới c̣n gồm những lời khuyên Phúc Âm "sự thánh thiện của Hội Thánh cũng được đặc biệt khích lệ bởi nhiều lời khuyên Chúa đă đề ra trong Phúc Âm cho các môn đệ noi theo" (x. LG 42) .