2803 (2627) Sau khi đă đặt ḿnh
trước tôn nhan Thiên Chúa là Cha để thờ lạy,
yêu mến và chúc tụng Người, Thần Khí Nghĩa
Tử khơi lên trong ḷng chúng ta bảy lời nguyện
xin, bảy lời chúc tụng. Ba lời
đầu tiên, trực tiếp hướng về Thiên Chúa
hơn, hướng ḷng ta đến Vinh Quang Thiên Chúa.
Bốn lời sau, như những con đường
đến với Thiên Chúa, xin Người nh́n đến
thân phận khốn cùng của chúng ta mà ban Ân Phúc. "Ḱa
vực thẳm kêu gào vực thẳm,...
Chúa quên con sao đành?" (Tv 42,8-10).
2804 Ba lời nguyện đầu tiên
hướng chúng ta về Thiên Chúa và v́ Thiên Chúa: Danh Cha,
Nước Cha, Ư Cha. Đặc tính của t́nh yêu
là trước hết nghĩ đến người ḿnh
yêu. Ba lời nguyện này, không nói ǵ đến chúng
ta; nhưng chúng ta bị lôi cuốn theo ḷng "khát khao mong
mỏi" "đến khắc khoải" của
Chúa Con v́ lo cho Vinh Quang của Cha Người:
"nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị
đến, ư Cha thể hiện..." Ba lời nguyện
này được Thiên Chúa nhận lời trong hy tế
cứu độ của Đức Ki-tô; nhưng từ nay,
những lời nguyện này chứa chan hy vọng, c̣n
đang hướng về ngày thực hiện chung cuộc, bao lâu Thiên Chúa chưa hoàn
tất chương tŕnh cứu độ của
Người (1Cr 15, 28).
2805 (1105) Bốn lời
cầu xin sau đó diễn ra giống như trong một
số lời nguyện "xin ban Thánh Thần" trong
thánh lễ: Chúng ta dâng lên những hy vọng của ḿnh và
mong được Thiên Chúa là Cha Đầy Ḷng Thương Xót
nh́n đến. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa những lời này,
xin cho chính ḿnh, ở đời này trong hiện tại
"xin cho chúng con... xin tha nợ cho chúng con... xin chớ
để chúng con... xin cứu chúng con..." Lời xin
thứ tư và thứ năm liên quan đến cuộc
sống thực tế của ta: xin lương thực và
xin tha tội. Với hai lời cầu xin
cuối, chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa giúp sức trong
cuộc chiến để Sự Sống chiến
thắng, đây cũng là cuộc chiến trong cầu
nguyện.
2806 (1656,
2658) Nhờ
ba lời nguyện đầu tiên, chúng ta được
củng cố đức tin, tràn đầy đức
cậy và nung nóng đức mến. Chẳng
những là thụ tạo mà c̣n là tội nhân, chúng ta
phải khẩn cầu cho chúng ta, cho toàn thể nhân loại
trong thế giới và lịch sử. Chúng
ta dâng tất cả cho t́nh yêu vô biên của Thiên Chúa. V́ chính nhờ Danh Đức Ki-tô và triều
đại của Thánh Thần Người, Chúa Cha hoàn thành
kế hoạch cứu độ của Người, cho
chúng ta và cho toàn thế giới.
2807 (2097) Khi đọc
"nguyện Danh Cha cả sáng", chúng ta không chúc tụng
Thiên Chúa được thánh thiện hơn; nhưng
nguyện xin cho nhân loại nhận biết Người là
Đấng Thánh, nhận ra sự Vinh Hiển của
Người. Như thế, với tâm t́nh
thờ lạy, lời nguyện này đôi khi
được hiểu như một lời ca ngợi và
tạ ơn. Đức Giê-su dạy chúng ta lời
nguyện này như một ước nguyện: một
khẩn cầu, một khao khát và mong đợi mà Thiên Chúa
và loài người cùng cam kết. Lời
nguyện đầu tiên này đưa chúng ta ngay vào mầu
nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa và công tŕnh cứu độ
nhân loại. Khi "nguyện Danh Cha cả sáng"
chúng ta tham dự vào "kế hoạch yêu thương
Người đă định từ
trước","để trước thánh nhan Người,
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ t́nh
thương của người" (Ep 1,9.4).
2808
(203,432) Vào những thời
điểm quyết định của nhiệm cục
cứu độ, Thiên Chúa mặc khải danh thánh
Người, nhưng mặc khải bằng công tŕnh
Người thực hiện. Công tŕnh này
chỉ được thực hiện nơi chúng ta và cho
chúng ta, nếu danh Chúa được "cả sáng"
nhờ chúng ta và nơi chúng ta.
2809 (293
705) Trọng
tâm của mầu nhiệm cứu rỗi nơi Thiên Chúa là
sự thánh thiện không ai vươn tới
được. Tất cả những ǵ bộc lộ
sự thánh thiện này qua công tŕnh sáng tạo và lịch
sử được Thánh Kinh gọi là Vinh Quang của
Thiên Chúa, là Uy Nghi cao cả của Người chiếu
tỏa ra cho ta thấy. Khi tạo dựng nhân loại
"theo h́nh ảnh Người và giống như
Người", Thiên Chúa "ban cho con người vinh
quang danh dự làm mũ triều thiên" (Tv 8,3).
Khi phạm tội, họ bị tước mất vinh
quang Thiên Chúa (Rm 3,23). Bởi vậy, Thiên
Chúa sẽ bày tỏ sự Thánh Thiện bằng cách mặc
khải và ban tặng Thánh Danh, để phục hồi con
người "theo h́nh ảnh của Đấng Tạo
Hóa" (Cl 3,10).
2810 (63) Khi thề
hứa với tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa kết
ước nhưng không cho biết Thánh Danh. Với Mô-sê,
Người bắt đầu mặc khải danh thánh, và
cho toàn dân thấy vinh hiển của danh thánh Người,
khi cứu họ khỏi tay Người Ai Cập:
"Đức Chúa là Đấng cao cả uy hùng" (Xh 15,1). Kể từ Giao Ước
Xi-nai, dân này là dân "của Người" và họ
phải là một "dân thánh" (tiếng Híp-ri c̣n có
nghĩa là dân được thánh hiến), v́ danh thánh ở
nơi họ.
