I. " CHÚNG TA DÁM NGUYỆN RẰNG"
2777 (270) Trong phụng vụ Rô-ma, cộng
đoàn tham dự thánh lễ được mời
đọc kinh Lạy Cha với sự dạn dĩ
của người con; phụng vụ Đông Phương
cũng sử dụng và khai triển các kiểu nói
tương tự: "Chúng ta dám tin tưởng nguyện
rằng", "xin Chúa cho chúng con xứng đáng
nguyện rằng". Trước Bụi Gai Rực Cháy,
có tiếng phán bảo Môi-sê: "Chớ lại gần,
cởi dép ra" (Xh 3,5). Chỉ một
ḿnh Đức Giê-su có thể vượt qua ngưỡng
cửa thánh thiện để đến gần Thiên Chúa,
v́ Người là Đấng "đă tẩy trừ tội
lỗi"(Dt 1, 3), chính Người dẫn chúng ta
đến trước Thánh Nhan Chúa Cha: "Này Con đây, cùng với
những con cái mà Cha đă ban cho Con" (Dt 2,13).
Ư thức
t́nh trạng nô lệ của ḿnh lẽ ra chúng ta phải
độn thổ, kiếp phàm nhân phải tan thành cát
bụi, nếu như uy quyền của chính Cha chúng ta và
Thần Khí của Chúa Con không thúc đẩy chúng ta kêu lên:
"Áp-ba, Cha ơi!" (Rm 8,15). Có khi nào
một phàm nhân yếu hèn lại dám gọi Thiên Chúa là Cha,
nếu con người không được Quyền Năng
từ trời cao tác động?" (T.Gio-an
Phê-rô Rít-sô-lô-gơ, bài giảng 71).
2778 (2828) Chính Chúa Thánh
Thần giúp chúng ta đọc kinh Lạy Cha. Phụng
vụ Đông và Tây Phương diễn tả điều này
bằng từ "Parrhésia", một thuật ngữ
đặc biệt Ki-tô giáo muốn diễn tả tâm t́nh
đơn sơ chân thành, ḷng tin tưởng của
người con, vui mừng an tâm, dạn dĩ nhưng khiêm
nhu, xác tín là ḿnh được yêu thương (x Eph 3,12; Dt 3,6;4,16; 10,19; 1Ga 2,28; 3,21; 5,14).
II. "LẠY
2779 (239) Trước
khi bắt đầu nguyện xin, chúng ta phải loại
bỏ một số h́nh ảnh sai lạc của
"thế gian này". Chúng ta phải khiêm tốn nh́n
nhận rằng: "Không ai biết Chúa Cha, trừ
Người Con và kẻ mà Người Con muốn mặc
khải cho", nghĩa là "cho những người bé
mọn" (Mt 11,25-27). Chúng ta phải thanh
luyện tâm hồn, nghĩa là đừng để
những h́nh ảnh của Thiên Chúa như người cha
hay người mẹ, theo kinh nghiệm bản thân hay
văn hóa, ảnh hưởng đến tương quan
giữa chúng ta với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha
chúng ta, Người siêu việt trên mọi phạm trù
của thế giới thụ tạo. Khi
gán cho Người hay loại bỏ khỏi Người
những ư tưởng của chúng ta về Thiên Chúa, chúng ta
có nguy cơ tạo ra những ngẫu tượng
để tôn thờ hay đạp đổ. Cầu
nguyện cùng Chúa Cha là đón nhận mầu nhiệm
của Người, như Người hằng hữu và
như Chúa Con đă mặc khải cho chúng ta:
"Cách
gọi Thiên Chúa là Cha trước đây chưa hề mặc
khải.
Khi ông Mô-sê hỏi danh tánh Thiên Chúa, ông đă
được nghe một danh xưng khác. Đối với chúng ta, Danh Thiên Chúa đă
được mặc khải trong Chúa Con; v́ Chúa Giê-su
nhận ḿnh là Con nên Thiên Chúa được gọi là
Cha" (Tertulano, 3).
