TÓM LƯỢC VÀ GIẢI THÍCH
SÁCH CHỈ
Phần lớn bài này được viết phỏng theo bài Commentary on the General Directory for Catechesis của Đức Hồng Y Raymond L. Burke, Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện, Tòa Thánh Vatican, và một số ít được viết theo General Directory For Catechesis của Thánh Bộ Giáo Sĩ.
Dạy
về Đức Tin trong Thế Giới Hôm Nay (14-23)
Ưu
Điểm và Yếu Điểm của Môn Giáo Lý Hiện
Đại (24-33)
Hội
Thánh Trong Liên Quan với Thế Giới
Tình
Trạng của Việc Dạy Giáo Lý: Sự Sinh Động
và Những Khó Khăn (29-30)
Đọc
Các Dấu Chỉ của Thời Đại (31-32)
Các
Thách Đố trong Việc Dạy Giáo Lý (33)
Việc
Dạy Giáo Lý trong Sứ Vụ Truyền Giáo của Hội
Thánh
Việc
Dạy Giáo Lý và Việc Phúc Âm Hóa (46-59)
Việc
Dạy Giáo Lý và Những Yếu Tố Khác của Phúc Âm Hóa
(60-76)
Việc
Dạy Giáo Lý và Việc Rao Giảng Đầu Tiên
Việc
Dạy Giáo Lý và Các Bí Tích Khai Tâm
Việc
Dạy Giáo Lý và Sự Đào Luyện Đức Tin cách Liên
Tục
Việc
Dạy Giáo Lý và Dạy về Tôn Giáo ở Học Đường
Bản
Chất, Mục Tiêu và Nhiệm Vụ của Việc Dạy
Giáo Lý (77-91)
Nguồn
Mạch của Môn Giáo Lý và các Tiêu Chuẩn để Trình
Bày Giáo Lý (92-118)
Các
Tiêu Chuẩn để Trình Bày Giáo Lý
Nội
Dung của Môn Giáo Lý (119-136)
Sách
Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Một Sách Tổng Hợp
về Đức Tin
Sách
Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo
Nghệ
Thuật Dạy về Đức Tin (137-147)
Phương
Pháp Dạy Giáo Lý (148-162)
Liên
Quan giữa Phương Pháp và Nội Dung
Phương
Pháp Quy Nạp và Tổng Hợp
Cảm
Nghiệm của Con Người trong Việc Dạy Giáo Lý
Vai
Trò của Học Thuộc Lòng trong Giáo Lý
Sự
Tham Gia Tích Cực của Học Viên
Vai
Trò của Cộng Đồng và Nhóm trong Giáo Lý
Phương
Tiện Truyền Thông Xã Hội
Những
Học Viên Giáo Lý (163-175)
Việc
Dạy Giáo Lý cho Người Trẻ và Người Lão Thành,
và Các Trường Hợp Đặc Biệt (177-214)
Dạy
Giáo Lý cho Người Lão Thành.
Dạy
Giáo Lý cho Những Trường Hợp Đặc Biệt
Việc
Dạy Giáo Lý trong Giáo Hội Địa Phương: Những
Người Phụ Trách Dạy Giáo Lý (215-232)
Giáo
Hội Địa Phương hay Giáo Phận
Việc
Dạy Giáo Lý trong Giáo Hội
Địa Phương hay Giáo Phận
Giám
Mục, Giáo Lý Viên Chính của Giáo Phận
Cha
Mẹ, là Những Nhà Giáo Dục Đầu Tiên của Con
Em
Đào Luyện Giáo Lý
Viên (233-252)
Sự Quan Trọng của
Việc Đào Tạo các Giáo Lý Viên
Bản Chất và Mục
Đích của việc Đào Luyện Giáo Lý Viên
Các Tiêu Chuẩn cho việc
Đào Luyện Giáo Lý Viên
Các Chiều Kích của
Đào Luyện: cá tính, hiểu biết và khéo léo
Sự Trưởng Thành
của Giáo Lý Viên như Một Người, Một Kitô Hữu,
và Một Tông Đồ
Việc Đào Luyện
Giáo Lý Viên về Thánh Kinh và Tín Lý
Việc Đào Luyện
về Khoa Học Nhân Văn
Trường Giáo Lý và các
Trung Tâm Cao Đẳng Giáo Lý
Địa Điểm Dạy
Giáo Lý (253-265)
Các Đoàn Thể Giáo Dân
và Phong Trào trong Hội Thánh
Các Cộng Đoàn Hội
Thánh Căn Bản
Tổ Chức Việc Dạy
Giáo Lý trong Hội Thánh Địa Phương (265-285)
Tác Vụ Dạy Giáo Lý
trong Giáo Phận
Sự Quan Trọng của
Phối Hợp Việc Dạy Giáo Lý
Việc dạy Giáo Lý luôn luôn được đặt làm nền tảng cho đời sống Hội Thánh. Nhiệm vụ chính yếu của Hội Thánh là truyền lại tín lý và việc thực thi Đức Tin bằng các giáo huấn. Trong khi nói về Tân Phúc Âm hoá, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của việc dạy Giáo Lý đúng cách để tạo nên một năng lực và sự hăng say mới trong việc giáo dục và sống Đức Tin Công Giáo.
Hội Thánh đã đặc biệt quan tâm đến việc Dạy Giáo Lý. Sáu năm sau Công Đồng Vaticanô II, Tòa Thánh đã cho ấn hành cuốn Sách Chỉ Dẫn Chung về Dạy Giáo Lý vào năm 1971. Từ ngày cuốn Sách Chỉ Nam đầu tiên này ra đời, Huấn Quyền của Hội Thánh đã đưa ra nhiều tài liệu hướng dẫn phong trào đào luyện Đức Tin mới này như các Thông Điệp "Phúc Âm Hóa trong Thế Giới Hiện Đại - Evangelii nuntiandi" (1975), "Việc Dạy Giáo Lý trong Thời Đại Chúng Ta - Catechesi tradendae" (1979), "Sứ Vụ của Đấng Cứu Thế - Redemptoris Missio" (1990) và Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo (1992). Sau cùng Thánh Bộ Giáo Sỹ đã dựa trên các văn kiện kể trên để duyệt lại và ấn hành cuốn Sách Chỉ Nam Giáo Lý mới tên là "Sách Chỉ Dẫn Chung về Dạy Giáo Lý". Trong bài này, chúng tôi cố gắng tóm tắt những điểm chính yếu của cuốn Sách Chỉ Nam Giáo Lý mới để giúp các Giáo Lý viên và những ai có trách nhiệm về dạy Giáo Lý biết rõ về ơn gọi, sứ mạng, vai trò và trách vụ của mình trong việc dạy Giáo Lý.
Mục đích của Sách Chỉ
Mục tiêu chính của Sách Chỉ Nam
này trước hết là cho các Đức Giám Mục dùng
trong việc đào tạo các Linh Mục và các Giáo Lý viên,
đồng thời cũng cho tất cả những ai có
trách vụ trong việc dạy Giáo Lý (Số 11). Sách Chỉ
Trong dụ ngôn Người Gieo Giống (Mc 4:3-8), Chúa Giêsu đã dạy chúng ta về khả năng của hạt giống, là Lời Chúa, trong việc sinh hoa trái, là ơn Cứu Độ, và sự quan trọng của thửa đất là mỗi người nghe Lời Chúa, mà hạt giống được rơi trên đó. Các giáo huấn của Tin Mừng đã và đang tiếp tục giúp cho "nền văn minh Đức Ái" được phát triển trên thế gian. Tuy nhiên, việc dạy Giáo Lý chỉ có kết quả khi Tin Mừng được lãnh nhận bởi những tâm hồn sẵn sàng đón nhận Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống hàng ngày.