2811 (2143) Thiên Chúa Chí
Thánh đă ban cho dân này Lề Luật và không ngừng
nhắc nhở họ. Hơn nữa, "v́
danh thánh Người", Đức Chúa luôn nhẫn nại
với họ. Nhưng dân Chúa đă bất trung
với Đấng Thánh của Ít-ra-en và "xúc phạm
đến danh thánh Người trước mắt các dân
tộc"(Ed 20,14). Ư
thức được những điều đó,
những người công chính thời Cựu Ước,
những người nghèo trở về sau cuộc lưu
đày và các ngôn sứ luôn hết ḷng tôn kính danh thánh Chúa.
2812 (434) Sau cùng danh thánh
Thiên Chúa được mặc khải và ban tặng cho
chúng ta nơi Đức Giê-su như Đấng Cứu Độ mang
xác phàm: nơi bản thân Đức Giê-su, qua lời và Hy
Tế của Người. Đó cũng là trọng tâm của
lời nguyện tư tế: "Lạy Cha chí thánh,... Con xin thánh hiến chính ḿnh con cho họ,
để họ cũng được thánh hiến
nhờ sự thật" (Ga 17,19). V́
muốn Danh Cha cả sáng, Đức Giê-su đă "cho họ
biết danh Cha" (Ga 17,6). Khi hoàn
tất cuộc vượt qua, Đức Giê-su được
Chúa Cha ban cho một danh hiệu vượt trên mọi danh
hiệu: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, để tôn vinh Thiên
Chúa Cha" (Pl 2,11).
2813 (2013) Trong
nước Thánh Tẩy, chúng ta đă được
tẩy rửa, được thánh hóa, được nên
công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí
của Thiên Chúa chúng ta (1 Cr 6,11). Thiên Chúa kêu gọi chúng ta
sống thánh thiện (1 Th 4,7) trọn
đời. "Chính nhờ Thiên Chúa mà chúng ta
được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su,
Đấng đă trở nên sự thánh hóa cho chúng ta" (1Cr 1,30), nên vinh quang của Người và sự
sống của ta tùy thuộc việc danh Chúa
được cả sáng nơi chúng ta và do chúng ta. V́
thế lời nguyện đầu tiên của kinh Lạy
Cha rất khẩn thiết:
Thiên Chúa là Đấng Thánh Hóa, ai có thể thánh hóa Thiên Chúa?
Nhưng v́ lời Chúa dạy "các ngươi phải
thánh thiện, v́ Ta, Đức Chúa, Ta là Đấng Thánh" (Lv 20,26), nên chúng ta cầu xin để sau khi
được thánh hóa nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta
được vững bền trong đời sống thánh
thiện đă khởi đầu. Hằng
ngày chúng ta phải cầu xin như thế, v́ ngày nào chúng ta
cũng phạm lỗi và phải thanh tẩy tội
lỗi nhờ không ngừng thánh hóa bản thân...Như
vậy, chúng ta phải cầu nguyện để có
thể sống thánh thiện (T. Xưp-ri-a-nô 12).
2814 (2045) Nhờ chúng ta
sống đạo và cầu nguyện mà danh thánh Cha
được cả sáng giữa chư dân:
Chúng ta
nguyện cho danh Cha cả sáng, v́ nhờ Danh Thánh
Người mà toàn thể thụ tạo sa ngă
được cứu độ và thánh hóa, nhưng chúng ta
nguyện cho danh thánh Chúa được cả sáng nơi
chúng ta, nhờ đời sống của ta. Nếu
ta sống tốt lành, mọi người sẽ chúc
tụng danh Thiên Chúa, nếu ta sống tệ hại,
họ sẽ xúc phạm đến danh Người.
Thánh Phao lô nói: "chính v́ các ngươi mà danh Thiên Chúa
bị phỉ báng giữa chư dân" (x. Rm 2,24; Ed 36,20-22). Do đó, chúng ta cầu xin
để có được trong tâm hồn sự thánh
thiện danh Cha cả sáng (T. Phê-rô Kim Ngôn, bài giảng 71).
Để thực thi lời Chúa dạy: phải cầu
nguyện cho mọi người kể cả kẻ thù. Khi
đọc "nguyện danh Cha cả sáng", chúng ta
cầu xin cho danh Chúa được tôn vinh nơi chúng ta là
những người đang sống trong Người, và
cả nơi những người Thiên Chúa đang chờ
đợi để ban ơn cho họ; chính v́ thế,
chúng ta không đọc: nguyện danh Cha cả sáng nơi
chúng con, v́ ta muốn Danh Thánh được cả sáng
nơi mọi người (Tertuliano 3).
2815 (2750) Lời nguyện đầu tiên
này thâu tóm cả sáu lời nguyện xin tiếp theo; tất
cả đă được Thiên Chúa ưng nhận qua
lời nguyện của Chúa Ki-tô. Lời kinh dâng lên Chúa Cha
là lời nguyện của chúng ta nếu được
dâng lên nhân danh Đức Giê-su. Trong lời nguyện tư
tế, Đức Giê-su đă cầu xin: "Lạy Cha chí
thánh, xin ǵn giữ trong danh Cha những người mà Cha
đă ban cho con" (Ga 17,11).
II. NƯỚC
2816 (541,
2632,
Có thể
nói, Nước Thiên Chúa là chính Đức Ki-tô, Người là
Đấng chúng ta kêu cầu mọi ngày và đang nóng ḷng mong
đợi Người quang lâm. Người là sự
phục sinh của chúng ta, v́ chúng ta được phục
sinh trong Người. Cũng thế, Người là
Nước Thiên Chúa, v́ chúng ta được hiển
trị trong Người" (T. Xưp-ri-a-nô 13).
2817 (451,
2632, 671) Lời nguyện này là
lời "MA-RA-
"Dù
lời cầu nguyện này không đ̣i chúng ta cầu cho
Nước Chúa trị đến, nhưng chúng ta vẫn
kêu lên như thế, để sớm đạt
được những ǵ chúng ta kỳ vọng. Sách
Khải Huyền cho biết từ dưới bàn thờ,
linh hồn các vị tử đạo lớn tiếng kêu
cầu Chúa: "Lạy Chúa, cho đến bao giờ Ngài c̣n
tŕ hoăn, không xét xử và không bắt những người
sống trên mặt đất phải đền nợ máu
chúng con?"(Kn 6,10). Chắc chắn các ngài sẽ
được xét xử công bằng vào ngày tận thế.