2780 (240) Chúng ta có thể kêu cầu Thiên
Chúa là Cha, v́ Con Thiên Chúa làm người mặc khải
như vậy, và v́ Thần Khí của Chúa Con đă làm cho
chúng ta nhận biết như vậy. Chúng ta tin Đức
Giê-su là Đấng Ki-tô và chúng ta "đă được Thiên
Chúa sinh ra"(1Ga 5,1), nên Thần Khí
của Chúa Con cho chúng ta tham dự vào tương quan ngă
vị giữa Chúa Con và Chúa Cha; đây là điều con
người không thể nghĩ ra được và
thần thánh trên trời cũng không hiểu
được (1 Ga 5,1).
2781 (2665) Khi cầu
nguyện cùng Chúa Cha, chúng ta được hiệp thông
với Người, và với Chúa Con là Đức Giê-su Ki-tô (1
Ga 1,3). Lúc đó, chúng ta mới nhận
biết và nhận ra Người, với ḷng thán phục
không ngơi. Với lời đầu
tiên của kinh Lạy Cha, chúng ta chúc tụng thờ lạy
Chúa Cha trước khi nguyện xin Người. Thiên Chúa được tôn vinh khi chúng ta nh́n
nhận Người là Cha và là Thiên Chúa thực. Chúng ta
tạ ơn Người v́ đă mặc khải Danh Thánh,
đă cho chúng ta tin vào Danh Người và Người
hiện diện trong chúng ta.
2782 (1267) Chúng ta có
thể thờ lạy Chúa Cha v́ Người đă tái sinh
chúng ta trong sự sống của Người khi nhận
chúng ta là nghĩa tử trong Con Một nhờ bí tích Thánh
Tẩy. Người tháp nhập chúng ta vào Thân
Thể Chúa Ki-tô, và nhờ bí tích Thêm Sức, Người cho
chúng ta trở thành những "người
được xức dầu" bằng Thánh Thần.
Thực
vậy, Thiên Chúa đă tiền định cho chúng ta
được làm nghĩa tử, được
đồng h́nh đồng dạng với Thân Thể vinh
quang của Đức Ki-tô. Từ nay, anh em được
dự phần với Đức Ki-tô, anh em đương
nhiên được gọi là những "người
được xức dầu" (T.Xy-ri-lô thành Giê-ru-sa-lem
3,1).
Con người mới, sau khi được tái sinh và
trả về cho Thiên Chúa nhờ ân sủng, trước
hết sẽ thưa: "Lạy Cha" v́ đă trở
nên con Thiên Chúa (T. Xy-ri-an 9).
2783 (1701) Như thế
với kinh Lạy Cha, chúng ta được mặc
khải về Thiên Chúa là Cha, đồng thời
được biết thiên chức của ḿnh (x. GS 22,1):
"Con
người ơi, ngươi không dám ngước mặt
lên trời, chỉ cúi nh́n xuống đất. Rồi th́nh
ĺnh, ngươi nhận được ân
sủng của Đức Ki-tô: mọi tội lỗi
ngươi đă được tha. Từ một tên
đầy tớ gian ác, ngươi trở thành đứa
con ngoan... Hăy ngước mắt nh́n lên Chúa Cha, Đấng
đă chuộc ngươi nhờ Con của Người,
và thưa: lạy Cha...
Nhưng
ngươi đừng đ̣i hỏi một đặc
quyền nào.