Sách Chỉ Nam Giáo Lý nhấn mạnh đến tầm quan trọng của quan niệm của chúng ta về thế gian trong khi thi hành sứ vụ dạy Giáo Lý. Quan niệm này sẽ ảnh hưởng đến việc chúng ta đón nhận và truyền thụ các giáo huấn về Đức Tin thế nào. Nếu chúng ta hiểu rõ thế gian như Thiên Chúa đã tạo dựng và cứu chuộc nó, thì chúng ta sẽ sẵn lòng và giúp người khác cũng sẵn lòng như thế để nghe Lời Chúa đến với chúng ta qua Thánh Kinh và Thánh Truyền. Việc các Giáo Lý viên suy nghĩ về quan niệm của mình về thế gian không những quan trọng để làm tròn việc tông đồ của mình, một việc tông đồ cần thiết cho đời sống Hội Thánh, mà còn sửa soạn lòng trí họ đón nhận chân lý, tình yêu mà Thiên Chúa thông ban qua việc dạy Giáo Lý.
Sách Chỉ Nam Giáo Lý nhắc nhở chúng ta rằng có ba yếu tố quan trọng trong quan niệm Kitô giáo về thế gian.
“Người Kitô hữu biết rằng mọi biến cố của nhân loại, đúng hơn là mọi thực thể, đều được đánh dấu bởi các hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa mà qua đó Ngài truyền thông sự tốt lành cho mọi người; chính quyền lực của tội lỗi đã giới hạn và làm cho con người bị tê liệt; và từ sự Phục Sinh của Đức Kitô phát sinh ra động lực…” (Số 16).
Mỗi khi dạy Giáo Lý, chúng ta cần nhớ ba yếu tố chính của chân lý về thế gian:
1) Thế gian tốt lành vì đến từ Thiên Chúa;
2) Sự tốt lành của thế gian đã bị tội lỗi, tội Tổ Tông và tội cá nhân của chúng ta, làm cho ra hư hỏng;
3) Sự sống được Đức Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta trong Hội Thánh để chiến thắng tội lỗi trong đời sống chúng ta và sửa soạn chúng ta mỗi ngày và để đón Ngày Đức Kitô Trở Lại Lần Sau Hết, khi mà mọi sự sẽ phục hồi tình trạng tốt lành mà Thiên Chúa Cha đã muốn cho chúng.
Trên hết, trong khi thi hành sứ vụ tông đồ dạy Giáo Lý, quan niệm của Hội Thánh về thế gian còn có mục đích cổ võ một một trật tự công bằng là nền tảng của nền hòa bình trên thế giới, và của việc sửa soạn cho “Trời Mới và Đất Mời” (xem KH 21:1). Công việc dạy Giáo Lý tự nhiên gây cảm hứng cho Giáo Lý viên và học viên đáp lại ân sủng của sự Phục Sinh bằng cách hoạt động cho công lý vì những người nghèo đói nhất. Đức Thánh Cha gọi cảm hứng căn bản này là “ưu tiên hay là thương yêu người nghèo.”
Sự quan tâm của Hội Thánh trong việc cổ võ một trật tự công bằng trong đời sống cá nhân, xã hội và thế giới đã đưa Hội Thánh đến chỗ cổ võ việc tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ nhân quyền (quyền sống, làm việc, được giáo dục, gầy dựng gia đình, tham gia vào đời sống công cộng và tự do tôn giáo), là những quyền giúp con người chu toàn bổn phận của họ trên thế gian như là con cái Thiên Chúa, và anh chị em của Con Một Thiên Chúa. Sự quan tâm của Hội Thánh về con người và về nhân quyền là quan tâm Công Giáo chính đáng, nghĩa là quan tâm đến mọi phương diện của đời sống con người, kể cả phương diện văn hóa và tôn giáo. “Điều mà Hội Thánh quan tâm hơn cả là sự phát triển toàn diện con người và mọi người” (Số 18). Trong khi thi hành với sự chú tâm đến cái nhìn của Hội Thánh về thế gian, một sứ điệp chính của việc dạy Giáo Lý của Hội Thánh là mặc khải về “sự bất khả xâm phạm của phẩm giá mỗi người.”
Cần phải có sự chạm trán giữa những quan niệm quần chúng và quan niệm của Hội Thánh về thế gian để có thể truyền thông Lời Chúa cách hiệu quả. Hội Thánh tìm kiếm những gì là tốt lành trong nền văn hóa hiện đại, những gì có thể giúp cho việc truyền thụ và hấp thụ Lời Chúa. Đồng thời, Hội Thánh cũng phải thành thật nhận chân những mặt khác của xã hội tương phản với giáo huấn và việc hấp thụ Lời Chúa.
Trong số những yếu tố của văn hóa thuận lợi hay cản trở việc truyền thụ Lời Chúa, Sách Chỉ Nam Giáo Lý ghi nhận một vài dữ kiện tôn giáo và luân lý. Về phương diện tôn giáo, trong xã hội và văn hóa ngày nay, con người rõ ràng là được lôi cuốn bởi những sự thánh. Việc được các sự thánh thu hút là điều tích cực trong việc truyền thụ Đức Tin, nhưng có thể bị đặt sai chỗ hay thao túng bởi những tà phái hay những phong trào tôn giáo sai lạc, thí dụ như phái cơ bản hay cái gọi là linh đạo Đời Mới . Đây cũng là một lý do cần thiết hơn nữa để cung cấp Giáo Lý chân chính có thể thỏa mãn sự ao ước sự thánh của nền văn hóa của chúng ta bằng chân lý của Lời Chúa như được dạy trong Hội Thánh. Các dữ kiện tôn giáo cản trở việc dạy Giáo Lý là: 1) Một sự “lan tràn không ngừng của thái độ thờ ơ về tôn giáo” (Số 22), mà qua đó chúng ta không nhìn thấy, hoặc coi thường bàn tay của Thiên Chúa đang hoạt động trong mọi thụ tạo và mọi hành động của con người; và tệ hơn nữa là 2) Việc hoàn toàn chối từ sự hiện hữu của Thiên Chúa hoặc vô thần. Sự từ chối này thường tiềm ẩn trong một chủ nghĩa hoàn toàn thế tục mà trong đó chúng ta tin rằng chúng ta có thể hiểu được thế gian mà không cần biết đến nguồn gốc hay số phận của nó trong Thiên Chúa.
Về mặt luân lý, nền văn hóa của chúng ta bị đánh dấu bởi những mập mờ về chân lý, về con người, và về sự tự do của con người. Như sự thờ ơ về tôn giáo làm cho con người ra không còn biết chân lý về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và mọi thực thể thế nào, thì sự tương đối về luân lý cũng làm cho chúng ta đui mù mà không thấy Luật Thiên Chúa, nhất là về phương diện xã hội và chính trị của đời sống chúng ta, là những gì giúp chúng ta hành động trong chân lý và đức ái.
Vì Kitô hữu là men trong thế gian, nên không tránh được bị ảnh hưởng của thế gian trong việc truyền thụ Đức Tin. Về mặt tích cực, việc dạy Giáo Lý cho trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành ở thời đại chúng ta đã làm nảy sinh trong các Kitô hữu cảm nghiệm về sự phong phú của lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, phục hồi sự hiểu biết về Mầu Nhiệm Nhập Thể (Thiên Tính và Nhân Tính của Chúa Giêsu Kitô), ý thức về nhiệm vụ của tất cả chúng ta trong việc truyền giáo của Hội Thánh, và ý thức cao về công bằng xã hội như là một điều cơ bản của Đức Tin Công Giáo (Số 24).