Lạy Cha, nguyện Nước Cha trị đến
(Tertulien 5)!
2818 (769) Khi đọc "Nước Cha
trị đến", chúng ta mong đợi ngày
Nước Chúa hoàn tất khi Chúa Ki-tô quang lâm. Ước
mong này không làm cho Hội Thánh xao lăng sứ mạng nơi
trần thế, trái lại càng thúc giục chúng ta dấn
thân hơn nữa. V́ từ ngày Hiện Xuống, việc
làm cho Nước Chúa trị đến là công tŕnh của
Chúa Thánh Thần, "Đấng kiện toàn sự nghiệp
của Chúa Ki-tô trên trần gian và hoàn tất công tŕnh thánh
hóa muôn loài" (SLRM, kinh tạ ơn 4).
2819 (2046
2516) "Nước Thiên Chúa
là sự công chính, b́nh an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm
14,17). Thời đại cuối cùng mà chúng ta đang
sống là thời Thánh Thần được ban tràn
đầy cho muôn người. Kể từ đó, cuộc
chiến đấu quyết định giữa "xác
thịt" và Thần Khí đă khởi đầu:
2519 Chỉ người có tâm hồn
trong sạch mới có thể tin tưởng xướng
lên: nguyện Nước Cha trị đến. Ai nghe
lời thánh Phao-lô dạy: "Đừng để tội
lỗi thống trị thân xác phải chết của chúng
ta nữa" (Rm 6,12) và biết giữ tư tưởng,
lời nói và hành vi của ḿnh trong sạch, người
đó mới có thể nói với Thiên Chúa: "nguyện
Nước Cha trị đến" (T. Xy-ri-lô thành
Giê-ru-sa-lem 5,13).
2820 (1049) Được Thánh Thần
hướng dẫn, các tín hữu phải biết phân
biệt giữa sự thăng tiến của Nước
Thiên Chúa và sự tiến bộ văn hóa và xă hội trong
môi trường họ sinh sống. Phân biệt chứ không
phải tách biệt, v́ ơn gọi sống đời
đời không miễn trừ nhưng đ̣i buộc con
người phải sử dụng những năng lực
và phương tiện được Đấng Tạo Hóa
ban tặng, để phục vụ công lư và ḥa b́nh trên
trần gian.
2821 (2746) Lời nguyện xin này
được ghép vào và được Thiên Chúa nhận
lời trong lời nguyện của Đức Giê-su đang
hiện diện và hữu hiệu trong bí tích Thánh Thể.
Lời nguyện xin này sinh hoa kết quả trong
đời sống mới theo các mối phúc.
III. Ư
2822
2823 (59) "Người cho ta được
biết Thiên ư nhiệm mầu: Thiên ư này là kế hoạch
yêu thương Người đă định từ
trước... là quy tụ muôn loài trong trời đất
dưới quyền một thủ lănh là Đức Ki-tô.
Cũng trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi
sự theo quyết định và ư muốn của
Người, đă tiền định cho chúng ta đây làm
cơ nghiệp riêng"(Ep1,9-11). Chúng ta khẩn xin
Người cho kế hoạch yêu thương này
được thực hiện trọn vẹn dười
đất, như đă thực hiện trên trời.
2824 (475
612) Ư Cha được
thực hiện trọn vẹn và một lần dứt
khoát trong Đức Ki-tô và qua ư muốn nhân loại của
Người". Khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Lạy
Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ư
Ngài" (Dt 10,7). Chỉ ḿnh Đức Giê-su mới có thể
nói: "Tôi hằng làm những điều đẹp ư
Người" (Ga 8,29). Trong giờ hấp hối,
Người cũng hoàn toàn vâng phục ư Cha: "Xin
đừng làm theo ư con, mà xin theo ư Cha" (Lc 22,42). V́
thế, "Đức Ki-tô đă tự hiến v́ tội
lỗi chúng ta, theo ư muốn của Thiên Chúa"(Gl 1,4).
"Theo ư đó, chúng ta được thánh hóa nhờ
Đức Giê-su Ki-tô đă hiến dâng thân ḿnh làm lễ
tế" (Dt 10,10).
2825 (615) Đức Giê-su, dù là Con Thiên Chúa,
Người đă phải trải qua nhiều đau
khổ mới học được thế nào là vâng
phục" (Dt 5,8); phương chi chúng ta là những
thụ tạo và là tội nhân, đă được
nhận làm nghĩa tử của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô.
Chúng ta cầu xin Chúa Cha cho ư muốn của ta nên một
với ư muốn của Chúa Con để chúng ta chu toàn ư Cha
và thực hiện ư định cứu độ của
Cha là cho thế gian được sống. Trong công
việc này, chúng ta hoàn toàn bất lực, nhưng nhờ
kết hiệp với Đức Giê-su và nhờ quyền
năng của Thánh Thần, chúng ta có thể dâng cho Cha ư
muốn của ta và quyết định chọn
điều Chúa Con luôn chọn: làm điều đẹp
ḷng Cha (Ga 8,29).
"Khi
gắn bó với Chúa Ki-tô, chúng ta có thể một ḷng
một ư với Người, và nhờ đó thực thi ư
muốn của Người; như thế, ư Chúa sẽ
được chu toàn dưới đất cũng như
trên trời"(Ô-ri-ghê-nê 26).
Hăy xem cách Đức Giê-su Ki-tô dạy chúng ta sống khiêm
tốn, khi cho ta thấy rằng đức độ
của ta không tùy thuộc công sức của ḿnh nhưng
nhờ ân sủng Thiên Chúa. Ở đây Người ra
lệnh cho mỗi tín hữu: khi cầu nguyện, phải
cầu nguyện chung cho toàn thế giới. V́ Người
không dạy: "Xin cho ư Cha thể hiện" nơi tôi
hay nơi anh em, nhưng là "trên khắp địa
cầu"; nghĩa là chúng ta cầu nguyện: Xin Cha xóa
bỏ mọi sai lầm, cho chân lư ngự trị, nết xấu
bị hủy diệt, nhân đức được
nảy nở và đất không c̣n khác với trời
nữa (T. Gio-an Kim Khẩu, Mt 19,5).