Người là Cha cách đặc biệt, của riêng
Đức Ki-tô, nhưng Người cũng c̣n là Cha của
tất cả chúng ta, v́ Người chỉ sinh ra; c̣n chúng
ta là thụ tạo do một ḿnh Đức Ki-tô nhưng
Người đă dựng nên chúng ta. Vậy nhờ ân
sủng, ngươi cũng hăy thưa: Lạy Cha chúng con,
để xứng đáng là con của Người"
(T.Am-rô-xi-ô 5,19)
2784 (1428) Ơn nghĩa
tử đ̣i chúng ta phải hoán cải không ngừng
để sống cuộc đời mới. Khi
đọc kinh Lạy Cha, chúng ta phải có hai tâm t́nh căn
bản:
1997 Tâm t́nh thứ nhất là ước
muốn được nên giống Người. Dù
được dựng nên theo h́nh
ảnh Thiên Chúa, nhưng phải nhờ ân sủng chúng ta
mới được phục hồi nét giống Thiên Chúa
hơn, nên chúng ta có bổn phận đáp lại ân sủng
này.
Phải
nhớ rằng: khi gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta có bổn
phận sống như con Thiên Chúa (T. Xy-ri-an 11).
"Anh
em không thể gọi Thiên Chúa Chí Nhân là Cha, nếu anh em c̣n
giữ ḷng độc ác và bất nhân; v́ khi đó, anh em
không c̣n giữ được dấu tích ḷng nhân lành
của Cha Trên Trời." (T.Gio-an Kim
Khẩu).
"Hăy
luôn chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Cha Trên
Trời, để tâm hồn ḿnh thấm nhuần vẻ
đẹp đó" (T.Ghê-gô-ri-ô thành Nít).
2785 (2562) Tâm t́nh thứ
hai là ḷng khiêm tốn và tin tưởng nơi Thiên Chúa,
nhờ đó chúng ta "trở nên như trẻ em" (Mt
18,3); v́ Chúa Cha "mặc khải cho những người
bé mọn" (Mt 11,25).
(Khi
đọc kinh Lạy Cha), chúng ta phải chiêm ngắm Thiên
Chúa, ḷng chúng ta bừng cháy lửa yêu mến. Nhờ đó,
linh hồn tan biến và hướng tới việc yêu
mến Thiên Chúa, thân t́nh tṛ chuyện với Thiên Chúa như
người Cha ruột, với ḷng yêu mến thảo kính đặc
biệt (T. Gio-an Cát-xi-ô 9,18).
"Lạy
Cha chúng con: danh hiệu này gợi lên trong ḷng chúng ta t́nh yêu
và sự tha thiết khi cầu nguyện... đồng
thời tin tưởng sẽ được Thiên Chúa
nhận lời. Thiên Chúa từ chối sao được,
khi chính Người vừa nhận họ là con?" (T.
Âu-tinh 2,4, 16).
III. LẠY
2786 (443) Khi gọi Thiên
Chúa là Cha "của chúng ta", chúng ta không nghĩ rằng
ḿnh chiếm hữu được Thiên Chúa, nhưng có
một tương quan mới mẻ với Người.
2787 (728) Khi gọi Thiên
Chúa là Cha "của chúng ta", trước hết chúng ta
nh́n nhận rằng mọi lời Thiên Chúa yêu thương
hứa qua các ngôn sứ đă được thực
hiện nơi Đức Ki-tô trong Giao ước Mới và
Vĩnh cữu: Chúng ta đă trở thành Dân "của
Người" và từ nay Người là Thiên Chúa
"của chúng ta". Thiên Chúa và chúng ta thuộc về
nhau: tương quan mới này là quà tặng của Thiên Chúa
(x. Hs 2,21-22; 6,1-6). Chúng ta phải đáp
lại "ân sủng và sự thật" mà Người
ban tặng "nhờ Đức Giê-su Ki-tô" (Ga 1,17) bằng ḷng yêu mến và trung thành.
2788 Kinh Lạy Cha là kinh nguyện
của Dân Chúa trong "thời sau hết", nên khi
đọc "của chúng con" chúng ta hy vọng
vững vàng vào lời hứa tối hậu của Thiên
Chúa. Trong thành thánh Giê-ru-sa-lem mới, Người sẽ phán
với kẻ chiến thắng: "Ta sẽ là Thiên Chúa
của người ấy và người ấy sẽ là
con của Ta"(Kh 21,7).