Mặt khác, thuyết thế tục và thuyết tương đối về luân lý lan tràn khắp nơi trong nền văn hóa của chúng ta cũng ảnh hưởng tiêu cực đến việc dạy Giáo Lý. Có những người chỉ là Công Giáo trên danh nghĩa chứ không trên thực hành, tuy họ vẫn còn cảm giác nào đó thuộc về Hội Thánh. Những người này cần phải được đánh thức để họ hiểu Giáo Lý Công Giáo và thực hành. Còn vô số những phần tử của Hội Thánh thực tâm đạo đức, nhưng không hiểu biết về những điều căn bản của Đức Tin. Lại có những người khác có một trình độ hiểu biết về Đức Tin còn ấu trĩ, chưa trưởng thành. Những người này cần học hỏi để hiểu biết về Đức Tin của mình dưới nhãn quan của một người trưởng thành trong thế giới hôm nay. Sau cùng, có những người Công Giáo, hoặc vì muốn cổ võ việc đối thoại với các nền văn hóa hay các tôn giáo khác, hoặc vì quá dè dặt nên không dám sống trong xã hội hiện đại như những người có Đức Tin. Họ đã không làm chứng cách hùng hồn về Đức Tin rằng Chúa Giêsu Kitô đang sống cho chúng ta trong Hội Thánh. Cho nên, để thắng vượt những ảnh hưởng tiêu cực của nền văn hóa trên đời sống Kitô, thì chúng ta chỉ còn một cách dạy Giáo Lý và qua việc Tân Phúc Âm hóa, một cách trình bày Đức Tin và phương cách thực hành Đức Tin cho trẻ em, giới trẻ và người trưởng thành (số 25-26).
Các liên hệ trong Hội
Thánh có một ảnh hưởng sâu xa đến việc
dạy Giáo Lý. Chúng ta có thể hiểu rõ đời sống
nội tại của Hội Thánh qua việc các giáo huấn
của Công Đồng Vaticanô II được đón nhận
thế nào, nhất là các giáo huấn trong các tài liệu quan
trọng như: Hiến Chế
Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concillium), Hiến Chế
Tín Lý về Hội Thánh (Lumen gentium), Hiến Chế
về Mặc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum), Hiến Chế
Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes).
Các kết quả tích cực của việc đón nhận
giáo huấn của Công Đồng có thể được
thấy trong việc hiểu biết rằng Phụng Vụ
Thánh là “nguồn mạch và tột đỉnh” của đời
sống chúng ta trong Hội Thánh, trong việc “ý thức rõ
ràng” về ơn gọi tư tế chung của tất cả
những ai đã được Rửa Tội và kết quả
của ơn gọi nên thánh của mọi người,
trong việc phục hồi việc đề cao Thánh Kinh,
trong việc nhiều người Công Giáo sẵn sàng dấn
thân trong sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh, kể
cả việc Phúc Âm hóa thế gian (Số 27).
Nhưng các giáo huấn của Công Đồng
đã không luôn được đón nhận với những
kết quả tích cực. Những ảnh hưởng tiêu cực
của Công Đồng thường là do việc không chịu
nghiên cứu kỹ lưỡng các giáo huấn của Công
Đồng theo khuôn khổ của các
giáo huấn và tập tục cố hữu của Hội
Thánh. Từ sau Công Đồng, có những khuynh hướng
coi Hội Thánh như một cơ chế tách rời khỏi
Mầu Nhiệm Đức Kitô đang sống động
trong Hội Thánh qua tác động của Chúa Thánh Thần.
Có những nhóm người chủ tâm giải thích sai lạc
các văn kiện Công Đồng để truyền bá những
chủ trương riêng của họ, mà không đếm xỉa
gì đến sự toàn vẹn của giáo huấn, và vì thế
gây chia rẽ trong Hội Thánh. Chúng ta có thể
thấy rõ ảnh hưởng này trong việc chia Hội
Thánh ra thành phe “bảo thủ” và “cấp tiến”. Sự
chia rẽ này trong Hội Thánh đã gây thiệt hại cho
việc Phúc Âm hóa, làm trở ngại cho Hội Thánh trong việc
chứng tỏ rằng thật sự có sự hiệp
thông giữa các phần tử của Hội Thánh với
Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và với nhau như
là con cái Thiên Chúa trong Chúa Con Nhập Thể (số 28).
Sự sinh động của việc dạy Giáo Lý
trong những năm gần đây được chứng
tỏ bằng nhiều phương diện tích cực, mà
những điểm chính là:
·
Rất nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã tận
lực phục vụ cách hăng say vào sứ vụ dạy
Giáo Lý, một hoạt động quan trọng nhất của
Hội Thánh.
·
Tính cách truyền giáo của “việc dạy Giáo Lý hiện
đại” đã đưa nhiều người chưa rửa
tội và nhiều người không được đào
luyện về Giáo Lý vào Hội Thánh.
·
Có nhiều Giáo Phận đã có những chương
trình mục vụ Giáo Lý quan trọng và vai trò của nhiều
nhóm hay phong trào Giáo Lý trong Hội Thánh.
·
Phẩm chất và chiều sâu của việc dạy
Giáo Lý gần đây cũng được phát triển khả
quan hơn.
Tuy nhiên, Sách Chỉ Nam cũng nêu lên một
số trở ngại và đề ra những giải pháp:
·
Cần phải giúp cho các Giáo Lý viên hiểu rằng dạy
Giáo Lý là “Trường Dạy Đức Tin” giúp học viên
đào sâu toàn thề đời sống Kitô hữu về mọi
phương diện.
·
Cần phải đặt việc dạy Giáo Lý trên nền
tảng của cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền, có nghĩa
là việc dạy Giáo Lý phải nhắc đến đến
những kinh nghiệm và suy tư của Hội Thánh trong
hai ngàn năm qua.
·
Cần phải luôn quy chiếu về mục đích của
việc Dạy Giáo Lý là hiệp thông với Đức Chúa
Giêsu Kitô, cho nên phải trình bày Đức Tin một cách trọn
vẹn, nhất là toàn thể chân lý về mầu nhiệm
Đức Kitô.
·
Cần phải nêu lên sự thiếu sót trong việc
trình bày một số chân lý Đức Tin,
thí dụ, chân lý về sự liên quan giữa Thiên Chúa và con
người, về tội lỗi và ân sủng, về Cánh
Chung. Cần phải chắc chắn rằng các sách giáo khoa
về Giáo Lý không trình bày một chiều, làm tổn
thương đến sự vẹn toàn của sự hiểu
biết về Đức Tin.
·
Cần phải liên kết việc dạy Giáo Lý “với
Phụng Vụ” cách hoàn toàn, để các cử chỉ, biểu
tượng, nghi thức, và kinh đọc trong Phụng Vụ
trở thành một phần của việc trình bày Đức
Tin.
·
Cần phải vượt qua sự giằng co giả
tạo giữa phương pháp và nội dung của môn Giáo
Lý và tìm những phương pháp dạy Giáo Lý cho phù hợp với sự
toàn vẹn của tín lý.
·
Cần phải trình bày Đức Tin cho phù hợp với
nền văn hóa của học viên.
·
Cần phải coi việc đào luyện các tông đồ
Giáo Lý cho việc truyền giáo là một công tác trọng yếu
của việc dạy Giáo Lý.
Để đọc cách chính xác Thánh Ý
Thiên Chúa ở thời đại và nền văn hóa của
chúng ta, Hội Thánh phải phân tích hoàn cảnh của mình
“trong phối cảnh của lịch sử Cứu Độ.”
Sự phân tích này luôn dựa trên ánh sáng của Đức
Tin và những khám phá khoa học hiện đại.