2826 Nhờ cầu nguyện, chúng ta
"có thể nhận ra đâu là ư Chúa" (Rm 12,2), và có
được ḷng "kiên nhẫn để thi hành ư Thiên
Chúa"(Dt 10,36). Đức Giê-su đă dạy: người ta
vào được Nước Trời, không phải nhờ
nói, nhưng nhờ việc "thi hành ư muốn của Cha
trên trời" (Mt 7,21).
2827 (2611) "Ai làm theo ư Thiên Chúa, th́
Người nhậm lời kẻ ấy" (Ga 9,31).
Lời Hội Thánh cầu nguyện nhân danh Chúa có
được sức mạnh ấy, nhất là trong Thánh
Lễ. Lời cầu nguyện của Hội Thánh c̣n là
một lời chuyển cầu hiệp thông với Thánh
Mẫu của Thiên Chúa (x. Lc 1, 38.49) và với toàn thể các
thánh, những người "đẹp ḷng Chúa" v́
luôn thi hành thánh ư Người:
(796) "Chúng ta có thể không sợ sai
khi dịch câu "Ư Cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời" là nguyện cho Ư
Cha được thể hiện trong Hội Thánh cũng
như nơi Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng con, nơi Hiền
Thê của Người cũng như nơi Phu Quân là
Đấng đă chu toàn Ư Cha (T. Âu-tinh, bài giảng Chúa nhật
2, 6, 24).
IV. "XIN
2828 (2778) "Xin Cha cho chúng con": c̣n ǵ
đẹp hơn ḷng tin tưởng của con cái trông
chờ Cha ban cho mọi sự. "Người cho mặt
trời mọc lên, soi sáng kẻ xấu cũng như
người tốt, và cho mưa xuống trên người
công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt 5,45).
"Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa, đợi
chờ Ngài đến bữa cho ăn" (x. Tv 104,27).
Đức Giê-su dạy chúng ta lời xin này v́ đây là lời
tôn vinh Chúa Cha, nh́n nhận Người là Đấng Tốt
Lành, vượt xa mọi ḷng tốt của con
người.
2829 (1939) "Xin Cha cho chúng con" cũng
là lời cầu xin trong tinh thần Giao Ước: chúng ta
thuộc về Người và Người thuộc về
chúng ta, lo cho chúng ta. Nhưng "chúng con" cũng nh́n
nhận Người là Cha của mọi người, nên
cầu xin Cha cho mọi người, lời chúng con cùng chia
sẻ mọi nhu cầu và đau khổ của họ.
2830 (2638) Khi xin "lương
thực", chúng ta muốn nói: Cha là "Đấng ban cho
chúng con sự sống, không lẽ Cha lại không ban cho chúng
con lương thực cần thiết để sống,
cùng với mọi của cải" "xứng
hợp" cả tinh thần lẫn vật chất. Trong
Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su nhấn mạnh đến
ḷng tín thác của con cái: cộng tác với Cha là Thiên Chúa
Quan Pḥng. Người không khuyến khích chúng ta thụ
động, nhưng muốn giải thoát ta khỏi mọi
lo lắng và bận tâm. Người dạy ta sống tâm
t́nh phó thác của con cái Thiên Chúa:
(227) Đối với những ai lo t́m
kiếm Nước Trời và sự công chính của Thiên
Chúa, Người hứa sẽ ban cho họ đủ
mọi sự. Mọi sự đều là của Chúa: ai có
được Thiên Chúa th́ có mọi sự, miễn là Thiên
Chúa có người ấy (T. Cyprien 21).
2831 (1038) Chung quanh ta c̣n có những
người đói v́ thiếu ăn. Điều này mở ra
cho chúng ta một ư nghĩa sâu xa hơn của lời
cầu xin này. Cảnh nghèo đói trên thế giới mời
gọi các Ki-tô hữu đang thật ḷng cầu nguyện
phải có trách nhiệm thực tế đối với
anh em, cả trong đời sống cá nhân cũng như
trong t́nh liên đới với các gia đ́nh nhân loại.
Lời cầu xin này trong kinh Lạy Cha gắn liền
với giáo huấn của dụ ngôn Người Nghèo Khó
La-da-rô và dụ ngôn Ngày Phán Xét Chung (Mt 25,31-46).
2832 (1928) Như men trong bột, nét mới
mẻ của Nước Trời phải được
Thần Khí của Chúa Ki-tô khơi dậy trên khắp
địa cầu (AA 5). Nét mới mẻ này phải
được thể hiện qua việc thiết lập
công b́nh trong các tương quan cá nhân cũng như xă
hội, kinh tế và quốc tế. Chúng ta đừng bao
giờ quên rằng không thể có cơ cấu xă hội
công b́nh nếu không có những con người muốn
sống công b́nh.
2833 (2790,
2546) Chúng ta xin lương
thực "cho chúng ta": "ít lương thực"
cho "nhiều người". Mối phúc thứ
nhất về tinh thần nghèo khó dạy chúng ta biết
chia sẻ: hiệp thông và chia sẻ của cải vật
chất cũng như tinh thần, không phải v́ bó
buộc nhưng v́ yêu thương, "Anh em có
được dư giả là để giúp đỡ
những người đang lâm cảnh túng thiếu" (2
Cr 8,15).
2834 (2428) Thánh Biển Đức dạy các
đan sĩ: "Cầu nguyện và làm việc" (T.
Benoit 20,48). Chúng ta phải cầu nguyện như thể
tất cả đều tùy thuộc vào Thiên Chúa và phải
làm việc như thể tất cả tùy thuộc vào ḿnh.
Lương thực nhận được sau khi chúng ta
đă vất vả làm việc vẫn là quà tặng của
Cha Trên Trời; nên chúng ta vẫn phải cầu xin Cha ban
lương thực và phải tạ ơn Người v́
lương thực có được. V́ thế, các gia
đ́nh Ki-tô hữu đọc kinh khi dùng bữa.