2789
(245 253) Khi đọc
"Lạy Cha chúng con", chúng ta thân thưa với Cha
của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Chúng
ta không phân chia thần tính, v́ Chúa Cha là "nguồn mạch
và căn nguyên" của thần tính. Nhưng ở
đây, chúng ta muốn tuyên xưng: từ muôn thuở, Chúa
Con được Chúa Cha sinh ra và Chúa Thánh Thần phát xuất
từ Chúa Cha. Chúng ta cũng không hề lẫn lộn các
Ngôi Vị, v́ chúng ta tuyên xưng rằng: chúng ta
được hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con là
Đức Giê-su Ki-tô, trong Thánh Thần duy nhất. Ba Ngôi Chí
Thánh đồng bản tính và không thể phân chia. Khi
cầu nguyện cùng Chúa Cha, chúng ta thờ lạy và tôn vinh
Người cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
2790 (787) Khi đọc "Lạy Cha chúng
con", chúng ta tuyên xưng Người là Cha của
nhiều người. Chỉ có một Thiên Chúa và
Người được nh́n nhận là Cha của những
kẻ đă được tái sinh bởi nước và
Thánh Thần (nhờ tin vào Con Một Thiên Chúa). "Hội
Thánh" chính là hiệp thông mới giữa Thiên Chúa và loài
người: Hội Thánh hiệp nhất với Con Một
Thiên Chúa là "trưởng tử giữa một đàn em
đông đúc" (Rm 8,29), nên Hội Thánh được
hiệp thông với Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần. Khi thưa
"Lạy Cha chúng con", mỗi Ki-tô hữu cầu
nguyện trong sự hiệp thông này: "các tín hữu tuy
đông đảo, mà chỉ có một ḷng một ư" (Cv
4,32).
2791 (821) Do đó, dù các Ki-tô hữu c̣n chia
rẽ, kinh Lạy Cha vẫn là tài sản chung và là một
lời mời gọi khẩn thiết cho mọi Ki-tô
hữu. Được hiệp thông với Chúa Ki-tô nhờ
đức tin và nhờ bí tích Thánh Tẩy, họ phải
cùng cầu nguyện với Chúa Giê-su để các môn
đệ được hiệp nhất (x. UR 8;22).
2792 Sau cùng, nếu thật ḷng
cầu nguyện "Lạy Cha chúng con", chúng ta thoát
được chủ nghĩa cá nhân, v́ khi đón nhận
Thiên Chúa yêu thương, chúng ta được giải
thoát. Từ "chúng con" ở đầu kinh Lạy
Cha, cũng như từ "chúng con" trong bốn
lời xin cuối kinh, không loại trừ một ai.
Để thật ḷng đọc kinh Lạy Cha (x. Mt
5,23-24;6,14-16) , chúng ta phải vượt qua mọi chia
rẽ và chống đối.
2793 (604) Các tín hữu không thể cầu
nguyện "Lạy Cha chúng con", mà không dâng lên tất
cả những ai Chúa đă ban tặng Con yêu dấu. T́nh yêu
của Thiên Chúa không có biên giới, nên lời cầu
nguyện của chúng ta cũng phải như vậy (x.
IV. "Ở TRÊN TRỜI"
2794 (326) Khi gọi Thiên Chúa là "Đấng
ngự trên trời", Thánh Kinh không muốn nói
Người đang ở một nơi nào đó trong không
gian, nhưng nói đến một cách hiện hữu; không
muốn nói Người ở xa ta, nhưng muốn nói
Người rất uy nghi cao cả. Thiên Chúa không ở
một nơi nào đó, nhưng Người là Đấng Thánh
vượt trên mọi sự chúng ta có thể quan niệm.