Việc dạy Giáo Lý hôm nay phải đương
đầu với những thách đố và những
đường hướng sau:
-
Phải phục vụ sứ mạng Phúc Âm hóa của
Hội Thánh với những sứ vụ rõ ràng.
-
Phải trình bày cho trẻ em, thanh thiếu niên và người
trưởng thành;
-
Phải dựa vào gương dạy Giáo Lý thời các
Giáo Phụ, nhắm đến việc đào luyện
đời sống Kitô hữu của học viên;
-
Phải trình bày những chân lý căn bản của
Kitô giáo, nhấn mạnh đến “đời sống
trong Đức Kito như là trọng tâm của đời
sống Đức Tin”; và
-
Phải đặt việc sửa soạn và đào luyện
Giáo Lý viên trong sự phong phú vô cùng của Đức Tin làm
trách vụ chính.
Sách Chỉ Nam này được chia
thành năm phần.
Phần Thứ Nhất tên là “Việc Dạy
Giáo Lý trong Sứ Vụ Truyền Giáo của Hội Thánh”. Phần này
diễn tả đặc tính đúng đắn của việc
Dạy Giáo Lý trong toàn thể mục vụ giảng dạy
Lời Chúa. Hiểu đúng về việc
dạy Giáo Lý là điều thiết yếu, vì cách một
người hiểu việc dạy Giáo Lý sẽ quyết
định cách người ấy dạy Giáo Lý.
Phần Thứ Hai, “Sứ Điệp Tin Mừng,”
trình bày nội dung Đức Tin được dạy qua
Giáo Lý. Phần này diễn tả nguồn gốc của
Giáo Lý là Lời Chúa, chứa đựng trong Thánh Truyền
và Thánh Kinh, và tiêu chuẩn để trình bày Lời Chúa trong
việc dạy Giáo Lý. Phần này cũng diễn tả nội
dung Giáo Lý như đã được trình bày trong sách Giáo Lý
của Hội Thánh Công Giáo mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
công bố ngày 11 thánh 10 năm 1992.
Phần Thứ Ba trình bày
việc dạy Giáo Lý trước hết và trên hết là việc
làm của Chúa Thánh Thần, rồi sau đó phân tích những
phương pháp khác nhau trong việc dạy Giáo Lý.
Phần Thứ Tư dành để
trình bày sự đa dạng của những người mà
việc dạy Giáo Lý nhằm đến, đa dạng về
tuổi tác, về việc phát triển Đức Tin và
đời sống Đức Tin, về các hoàn cảnh
đặc biệt của đời sống , và phạm
vi văn hóa.
Sau cùng, Phần Thứ Năm trình bày
các phương diện quan trọng của việc dạy
Giáo Lý trong các Giáo Hội địa phương, thí dụ
như các giáo phận. Phần này nói về:
1)
Nhiệm vụ của các giám
mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và các tín hữu giáo
dân;
2)
Việc đào luyện các Giáo
Lý viên;
3)
Các địa điểm
để dạy Giáo Lý; và
4)
Các phương diện thực
dụng của việc dạy Giáo Lý có hệ thống.
Phần Thứ Nhất bàn về các sáng kiến của
Thiên Chúa là nền tảng của việc dạy Giáo Lý. Nếu Thiên Chúa không tự tỏ mình ra cho chúng ta
trước thì không có việc dạy Lời Chúa. Để hiểu đầy đủ Phần Thứ
Nhất, chúng ta cần học hỏi giáo huấn của
Công Đồng Vaticanô II chứa đựng trong Hiến
Chế về Mặc Khải của Thiên Chúa “Dei
Verbum”.
Mặc Khải của Thiên Chúa là sự
truyền thông của Chính Thiên Chúa cho chúng ta. Thiên Chúa mặc
khải cho chúng ta qua việc Ngài dựng nên mọi sự
và giữ cho tất cả tồn tại. Khi chúng ta suy nghĩ về bản chất sâu thẳm
của tất cả mọi sự, chúng ta có thể nhận
thức rằng Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của
tất cả mọi sự. Trong việc tạo dựng
Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta ý Ngài muốn liên lạc với
chúng ta bằng cách ban cho một mình chúng ta khả năng nhận
biết và yêu mến Ngài, mà không cho các tạo vật khác.
Thiên Chúa Cha thể hiện trọn vẹn sự truyền
thông của Ngài cho chúng ta bằng cách gửi Con Một
Ngài xuống mặc lấy bản tính nhân loại nhờ
quyền năng Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, Thiên Chúa muốn
chúng ta chia sẻ càng trọn vẹn càng tốt chính sự
sống của Ngài. Ngài thực hiện ý muốn ấy bằng
cách gửi Con Một Ngài xuống thế gian như là anh của
con cái Ngài, là những người mà Ngài đã dựng nên giống
hình ảnh Ngài.
Chúng ta gọi lịch sử Cứu Độ là
sự thực hiện cách tiệm tiến chương
trình thừa nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một
Ngài. Thiên Chúa mặc khải chính Mình và tình yêu
Cứu Độ của Ngài cho chúng ta trong không gian và thời
gian, qua lời nói và việc làm, qua các biến cố và các lời
được linh hứng để giảí thích các biến
cố này cho chúng ta. Hiến
chế về Mặc Khải của Thiên Chúa của Công
Đồng Vaticanô II nói rõ cho chúng ta rằng việc làm và Lời
Cứu Độ của Thiên Chúa không thể tách rời
nhau được:
“Như là một kết quả, các công trình mà Thiên Chúa
thực hiện trong lịch sử Cứu Độ tỏ
lộ và phát sinh các giáo thuyết và các thực tại biểu
thị bằng lời nói; còn lời nói thì công bố các
công trình và làm sáng tỏ mầu nhiệm hàm chứa trong các
công trình này” (DV 2)
Không thể nào biết Thiên Chúa như
Ngài muốn tỏ mình ra cho chúng ta nếu không biết lịch
sử Cứu Độ.
Cách mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta cũng
chính là cách mà chúng ta công bố tình yêu Cứu Độ của
Ngài, mà chúng ta gọi là Phúc Âm hóa. Như thế, Phúc Âm hóa
phải bằng cả lời nói lẫn việc làm, làm chứng
sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta và loan báo sự sống
mà Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Hội Thánh. Trong
toàn thể công cuộc Phúc Âm hóa, việc dạy Giáo Lý
trước hết là truyền lại các công trình và lời
nói của Mặc Khải của Thiên Chúa. Việc dạy
Giáo Lý trình bày Mặc Khải của Thiên Chúa không phải chỉ
trong khía cạnh lịch sử, tức là các công việc và
lời Cứu Độ của Thiên Chúa trong quá khứ,
nhưng trong thực tại, chương trình Cứu Độ
của Thiên Chúa như đang tiếp tục được
thể hiện trong cuộc đời của người
học Giáo Lý.
Chúa Giêsu Kitô của
chúng ta, sự
sung mãn của mặc khải của Thiên Chúa Cha, phải là
trọng tâm của việc dạy Giáo Lý, và Tin Mừng là các sách giải
thích các việc làm và lời Cứu Độ của Chúa
Giêsu, Chúa chúng ta, phải luôn luôn là đỉểm để
chúng ta tham chiếu.
“Theo sự hiểu biết thông thường thì trong
các sách được linh ứng, ngay cả Tân Ước,
các sách Tin Mừng có một vị thế đặc biệt,
và đúng thế, vì các sách này là nguồn chính viết về
đời sống và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập
Thể, Đấng Cứu Độ chúng ta” (DV 18).