2835 (2443
1384) Lời cầu xin này trong
kinh Lạy Cha và trách nhiệm kèm theo, cũng áp dụng vào
một cái đói khác mà con người phải chịu,
đói Lời Chúa và Thánh Thần như Sách Thánh nói:
"người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh,
nhưng c̣n sống nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa
phán ra" (Đnl 8,3; Mt 4,4). Các Ki-tô hữu phải vận
dụng mọi nỗ lực để "loan Tin Mừng
cho những người nghèo khó." Con người trên
trái đất c̣n một thứ đói khát, "không
phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước
uống, mà là đói khát được nghe Lời Đức
Chúa" (Am 8,11). V́ thế, người Ki-tô hữu
đặc biệt hiểu lời xin thứ tư về Bánh
Hằng Sống: đó là Lời Chúa ta đón nhận trong
đức tin và Ḿnh Thánh Chúa ta lănh nhận trong bí tích Thánh
Thể (Ga 6,26-58).
2836 (1165) Khi đọc "hôm nay", chúng
ta cũng nói lên ḷng tín thác. Chúa dạy như vậy chứ
chúng ta không dám đặt ra. Khi nói đến Lời và Ḿnh
Thánh Chúa, chữ "hôm nay" không chỉ nói đến
ngày hôm nay của thời gian mau qua này, mà muốn nói
đến Ngày Hôm Nay của Thiên Chúa:
"Nếu
bạn nhận được lương thực mỗi
ngày, th́ mỗi ngày đối với bạn đều là
ngày hôm nay. Nếu Đức Ki-tô thuộc về bạn hôm nay,
th́ mỗi ngày Người sống lại cho bạn. Làm sao
lại như thế được? Thiên Chúa phán: "Con
là con của Cha, ngày hôm nay Cha đă sinh ra con" (Tv 2,7). Ngày
Hôm Nay nghĩa là: Ngày Đức Ki-tô Phục Sinh" (T.
Am-rô-xi-ô 5,26).
2837 (2659
2633 1405 1166 1389) " Hằng
ngày": Tân Ước không có chỗ nào khác sử dụng
từ ngữ này. Hiểu theo nghĩa thời gian, chữ
"hằng ngày" lặp lại chữ "hôm nay"
theo ư giáo dục: giúp chúng ta khẳng định ḷng tin
tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Gắn
với từ "lương thực", đây là
những ǵ cần để sống, hay hiểu rộng
hơn là những ǵ cần để sống đầy
đủ. Nguyên ngữ Hy lạp (épiousios: vượt trên
cái cốt yếu) trực tiếp chỉ về Bánh
Hằng Sống, Ḿnh Thánh Chúa, phương dược
trường sinh, nếu thiếu chúng ta không có Sự
Sống. Cuối cùng, liên kết với những ǵ vừa
nói trên đây, ư nghĩa Nước Trời rất rơ:
"hằng ngày" là Ngày của Chúa, Ngày của Tiệc
Nước Trời đă được cho thấy
trước trong Thánh Lễ để chúng ta nếm
trước Nước Trời đang đến. V́
thế nên cử hành Thánh Thể "hằng ngày".
"Thánh
Thể là lương thực hằng ngày của chúng ta.
Đặc tính của lương thực thần thiêng này là
sức mạnh hiệp nhất: hiệp nhất chúng ta
với Thân Thể Đấng Cứu Độ và làm cho chúng ta
trở nên chi thể Người, để chúng ta trở
thành Thân Thể của Đấng chúng ta lănh nhận...Lương
thực hằng ngày cũng được ban trong các bài
đọc chúng ta nghe mỗi ngày ở nhà thờ, trong các
thánh thi chúng ta nghe và hát. Tất cả đều cần
thiết cho chúng ta trên đường lữ hành" (T.
Âu-tinh).
"Cha
Trên Trời khuyến khích chúng ta là con cái Nước
Trời hăy xin Bánh Bởi Trời (x. Ga 6,51). Đức Ki-tô là
tấm bánh: Thiên Chúa gieo trong ḷng Đức Trinh Nữ, cho
lớn lên trong xác phàm, nhào nắn trong cuộc Khổ
Nạn, nướng trong mộ đá, cất giữ trong
Hội Thánh, dọn ra trên các bàn thờ, và mỗi ngày cung
cấp cho các tín hữu làm lương thực
trường sinh"(T. Phê-rô Kim Ngôn 71).
V. "XIN THA NỢ CHÚNG CON NHƯ
CHÚNG CON CŨNG THA KẺ CÓ NỢ CHÚNG CON "
2838 (1425
1933 2631) Lời cầu xin này
thật lạ lùng. Nếu chỉ có phần đầu
"xin tha nợ chúng con", lời xin này lẽ ra đă
hàm chứa trong ba lời nguyện đầu kinh Lạy Cha,
v́ Đức Ki-tô tự hiến tế để "cho
mọi người được tha tội". Phần
thứ hai của lời xin cho thấy: Thiên Chúa chỉ
nhận lời nếu trước đó chúng ta đáp
ứng một đ̣i buộc. Lời xin này sẽ
được Thiên Chúa ban với điều kiện chúng
ta phải đáp ứng điều Chúa đ̣i buộc trước:
Thiên Chúa sẽ tha cho chúng ta "như " chúng ta tha cho anh
em.
"Xin tha nợ chúng con"...
2839 (1425
1439 1422) Chúng ta đă bắt
đầu xin Cha trên trời với ḷng tin tưởng
dạn dĩ. Khi "nguyện Danh Cha cả sáng", chúng
ta đă xin Người luôn thánh hóa chúng ta hơn nữa.
Nhưng dù đă được mặc áo trắng tinh
tuyền khi Rửa Tội, chúng ta vẫn tiếp tục
phạm tội, quay lưng lại với Thiên Chúa. Giờ đây,
trong lời xin này, chúng ta như người con hoang đàng
trở về với Cha, và như người thu thuế
nhận ḿnh là tội nhân trước nhan Người.
Lời xin này bắt đầu bằng một lời thú
tội, vừa thú nhận t́nh trạng khốn cùng của
ḿnh vừa tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng hay thương
xót. Niềm hy vọng này được bảo đảm
trong Con Một Người, "chúng ta đă
được cứu chuộc, được thứ tha
tội lỗi" (Cl 1,14; Ep 1,7). Trong các bí tích của
Hội Thánh, chúng ta gặp được dấu chỉ
hữu hiệu và chắc chắn về ơn tha tội (x.