V́ Người là Đấng Chí Thánh, nên rất gần gũi
với những tâm hồn khiêm cung và thống hối:
Thật
có lư khi ta hiểu "Lạy Cha chúng con ở trên
trời" là Người hiện diện nơi tâm
hồn những người công chính, như trong
đền thờ của Người. Câu kinh đó cũng
có nghĩa là người cầu nguyện ước mong
Đấng ḿnh kêu cầu ngự trong ḷng ḿnh (T. Âu-tinh, Bài
giảng Chúa nhật 2,5,17).
"Ở
đây, chúng ta có thể hiểu "trời" là
những ai mang h́nh ảnh thiên quốc, Thiên Chúa vui thích
cư ngụ nơi tâm hồn họ" (T. Xy-ri-lô thành
Giê-ru-sa-lem 5,11).
2795 (1024) Biểu tượng
"trời" nhắc chúng ta nhớ đến mầu
nhiệm Giao Ước chúng ta đang sống, khi
đọc kinh "Lạy Cha". Trời là nơi Thiên
Chúa ngự, là Nhà Cha, nên là "quê hương" của
ta. V́ tội lỗi, chúng ta bị lưu đày xa miền
đất Giao Ước; nhờ hoán cải tâm hồn,
chúng ta được về "trời", về cùng
Cha. trong Đức Ki-tô, trời đất được giao
ḥa, v́ chỉ Chúa Con là Đấng "từ trời xuống
thế" và đưa chúng ta lên trời với
Người, nhờ cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và
Thăng Thiên (x. Ga 12,32; 14,2-3; 16,28;20,17; Eph 4,9-10; Dt 1,3; 2,13).
2796 (1003) Khi kêu cầu "Lạy Cha chúng
con ở trên trời", Hội Thánh tuyên xưng: chúng ta là
Dân Thiên Chúa, "đă được cùng ngự trị
với Đức Ki-tô Giê-su trên cơi trời" (Eph 2,6),
"hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi
Thiên Chúa"(Cl 3,3), đồng thời, "chúng ta rên
siết là v́ những ước mong được
thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng ta phủ lên
chiếc lều ở dưới đất này"(2 Cr
5,2):
"Các tín hữu có xác phàm, nhưng không sống theo xác phàm.
Họ sống trên dương thế, nhưng là công dân
Nước Trời" (Epitre á Diognète 5, 8-9).
TÓM LƯỢC
2797 Chúng ta phải đọc kinh
Lạy Cha với ḷng tin tưởng đơn sơ và
trung thành, khiêm tốn và vui mừng phó thác nơi Thiên Chúa.
2798 Chúng ta có thể kêu cầu Thiên
Chúa là "Cha", v́ Con Thiên Chúa làm người đă
dạy chúng ta như thế. Trong Đức Ki-tô, nhờ bí tích
Thánh Tẩy, chúng ta được tháp nhập vào Thân
Thể Người và được nhận là con Thiên
Chúa.
2799 Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng
ta được hiệp thông với Chúa Cha và với Con
của Người là Đức Giê-su Ki-tô, đồng
thời chúng ta được biết thiên chức của
ḿnh (GS 22,1).
2800 Khi đọc kinh "Lạy
Cha", chúng ta phải ước muốn được
nên giống Thiên Chúa, và phải có ḷng khiêm tốn và tin
tưởng.
2801 Khi đọc Lạy Cha
"của chúng con", chúng ta nhắc đến Giao
Ước Mới trong Đức Giê-su Ki-tô, sự hiệp
thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và t́nh yêu Thiên Chúa bao trùm cả
thế giới nhờ Hội Thánh.
2802 Khi gọi Thiên Chúa là Đấng
"ở trên trời", chúng ta không nghĩ rằng
Người đang ở một nơi nào đó, nhưng
muốn nói Người rất uy nghi cao cả và đang
hiện diện nơi tâm hồn những người công
chính. "Trời" là Nhà Cha, là quê hương đích
thực, nơi chúng ta hy vọng sẽ tới và hiện
nay chúng ta đă là thành viên.