Hội
Thánh là nhiệm
thể Đức Kitô, được Đấng Cứu
Độ chúng ta lập ra để mang các công trình và lời
Cứu Độ của Người đến cho mọi
dân tộc ở mọi nơi và mọi thời đại. Hội
Thánh được khai sanh qua việc được đầy
Thánh Thần khi Chúa Giêsu Phục Sinh. Hội Thánh
được thành lập trên nền tảng các Tông Đồ,
là những vị mà Đấng Cứu Độ đã ban
Thánh Thần cho để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
“Các Tông Đồ, bằng lời nói, việc
làm và văn tự đã thành tín thi hành công tác này” (Số
43). Mọi phần tử của Hội
Thánh có nhiệm vụ bảo vệ và truyền lại các
giáo thuyết Đức Tin của các Tông Đồ và sự
vẹn toàn của việc thực thi các giáo thuyết này.
Như vậy, Chúa cũng đã trang bị cho Hội Thánh
để Hội Thánh trung thành tuân giữ và truyền lại
Truyền Thống của Các Tông Đồ:
“Tin Mừng được bảo tồn cách toàn vẹn
và toàn thể trong Hội Thánh: các môn đệ của Chúa
Giêsu Kitô không ngừng suy nghĩ và suy niệm về Tin Mừng
này; họ sống Tin Mừng ấy hằng ngày trong đời
họ; họ công bố Tin Mừng này trong các hoạt động
truyền giáo của họ” (Ibid).
Sự xác thật
của việc bảo toàn và truyền thụ Mặc Khải
của Thiên Chúa, tức là lời của Thiên Chúa chứa đựng
trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, được đảm bảo.
Huấn Quyền hay chức vụ giáo huấn của Hội
Thánh, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, phục vụ toàn thể
Hội Thánh như cơ quan giải thích xác đáng Lời
Chúa.
“Nhưng nhiệm vụ giải thích cách xác đáng Lời
Chúa, dù dưới hình thức văn tự hay hình thức
Truyền Thống, đã chỉ được trao phó cho
cơ quan giáo huấn sống động của Hội
Thánh. Quyền hành của Huấn Quyền
được thực thi nhân danh Đức Chúa Giêsu Kitô.
Nhưng Huấn Quyền không cao trọng
hơn Lời Chúa, mà chỉ là đầy tớ của Lời
Chúa. Huấn Quyền chỉ được
dạy những gì đã được truyền lại.
Qua lệnh của Thiên Chúa và sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần, Huấn Quyền lắng nghe, bảo vệ Lời
Chúa cách tuyệt đối và suy nghĩ về Lời Chúa
cách trung thành. Tất cả những gì
được đề ra để tin là được
Thiên Chúa tỏ ra đều được rút từ kho
tàng Đức Tin Duy nhất này” (DV, 10).
Thật là chính đáng khi gọi Hội Thánh gọi là
“nhiệm tích Cứu Độ phổ quát”, vì Hội Thánh
truyền lại Mặc Khải của Thiên Chúa qua việc
Phúc Âm hóa. Qua việc Phúc Âm hóa, Hội Thánh vừa dạy về
chương trình của Thiên Chúa để Cứu Độ
chúng ta, vừa thông ban ơn Cứu Độ qua việc
phân phát các Bí Tích.
Việc dạy Giáo Lý là một phần
của tiến trình Phúc Âm hóa sinh động của Hội
Thánh. Phúc
Âm hóa chính là lý do của sự tồn tại của Hội
Thánh, là đem Tin Mừng đến cho anh chị em của
chúng ta, ở mọi nơi, mọi lúc, để Tin Mừng
có thể bén rễ trong lòng họ và làm cho nền văn hóa
tình thương được mọc lên theo chương
trình của Thiên Chúa. Việc Phúc Âm hóa được thực
hiện nhiều cách: bằng việc rao giảng Tin Mừng,
làm chứng nhân cho Tin Mừng, giảng dạy các tín lý, ban
phát các Bí Tích, và yêu thương tha nhân. Phúc Âm hóa không thể
được thu tóm vào bất cứ
cách nào trong các cách này nhưng phải bao gồm tất cả:
“làm chứng và rao giảng, lời nói và bí tích, thay đổi
nội tâm và biến cải xã hội” (Số 46)
Tiến trình Phúc Âm hóa sinh động gồm những
thời điểm này (số 47-49):
1)
hoạt động truyền giáo nhằm vào những
người chưa biết Thiên Chúa hay thờ ơ với
Đức Tin và việc sống đạo.
2)
dạy Giáo Lý khai tâm cho những người đã
đón nhận Đức Tin và những người
đang trong tiến trình hoàn tất việc khai tâm Đức
Tin;
3)
hoạt động mục vụ dành cho các phần tử
đã trưởng thành trong Đức Tin của Hội
Thánh
Thừa tác vụ Lời Chúa là điều căn bản
trong việc Phúc Âm hóa, vì nếu Tin Mừng được
đem đến cho tất cả mọi người, thì phải nêu Danh và dạy về Đức
Chúa Giêsu Kitô. Thừa tác vụ Lời Chúa, mà trong đó Chúa
Thánh Thần là tác nhân chính, truyền thông Mặc Khải của
Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài người (số 50).
Sách Chỉ Nam về Dạy
Giáo Lý nói về
nhiệm vụ chính của thừa tác vụ Lời Chúa
trong tiến trình Phúc Âm hóa sinh động như sau:
·
Việc rao giảng
đầu tiên cho những người chưa có Đức Tin, những
người đã bỏ Đức Tin, hoặc sống
“bên lề đời sống Kitô hữu”, và những
người theo các tôn giáo khác; việc rao giảng này cũng
bao gồm “việc đánh thức con cái của gia đình
Kitô về tôn giáo”;
·
Khai Tâm Kitô mà qua đó những
người nhờ ơn Chúa quyết định theo Đức
Kitô được dẫn nhập vào tín lý, vào đời cầu
nguyện và phụng tự, và vào đời sống nhân chứng
của đời nhân đức;
Việc khai tâm Kitô được hoàn thành nhờ việc
dạy Giáo Lý có liên quan đến việc lãnh nhận các Bí
Tích Khai Tâm (Thánh Thẩy, Thêm Sức và Thánh Thể); việc
dạy Giáo Lý này dành cho những người trưởng
thành chưa được rửa tội đang là dự
tòng, những người trưởng thành đã được rửa
tội, nhưng chưa hoàn toàn hiệp thông với Hội
Thánh Công Giáo, và những người Công Giáo cần hoàn tất
việc khai tâm, hay trở lại sống Đức Tin, và
những trẻ em hay thanh thiếu niên đã được
rửa tội đang lớn lên trong sự hiểu biết
và thực thi Đức Tin Công Giáo. Việc giáo dục và
đào luyện Công Giáo có thể xảy ra tại gia
đình, tại các trường Công Giáo hay trong các
chương trình giáo dục tôn giáo thuộc về phần
vụ của tác vụ Lời Chúa;
·
Việc Dạy
Giáo Lý Thường Trực cho những người đã
được hoàn toàn khai tâm vào Đức Tin để
giúp họ đào sâu kiến thức và thực thi Đức
Tin suốt đời;
·
Phụng Vụ
Thánh mà một
phần trong đó là tác vụ Lời Chúa; phần quan trọng
nhất là bài giảng; cũng gồm cả những lời
chỉ dẫn trong khi sửa soạn và cử hành các Bí
Tích; chính việc tham dự Thánh Lễ phải được
coi là “một phương tiện chính trong việc giáo dục
Đức Tin”.
·
Việc học Thần Học Thánh mà qua đó
chân lý Đức Tin được nghiên cứu một cách
có hệ thống và khoa học để có thể hiểu
các chân lý này cách tường tận hơn (số 51).