Mt 26-28; Ga 20,23).
2840 (1864) Nhưng thật đáng sợ,
nguồn ơn thương xót của Thiên Chúa không vào
được ḷng ta nếu chúng ta không tha cho những
người có lỗi với chúng ta. Cũng như Thân
Thể Đức Ki-tô, T́nh yêu không thể phân chia: chúng ta không
thể yêu mến Thiên Chúa mà ta không thấy, nếu ta không
yêu mến anh chị em mà ta đang thấy được.
Khi từ chối tha thứ cho anh chị em ḿnh, ḷng chúng ta
đóng lại và trở nên chai đá không thể đón
nhận t́nh thương tha thứ của Cha. Khi thú
nhận tội lỗi, chúng ta mở rộng tâm hồn
để đón nhận ân sủng của Người.
2841 Lời xin này quan trọng
đến nỗi đây là lời duy nhất, trong Bài
Giảng Trên Núi, Chúa Giê-su phải trở lại chủ
đề này và khai triển thêm. Con người không có
khả năng chu toàn đ̣i hỏi quyết liệt này
của mầu nhiệm giao ước, nhưng Thiên Chúa có
thể làm được mọi sự.
..."như chúng con cũng tha
kẻ có nợ chúng con"
2842 (521) Khi giảng dạy, Đức Giê-su
nhiều lần dùng chữ "như": "anh em hăy nên
hoàn thiện "như" Cha anh em trên trời là Đấng
hoàn thiện" (Mt 5,48); "Anh em hăy có ḷng nhân từ
"như" Cha anh em là Đấng nhân từ" (Lc 6,36) ;
"Thầy ban cho anh em một điều răn mới:
anh em hăy yêu thương nhau "như" Thầy đă yêu
thương anh em"(Ga 13,34). Chúng ta không thể giữ
được điều răn của Chúa, nếu
chỉ bắt chước Chúa bằng những hành vi bên
ngoài. Chúng ta phải hiệp thông sống động và
"hết ḷng" với sự thánh thiện, ḷng
thương xót và yêu thương của Thiên Chúa. Chỉ có
Thánh Thần, "nhờ Người mà chúng ta sống"
(Ga 5,25), mới có thể làm cho chúng ta có được tâm
t́nh của Đức Giê-su Ki-tô (Pl 2,1-5). Khi được
hiệp thông với Thiên Chúa đầy ḷng tha thứ,
"chúng ta biết tha thứ cho nhau "như" Thiên
Chúa đă tha thứ cho chúng ta trong Đức Ki-tô" (Ep 4,32).
2843 (368) Như thế, lời Chúa dạy
về tha thứ mang sức sống v́ dạy chúng ta
sống đến tận cùng của t́nh yêu (Ga 13,1). Khi
đưa ra dụ ngôn người đầy tớ không
biết thương xót là đỉnh cao của giáo
huấn về hiệp thông trong Hội Thánh (x. Mt 18,23-35) ,
Đức Giê-su kết luận: "Cũng vậy, Cha của
Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử
với anh em như thế, nếu mỗi người trong
anh em không hết ḷng tha thứ cho anh em ḿnh" (Mt 18, 23-35).
Tội lỗi của chúng ta bị cầm buộc hay
được tháo gỡ đều tùy vào việc "hết
ḷng tha thứ" của ta. Chúng ta không có khả năng
bỏ qua hay quên đi lỗi của anh em; nhưng ai
sống theo Thánh Thần sẽ biết cảm thương
người bị xúc phạm đến ḿnh và thanh
luyện kư ức bằng cách chuyển cầu cho
người có lỗi.
2844 (2262) Việc cầu nguyện giúp
người Ki-tô hữu biết tha thứ cho cả kẻ
thù (x. Mt 5,43-44) , và biến đổi người môn
đệ nên đồng h́nh đồng dạng với
Thầy của ḿnh. Tha thứ là một đỉnh cao
của kinh nguyện Ki-tô giáo; Thiên Chúa chỉ ban ơn
cầu nguyện cho tâm hồn nào biết ḥa nhịp
với ḷng thương xót của Người. Tha thứ
c̣n minh chứng rằng trong thế giới này, t́nh yêu
mạnh hơn tội lỗi. Các vị tử đạo,
trong quá khứ cũng như hiện tại, đều làm
chứng cho Đức Giê-su bằng cách này. Tha thứ là
điều kiện căn bản để có sự giao
ḥa giữa con người với Thiên Chúa (x. 2Cr 5, 18-21) và
giữa con người với nhau (x. Gio-an Phao-lô II, DM 14).
2845 (1441) Sự tha thứ này bắt
nguồn từ Thiên Chúa nên không có giới hạn hay mức
độ. Nếu đề cập đến xúc phạm
(hay "tội" theo Lc 11,4; "nợ" theo Mt 6,12),
trong thực tế chúng ta luôn luôn là kẻ mắc nợ:
"anh em đừng mắc nợ ǵ ai, ngoài món nợ
tương thân tương ái" (Rm 13,8). Sự hiệp
thông giữa Ba Ngôi Chí Thánh là nguồn mạch và tiêu
chuẩn chân thực cho mọi tương quan. Chúng ta
sống hiệp thông này trong cầu nguyện, nhất là trong
bí tích Thánh Thể.
Thiên Chúa
không nhận lễ vật của kẻ gây bất ḥa.
Người dạy họ để của lễ lại
bàn thờ về giao ḥa với anh em trước đă;
Thiên Chúa chỉ vui nhận những lời cầu
nguyện trong an ḥa. Đối với Thiên Chúa, lễ dâng
đẹp nhất là chúng ta sống an b́nh, ḥa thuận, và
toàn dân thánh hiệp nhất trong Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần (T. Cyprien 23).
VI. "XIN CHỚ ĐỂ CHÚNG CON SA
CHƯỚC CÁM DỖ"
2846
2847 (2284) Chúa Thánh Thần giúp chúng ta
biết "nhận định" đâu là thử thách
cần thiết để con người nội tâm
tăng trưởng nhờ "quen chịu đựng
gian truân" (Rm 5,3-5), và đâu là cám dỗ dễ dẫn
đến tội lỗi và sự chết. Chúng ta c̣n
phải biết phân biệt giữa "bị cám
dỗ" và "chiều theo chước cám dỗ".