Tự bản chất, Phúc Âm hóa mời
gọi người ta hoán cải trở về với
Đức Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó “người tín hữu
kết hợp với cộng đoàn các môn đệ và
đạt đến Đức Tin của Hội Thánh” (số
53). Việc hoán cài trở về với
Đức Kitô vừa là “phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa” và “đồng
ý hoàn toàn trong tin yêu tất cả những gì mà Ngài đã mặc
khải cho chúng ta” (số 54). Hoán cải trở
về với Đức Kitô bao gồm mọi khía cạnh
của đời sống một người, và thấm
nhập tận thâm tâm của con người. Qua việc
hoán cải trở về với Đức Kitô, người
Kitô hữu “tìm thấy điều mà mình luôn tìm kiếm và
tìm thấy nó một cách dồi dào”, đó là chân lý về
Thiên Chúa, về chính mình, và về số phận của mình
trong Thiên Chúa (số 55).
Việc hoán cải trở về, cũng giống
như việc Phúc Âm hóa, là một tiến trình sống
động được đánh dấu bằng những
thời điểm chắc chắn:
·
Sự quan tâm đến Tin Mừng được
đánh thức bằng việc rao giảng và mời gọi
vào Đức Tin; với sự giúp đở của ơn
Chúa, người chưa có Đức Tin hay thờ ơ hay
một người thuộc tôn giáo khác được thu
hút bởi Đức Tin Công Giáo, nhưng chưa quyết
định dứt khoát;
·
Quyết định
chắc chắn theo Tin Mừng sau khi đã tìm Chân
Lý, được Chúa Thánh Thần linh hứng và việc
rao giảng những biến cố Cứu Độ.
·
Việc tuyên
xưng Đức Tin tiếp theo việc dạy Giáo Lý
đã dẫn người tín hữu hiểu biết sâu xa về
Đức Tin và cách sống đời Kitô giáo.
·
Cuộc hành
trình đến toàn thiện mà trong đó việc tuyên xưng Đức
Tin là căn bản, được nuôi dưỡng bằng
Giáo Lý cho người trưởng thành, mà trong đó các bài
giảng trong Thánh Lễ đóng vai trò chủ yếu (số
56-57).
Việc trình bày dạy Giáo Lý như là một phần của
tiến trình sinh động của Phúc Âm hóa được
kết thúc bằng việc trình bày các hoàn cảnh xã hội
tôn giáo khác nhau mà trong đó việc Phúc Âm hoá được
thực hiện. Sách Chì Nam Giáo Lý phân biệt ba trường
hợp căn bản mà việc Phúc Âm hóa cần phải
đáp ứng:
·
Trong hoàn cảnh thứ nhất, người ta
hoàn toàn không biết Đức Chúa Giêsu Kitô, hay cộng
đoàn Kitô hữu chưa được phát triển đầy
đủ để có thể làm chứng và rao truyền
Đức Tin Công Giáo cho người khác. Cách đáp ứng
của Hội Thánh đối với hoàn cảnh thứ nhất
này là hoạt động truyền giáo nhắm đến
các người trẻ và trưởng thành. Hội Thánh nhắm
đến những người chưa được rửa
tội và mời gọi họ trở lại. Việc dạy
Giáo Lý ở đây được thực hiện trong phạm
vi dự tòng.
·
Trong hoàn cảnh thứ hai, Hội Thánh đã
được thành lập vững chắc và các phần tử
của Hội Thánh “tha thiết sống Đức Tin và
đời Kitô hữu” (số 58).
Các đáp ứng của Hội Thánh là các sinh hoạt
mục vụ hoàn toàn khai triển để các phần tử
của Hội Thánh có thể lớn lên trong sự hiểu
biết và sống Đức Tin. Về hoàn cảnh thứ
hai, Sách Chỉ Nam viết: “Trong hoàn cảnh như thế,
điều tối hệ là việc dạy Giáo Lý cho trẻ
em, thiếu niên, giới trẻ phải khai triển những
cách thức ăn khớp với việc khai tâm Kitô giáo
để những người ấy có thể trưởng
thành về Đức Tin khi khôn lớn và như thế làm
cho những người đã được Phúc Âm hóa trở
thành những người rao giảng Phúc Âm” (số 58).
·
Trong hoàn cảnh thứ ba, còn gọi là hoàn cảnh
lưng chừng, “toàn thể những nhóm người
đã được rửa tội nhưng không còn cảm
giác gì về Đức Tin, hay không còn coi mình là phần tử
của Hội Thánh và sống một cuộc sống hoàn
toàn rời xa Đức Kitô và Tin Mừng của Người.”
(ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Thư Redemptoris mission, Số 33). Hội
Thánh đáp ứng lại hoàn cảnh thứ ba này bằng
‘Tân Phúc Âm hóa” nhắm đến những người thuộc
mọi lứa tuổi đã được rửa tội,
mà đối với họ, Tin Mừng và Đức Tin
không còn ở trong tâm hồn họ nữa.
Như Sách Chỉ
Chỉ hiểu được việc dạy Giáo Lý
trong phạm vi Phúc Âm hóa; nó là thời
điểm thiết yếu của tiến trình Phúc Âm hóa
sinh động. Như một thời điểm của
Phúc Âm hóa, nó có bản chất truyền giáo và là cách căn bản
để Hội Thánh chu toàn nhiệm vụ
truyền giáo mà Đức Chúa Giêsu Kitô đã trao phó.
Vì việc dạy Giáo Lý là thành phần của việc
Phúc Âm hóa, nên chỉ được hiểu rõ trong
tương quan với những yếu tố khác của
Phúc Âm hóa: việc rao giảng đầu tiên xảy ra trong
hoạt động truyền giáo; việc cử hành các Bí
Tích Khai Tâm; đời sống bình thường; hoặc các
sinh hoạt mục vụ; và việc giáo dục về tôn
giáo tại nhà trường.
Yếu tố đầu tiên của Phúc Âm hóa là việc
rao giảng đầu tiên, nhằm đến những
người chưa tin, hay những người dửng
dưng với Đức Tin. Mục đích
là rao giảng Tin Mừng, đồng thởi kêu gọi người
ta hoán cải.
Việc dạy Giáo Lý bổ túc cho việc rao giảng
đầu tiên, vì nó “khuyến khích và làm cho việc trở
lại ban đầu được trưởng thành, nó
giáo huấn người trở lại trong Đức Tin,
và hội nhập họ vào cộng đồng Kitô hữu”
(Số 61). Việc rao giảng đầu tiên đáp lại
lệnh của Chúa là: “Hãy đi khắp thế gian mà rao giảng
Tin Mừng cho mọi thụ tạo” (Mt
Sách Chỉ
Việc dạy Giáo Lý đi theo sau việc
rao giảng đầu tiên và trở lại, và nó sửa soạn
người trở lại đón nhận các Bí Tích Khai Tâm bằng
cách đưa họ vào “mầu nhiệm Cứu Độ
và một cách sống theo Tin Mừng” (số 63). Việc dạy Giáo Lý cung cấp cho họ một
nền tảng vững chắc mà trên đó mọi sự
phát triển về hiểu biết và sống Đức
Tin được xây dựng. Nếu không có việc dạy
Giáo Lý, thì các cố gắng truyền giáo hay việc rao giảng
đầu tiên thành vô hiệu, và mọi sinh hoạt mục
vụ của Hội Thánh sẽ thiếu nền tảng.