Nhờ nhận định, chúng ta có thể vạch
trần sự dối trá của chước cám dỗ:
bề ngoài, đối tượng có vẻ "ngon lành,
trông đẹp mắt, đáng quư" (St 3,6), nhưng
kết quả của nó là sự chết.
"Thiên
Chúa không muốn áp đặt điều tốt,
Người muốn chúng ta tự do... Cám dỗ cũng có
cái lợi. Ngoại trừ Thiên Chúa, không ai biết
được những ǵ hồn ta đă nhận
được từ Thiên Chúa, kể cả chính bản
thân ta. Nhưng cơn cám dỗ bộc lộ cho chúng ta
biết nhận ra con người của ḿnh; nhờ
đó, chúng ta khám phá ra t́nh trạng tệ hại của
ḿnh, và buộc chúng ta phải tạ ơn Chúa v́ những
ơn lành được cơn cám dỗ làm lộ
ra"(Ô-ri-gê-nê 29).
2848 (1808) Muốn khỏi "sa
chước cám dỗ", chúng ta phải có quyết tâm:
"Kho tàng của anh ở đâu th́ ḷng anh ở đó...
Không ai có thể làm tôi hai chủ" (Mt 6,21.24). "Nếu
chúng ta sống nhờ Thần Khí, th́ cũng hăy nhờ
Thần Khí mà hành động" (Gl 5,25). Khi biết
"chiều theo" Thánh Thần, chúng ta được
Chúa ban sức mạnh. "Không một cám dỗ nào đă
xảy đến cho anh em mà lại vượt quá sức
loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người
sẽ không để anh em bị cám dỗ quá sức;
nhưng khi để anh em bị cám dỗ, Người
sẽ cho anh em phương thế để thoát khỏi
và sức mạnh để chịu đựng" (1 Cr
10,13).
2849 (540,
2850 (309) Lời xin cuối cùng dâng lên Cha
cũng được bao hàm trong kinh nguyện của
Đức Giê-su: "Con không xin Cha cất họ khỏi
thế gian, nhưng xin Cha ǵn giữ họ khỏi ác
thần" (Ga 17,15). Lời xin này liên hệ đến
từng người chúng ta, nhưng bao giờ cũng là
"chúng con" đang cầu nguyện, trong hiệp thông
với toàn Hội Thánh và xin Thiên Chúa cứu toàn thể gia
đ́nh nhân loại. Kinh Lạy Cha không ngừng mở ra cho
chúng ta thấy những chiều kích của nhiệm
cục cứu độ. Chúng ta từng liên đới
với nhau trong tội lỗi và sự chết, nay
được liên đới trong Thân Thể Chúa Ki-tô, trong
mầu nhiệm "các thánh thông công" (x. 1 Cr 16, 13; Cl 4,
2; 1 Tx 5, 6; 1Pr 5, 8).
2851 (391) Trong lời xin này, Sự Dữ
không là một điều trừu tượng, nhưng là
một nhân vật, là Xa-tan, Ác thần, thiên thần đă
chống lại Thiên Chúa. Sự Dữ ở đây là ma quỷ
(tiếng Hy Lạp là Dia-Bolos: kẻ phá ngang), kẻ t́m cách
ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa và công tŕnh
cứu độ trong Chúa Ki-tô.
2852 Ma quỷ "ngay từ
đầu đă là tên sát nhân, là kẻ nói dối và là cha
sự gian dối"(Ga 8,44), "là Xa-tan, tên chuyên mê
hoặc toàn thể nhân loại" (Kh 12,9). Do thần dữ,
tội lỗi và sự chết đă xâm nhập thế
giới, và khi nó bị đánh bại hoàn toàn, mọi
thụ tạo"sẽ được giải thoát
khỏi tội lỗi và sự chết" (x. MR, kinh
nguyện Thánh Thể IV). "Chúng ta biết rằng phàm ai
đă được Thiên Chúa sinh ra, th́ không phạm tội
nhưng có Đấng Thiên Chúa đă sinh ra ǵn giữ
người ấy và Ác Thần không đụng đến
người ấy được. Chúng ta biết rằng
chúng ta thuộc về Thiên Chúa, c̣n tất cả thế gian
đều nằm dưới ách thống trị của Ác
Thần"(1Ga 5,18-19):
"Chúa
là Đấng xóa tội và tha lỗi cho chúng ta; Người
bảo vệ và ǵn giữ chúng ta khỏi những mưu
kế của Ma Quỷ hăm hại, để kẻ thù quen
dẫn đường tội lỗi không lừa dối
được chúng ta. Ai trông cậy Chúa th́ không sợ ma
quỷ. "Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, c̣n ai chống
lại được chúng ta? " (Rm 8,31) (T. Am-brô-xi-ô 5,30).
2853 (677
972) Thần Dữ là
"thủ lănh thế gian" đă bị đánh bại,
một lần dứt khoát, vào Giờ Đức Giê-su tự
hiến thân chịu chết để ban cho chúng ta Sự
Sống của Người. Đó là lúc Người phán xét
thế gian này và "thủ lănh thế gian này bị
tống ra ngoài" (Ga 12,31; Kh 12,11). "Sách Khải
Huyền cho biết: "Khi đó, nó đuổi bắt
Người Phụ Nữ" (12,13), nhưng không bắt
được Bà; Bà là E-và mới, "đầy ân
sủng" của Thánh Thần, được ǵn giữ
khỏi tội lỗi và sự hư nát do cái chết.
Hội Thánh hiểu Người Phụ Nữ này là Đức
Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, trọn đời
đồng trinh, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội và
được ơn Hồn Xác Lên Trời. Người
Phụ Nữ này cũng là h́nh ảnh của Hội Thánh.
"Lúc đó, nó nổi giận với Người Phụ
Nữ và đi giao chiến với những người c̣n
lại trong ḍng dơi Bà" (Kh 12,17). V́ thế Thánh Thần và
Hội Thánh cùng cầu nguyện: "Lạy Chúa Giê-su, xin
ngự đến" (Kh 22,17-20), v́ khi Người quang lâm
sẽ giải thoát chúng ta khỏi tay Ác Thần.