Đức Tin cần Phép Rửa. Chúa ra lệnh
cho chúng ta làm cho muôn dân thành môn đệ và rửa tội
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Xem Mt
28:18). Việc dạy Giáo Lỳ sửa
soạn cho người chưa rửa tội tuyên xưng
Đức Tin cần cho Bí Tích Rửa Tội. Nhờ
việc trình bày các giáo thuyết Đức Tin cách có hệ
thống và đầy đủ qua việc học Giáo Lý,
người được học Giáo Lý sẵn sàng tuyên
xưng Đức Tin và lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Sách
Chỉ Nam Giáo Lý liệt kê các đặc tính sau đây của
việc dạy Giáo Lý để sửa soạn cho người
chưa rửa tội lãnh nhận các Bí Tích Khai Tâm:
·
Việc dạy Giáo Lý phải bao hàm toàn diện và có hệ
thống, vì mục đích của việc dạy Giáo Lý là dẫn
đưa học viên vào toàn thể mầu nhiệm Cứu
Độ trong Đức Kitô;
·
Việc dạy Giáo Lý phải đầy đủ, bằng
cách cung cấp cho họ “giáo dục và sự hiểu biết
về Đức Tin và vào đời sống Đức
Tin” (số 67); nói cách khác, nó không được chỉ là
những chỉ dẫn, mà phải là sự dẫn
đưa vào việc đi theo Đức Kitô trong đời
sống thường nhật;
·
Việc dạy Giáo Lý phải chú tâm vào những điều
thiết yếu và căn bản của Đức Tin và việc
sống Đức Tin, vì Đức Tin
và việc thực thi Đức Tin của cá nhân được
phát triển nhờ những hoạt động mục vụ
của Hội Thánh.
Sau khi việc dạy Giáo Lý đạt được
mục đích là một giáo huấn căn bản về
Đức Tin và dẫn đưa học viên đến việc
thực thi Đức Tin, thì cộng đồng Kitô hữu
có nhiệm vụ giúp người đã học Giáo Lý tiếp
tục gia tăng sự hiểu biết của mình và thực
hành Đức Tin, cùng tiếp tục việc hoán cải suốt
đời (Số 69). Việc tiếp tục
đào luyện Đức Tin được nuôi dưỡng
cách chính yếu qua việc tham dự Thánh Lễ, lắng
nghe Tin Mừng và chia sẻ hy lễ của Đức Kitô.
Rõ ràng là bài giảng trong Thánh Lễ Chúa Nhật và các Thánh Lễ
khác là phương thế chính mà nhờ đó sự hiểu
biết và thực thi Đức Tin đã nhận được
qua việc học Giáo Lý được đào sâu và phát triển.
Các hình thức khác
của việc tiếp tục dạy Giáo Lý hay đào luyện
Đức Tin là:
1)
Việc học Thánh Kinh, nhất là qua lectio Divina (Việc đọc
và suy niệm Lời Chúa, và áp dụng vào cuộc sống hằng
ngày).
2)
Cách các Kitô hữu đọc các biến cố, nhất
là qua việc học hỏi về học thuyết Xã Hội
của Hội Thánh.
3)
Giáo Lý Phụng Vụ mà qua đó học hỏi về
cầu nguyện, các dấu hiệu và cử chỉ trong Phụng
Vụ Thánh, và hướng về sự tham dự trọn
vẹn hơn vào Phụng Vụ Thánh.
4)
Những lớp Giáo Lý bất thường về một
phương diện hay hoàn cảnh đặc biệt của
đời sống gia đình hay đời sống Hội
Thánh hoặc xã hội.
5)
Các sáng kiến đào luyện tâm linh nhằm đến
việc đào sâu đời cầu nguyện và nhân chứng
qua việc thực thi công lý.
6)
Học hỏi về Thần Học để trang bị
đầy đủ hơn cho các tín hữu để họ
có thể trả lời về Đức Tin của họ
(số 71).
Như sách Chỉ
Sách Chỉ
Đối với những học sinh có Đức
Tin, việc dạy về tôn giáo tại các trường Công
Giáo giúp các em đào sâu sự hiểu biết của các em về
Giáo Thuyết Đức Tin. Đối với những em
đang khủng hoảng Đức Tin, giáo dục về
tôn giáo cho các em dịp để biết cách chắc chắn
rằng “Đức Tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô là gì, Hội
Thánh trả lời ra sao về những thắc mắc của
các em, và cho các em một dịp để xét lại sự
chọn lựa của các em một cách sâu xa hơn” (Số
57). Đối với những học sinh
chưa có Đức Tin, mục đích chính của việc
dạy tôn giáo là rao giảng Đức Tin.
Sách Chỉ Nam về Dạy Giáo Lý kết luận phần
thảo luận về việc dạy Giáo Lý như một
phần của việc Phúc Âm hóa bằng các nêu lên nhiệm
vụ của từng giáo phận phải đưa ra những
nguyên tắc chỉ dẫn về việc giáo dục và thực
hành Đức Tin cho trẻ em, thiếu niên, giới trẻ
qua đời sống gia đình Kitô giáo, qua việc dạy
Giáo Lý, và qua các trường Công Giáo. Điều
quan trọng là nhiệm vụ đào luyện Đức
Tin của gia đình, của các chương trình Giáo Lý và của
trường Công Giáo phải được đề ra
trong sự tương quan với nhau.
Dạy Giáo Lý là công việc của Hội Thánh mà qua
đó Hội Thánh tiếp tục sứ vụ giảng dạy
của Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn và
quyền năng của Chúa Thánh Thần. Hội Thánh là mẹ
chúng ta; chúng ta được sinh ra là con cái Thiên Chúa trong Hội
Thánh. Như người mẹ, Hội Thánh cũng là Thầy:
vì Hội Thánh truyền cho con cái mình “Đức Tin mà chính Hội
Thánh sống”. Hội Thánh truyền lại
Đức Tin bằng cách dẫn đưa học viên
đến việc đào sâu Đức Tin và canh tân đời
sống trong Đức Kitô. Thực thi công việc dạy
Giáo Lý là đáp trả lại sự sống của Chúa
Thánh Thần trong chúng ta qua Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức,
và được nuôi dưỡng nhờ Bí Tích Thánh Thể,
bằng cách truyền thụ Đức Tin và cách sống
Đức Tin cho học viên. Còn học viên Giáo Lý thì
được ân sủng Chúa Thánh Thần ban qua Bí Tích Rửa
Tội thúc dục họ đáp lại việc truyền thụ
và thực hành Đức Tin (Số 78-79)
Dạy Giáo Lý tìm cách củng cố và
phát triển sự hiệp thông giữa học viên và Đức
Chúa Giêsu Kitô. Nhờ Bí Tích Rửa Tội, người
được học Giáo Lý đã có sự sống trong
Đức Kitô; họ đã trở nên con cái Thiên Chúa trong
Con Một Ngài. Việc dạy Giáo Lý giúp
họ biết Đức Kitô cách trọn vẹn hơn.
Khi biết Đức Kitô cách trọn vẹn hơn cũng
có nghĩa là biết Thiên Chúa Cha là Đấng đã sai
Người xuống thế gian, và Chúa Thánh Thần, là món
quà mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho chúng ta trong Hội Thánh, cách trọn
vẹn hơn. Như thế cũng có nghĩa
là biết Hội Thánh là Nhiệm Thể Đức Kitô cách
trọn vẹn hơn. Hơn nữa, nó cũng có nghĩa
là biết anh chị em trong gia đình nhân loại, là những
người mà Đức Kitô xuống để cứu chuộc,
và phục hồi sự hiệp thông với Thiên Chúa Cha,
cách trọn vẹn hơn.