2854 (2632) Khi xin Thiên Chúa giải thoát
khỏi Ác Thần, chúng ta cũng xin cứu khỏi mọi
sự dữ trong quá khứ, hiện tại và tương
lai, do ma quỷ là thủ phạm hay kẻ chủ mưu.
Trong lời cầu xin cuối cùng này, Hội Thánh tŕnh lên
Cha mọi nỗi khốn cùng của thế giới.
Hội Thánh không những xin được ǵn giữ
khỏi mọi sự dữ đang hoành hành nơi nhân
loại, mà c̣n van xin Cha ban ơn b́nh an và ơn bền
vững đang khi trông đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm.
Khi cầu nguyện như thế, Hội Thánh khiêm tốn
và tin tưởng tiền dự vào ngày mọi người
và mọi loài được quy tụ trong Đức Ki-tô Đấng
nắm quyền trên "Tử Thần và Âm Phủ",
"Chủ Tể của mọi sự, Đấng hiện
có, đă có và đang đến" (Kh 1,4.8.18):
1041 Lạy Cha, xin cứu chúng con
khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho
những ngày chúng con đang sống được b́nh an.
Nhờ Cha rộng ḷng thương cứu giúp, chúng con
sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi, và
được an toàn khỏi mọi biến loạn,
đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc, ngày
Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng con ngự
đến"(SLRM. nghi thức hiệp lễ).
VINH TỤNG CA KẾT THÚC
2855 (2760) Để kết thúc, Vinh tụng ca
"V́ Cha là Vua, là Chúa quyền năng, là Đấng vinh
hiển muôn đời" lặp lại ba lời
nguyện đầu tiên dâng lên Cha trên trời: danh Cha
cả sáng, Nước Cha trị đến, Ư Cha thể
hiện. Nhưng câu lặp lại này mang h́nh thức
thờ lạy và tạ ơn, như lời cộng
đoàn chư thánh trên trời. Xa-tan là "thủ lănh
thế gian này" đă dối gạt người
đời, tự gán cho ḿnh ba tước hiệu: Vua,
quyền năng và vinh quang. Đức Ki-tô là Đức Chúa,
Người hoàn lại các tước hiệu này về cho
Cha của Người cũng là Cha của chúng ta, cho
tới ngày Người trao Vương Quốc lại cho
Cha, khi mầu nhiệm cứu độ được
hoàn tất chung cuộc, khi "Thiên Chúa có toàn quyền trên
muôn loài" (x. 1Cr 15,24-28).
2856 (1061,
1065) Sau khi đọc kinh xong,
chúng ta thưa: A-MEN, nghĩa là "Xin Chúa cứ làm cho con
như vậy" (Lc 1,38). Qua lời A-men, chúng ta quyết
tâm đón nhận những điều Thiên Chúa dạy trong
lời kinh này (T. Xy-ri-lô thành Giê-ru-sa-lem 5,18).
TÓM LƯỢC
2857 Trong kinh Lạy Cha, ba lời
nguyện đầu hướng về Vinh Quang của Cha:
Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ư Cha
thể hiện. Bốn lời xin sau tŕnh lên Người
những ước vọng của chúng ta. Chúng ta xin
những ǵ cần thiết cho đời sống của
ḿnh: lương thực nuôi sống, ơn tha tội, và
ơn phù trợ trong cuộc chiến để đạt
tới điều thiện và thắng được
Sự Ác.
2858 Khi "nguyện danh Cha cả
sáng", chúng ta tham dự vào chương tŕnh của Thiên
Chúa: làm cho Danh Người - đă mặc khải cho Mô-sê,
sau đó được biểu lộ nơi Đức Giê-su
được cả sáng, được tôn vinh nơi
chúng ta và do chúng ta, cũng như nơi mỗi người
và nơi muôn dân.
2859 Với lời nguyện thứ
hai, Hội Thánh mong đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm và
Nước Chúa hoàn tất. Triều Đại Thiên Chúa
đến lần cuối cùng khi Đức Ki-tô tái lâm. Chúng ta
cũng cầu xin cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh
trong "ngày hôm nay" của đời sống ta.
2860 Trong lời nguyện thứ ba,
chúng ta xin Cha trên trời cho ư của ta được nên
một với ư của Chúa Con để chu toàn
chương tŕnh Cứu Độ của Người trong
cuộc sống trần thế.
2861 Trong lời xin thứ tư, khi
đọc "xin cho chúng con", chúng ta hiệp thông
với anh em, nói lên ḷng tín thác của con cái đối
với Cha trên trời. Chữ "lương thực"
vừa chỉ thức ăn cần để nuôi sống
thân xác, vừa chỉ về Bánh Hằng Sống là Lời
Chúa và Ḿnh Thánh Chúa Ki-tô. Chúng ta được lănh nhận
lương thực thiên quốc này trong "Ngày Hôm Nay"
của Thiên Chúa, như của ăn không thể thiếu,
của ăn cốt yếu của Bàn Tiệc Nước
Trời mà chúng ta được nếm trước trong bí
tích Thánh Thể.
2862 Lời xin thứ năm khẩn
cầu Thiên Chúa xót thương tha thứ những ǵ ta xúc
phạm đến Người. Nguồn ơn
thương xót của Chúa chỉ vào được ḷng ta
nếu ta biết tha thứ cho kẻ thù, theo gương
mẫu và với sự trợ giúp của Chúa Ki-tô.
2863 Khi đọc "xin chớ
để chúng con sa chước cám dỗ", chúng ta
cầu xin Thiên Chúa đừng để chúng ta theo con
đường dẫn đến tội lỗi. Với
lời cầu này, chúng ta muốn xin Thiên Chúa ban Thánh
Thần để biết nhận định và có sức
mạnh, biết canh thức và bền đỗ
đến cùng.
2864 Trong lời xin cuối cùng
"nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ",
cùng với Hội Thánh chúng ta xin Thiên Chúa biểu
dương chiến thắng mà Đức Ki-tô đă
đạt được trên "thủ lănh thế
gian" là Xa-tan, kẻ chống đối Thiên Chúa và
chương tŕnh cứu độ của Người.
2865 Với tiếng A-men cuối cùng,
chúng ta thưa "xin Chúa cứ làm cho con" như bảy
lời nguyện xin, "ước ǵ được
như vậy... ".