Mục tiêu của môn Giáo Lý là sự hiệp
thông trọn vẹn hơn với Đức Chúa Giêsu Kitô. Mục tiêu
này đạt được qua việc tuyên xưng Đức
Tin bằng việc mỗi ngày một hiểu biết và gắn
bó nhiều hơn với Đức Tin. Việc
tuyên xưng Đức Tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô luôn luôn
cũng là tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Biết Chúa Giêsu cách sâu xa hơn cũng là biết
Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nhiều hơn. Bằng
cách giúp chúng ta tuyên xưng Đức Tin bằng cả tâm hồn,
môn Giáo Lý cũng giúp chúng ta biểu lộ Đức Tin của
chúng ta vào Bí Tích Thánh Thể và các Bí Tích khác, và sống “những
quyết tâm mà Đức Tin đòi hỏi” (Số 82).
Khi chúng ta tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa, là Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta nói rõ rằng lòng mến
Chúa yêu người là trọng tâm của đời sống
và hoạt động của chúng ta. Việc tuyên xưng
Đức Tin giải thoát chúng ta khỏi việc thờ
các tà thần: “thấn thánh hay ma quỷ, quyền hành, thú
vui, chủng tộc, ông bà, quốc gia, tiền bạc,…(GLCG 2113).
Đức Tin được tuyên
xưng cách cá nhân nhưng trong và nhờ Hội Thánh. Tuyên xưng Đức
Tin nghĩa là cùng tất cả các anh chị em của chúng
ta trong Hội Thánh, chấp nhận sứ vụ của Hội
Thánh, dù phải chịu ngược đãi hay chịu chết
(Số 83).
Chúng ta đạt
được mục tiêu của việc dạy Giáo Lý bằng
cách thi hành những nhiệm vụ rõ ràng, mà tất cả
đều cần thiết và liên quan với nhau. Sách Chỉ
·
Gíáo Lý phải làm gia tăng sự hiểu biết về
Đức Tin. Các người được học
Giáo Lý, trước hết phải có sự hiểu biết
về Đức Kitô, ao ước được biết
Người mỗi ngày một hơn qua việc học hỏi
Thánh Truyền và Thánh Kinh. Nhiệm vụ này là đào sâu lời
Tuyên Xưng Đức Tin hay Kinh Tin Kính. Sự hiểu biết
sâu xa về Đức Tin không những giúp học viên sống
trọn vẹn hơn trong Đức Kitô, nhưng cũng sửa
soạn cho học viên ấy cắt nghĩa về Đức
Tin cho người khác (Số 85a).
·
Giáo Lý phải dẫn đến việc tham dự
Phụng Vụ Thánh cách đầy đủ, ý thức và
tích cực. Qua môn Giáo Lý, học viên được giáo dục
về cuộc gặp gỡ Đức Kitô cách đặc
quyền nhất trong Hội Thánh: đó là trong Phụng Vụ
Thánh, nhất là trong các Bí Tích. Việc hiểu biết sâu xa
hơn về Đức Tin phải dẫn đến sự
hiểu biết về cách biểu lộ Đức Tin
trong Phụng Vụ Thánh (Số 85b).
·
Giáo Lý phải dạy về việc đào luyện
về luân lý. Sự hiểu biết về Đức
Kitô đòi hỏi chúng ta phải theo Chúa
trên Đường Thánh Giá, con đường về nhà
cùng Đức Chúa Cha. Việc dạy Giáo Lý sửa soạn
học viên làm chứng cho Người trong đời sống
thường nhật. Bài Giảng Trên Núi mà qua đó Đức
Kitô dạy ý nghĩa hoàn hảo của Thập Giới. Bài
giảng này phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho việc
đào luyện về luân lý của môn Giáo Lý (Số 85c).
·
Giáo Lý phải dạy cách cầu nguyện. Tình bằng
hữu nghĩa thiết với Đức Chúa Giêsu Kitô có nghĩa
là cầu nguyện với Người, nhất là bằng
những lời mà Chính Người đã dạy chúng ta:
Kinh Lạy Cha. Tất cả cảm xúc mà Chúa Giêsu biểu lộ trong Kinh Lạy Cha đều
được dạy trong Giáo Lý: “thờ phượng,
chúc tụng, cảm tạ, tin tưởng như con cái, cầu
xin và kính sợ vinh quang [của Chúa Cha]” (Số 85d)
·
Giáo Lý phải gíáo dục để sống đời
sống cộng đồng. Việc dạy Giáo Lý ghi khắc
vào tâm trí học viên các nhân đức nuôi dưỡng đời
sống Hội Thánh: “tinh thần đơn giản và khiêm
nhường…; chăm sóc cho những người thấp
hèn nhất trong anh em…; nhất là những người bị
ruồng bỏ…; sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ…;
cầu nguyện chung…; tha thứ cho nhau (Số 86b).
Việc giáo dục để
sống cộng đồng gợi lên lòng ao ước hiệp
nhất Kitô giáo. Việc dạy Giáo cổ võ một sự
đại kết thật sự đến độ trang
bị cho học viên bằng sự trình bày giáo huấn của
Hội Thánh một cách rành mạch và đầy đủ.
Việc trình bày giáo huấn của Hội Thánh phải bao gồm
“những yếu tố của Đức Tin” mà Hội
Thánh Công Giáo cùng chia sẻ với các giáo hội hay cộng
đồng Kitô khác.
·
Giáo Lý chuẩn bị cho việc dẫn nhập vào
việc truyền giáo. Việc dạy Giáo Lý sửa soạn
cho học viên trở thành nhân chứng hữu hiệu cho
Chúa Giêsu Kitô trong thế gian: trong sở làm hay trong đời
sống nghề nghiệp, trong các hoạt động giải
trí và văn hóa. Đồng thời, nó cũng dẫn học
viên đến việc trực tiếp phục vụ Hội
Thánh theo ơn gọi của họ trong
đời sống.
Trong việc dẫn đưa học viên vào việc
truyền giáo của Hội Thánh, môn Giáo Lý cũng phải
khuyến khích ơn gọi linh mục và đời thánh hiến
dưới nhiều hinh thức khác nhau, để những
học viên mà Thiên Chúa Cha mời gọi vào những ơn gọi
này được giúp đỡ đáp trả để
xây dựng Nhệm Thể Đức Kitô.
Giáo dục cho việc
truyền giáo phải bao gồm việc sửa soạn cho
việc đối thoại với những người
khác tín ngưỡng một cách kính trọng. Về việc
đối thoại với những tôn giáo khác, cần phải
nhắc nhở học viên về nhiệm vụ tuyên
xưng Niềm Tin vào Đức Kitô của họ (Số
86c).
Việc dạy Giáo Lý sử dụng hai phương tiện
chính để làm tròn những nhiệm vụ đó: “truyền
thụ sứ điệp Tin Mừng và cảm nghiệm
đời sống Kitô hữu” (So 87).
Mặc dù việc dạy Giáo Lý cho những người
đã rửa tội khác biệt rất nhiều với việc
dạy Giáo Lý tiền rửa tội, sách Chỉ Nam về Dạy
Giáo Lý cho chúng ta thấy các giai đoạn của dự
tòng là sự gợi hứng cho tính chất tiệm tiến
của việc dạy Giáo Lý: sự song đôi quan trọng
của việc dạy Giáo Lý và các Bí Tích Khai Tâm; nhiệm vụ
của toàn thể cộng đoàn trong việc dạy Giáo
Lý; vị trí trọng tâm của mầu nhiệm
Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức
Chúa Giêsu Kitô trong tất cả môn Giáo Lý; sự liên quan giữa
Đức Tin và hoàn cảnh thật sự của học
viên hay hội nhập văn hóa; và việc dạy Giáo Lý là
một trường dạy Đức Tin thật sự,
được thể hiện cách hệ thống và từ
từ (Số 88-91).
Nguồn mạch của môn Giáo Lý luôn luôn phải là Lời
Thiên Chúa được truyền lại qua Thánh Truyền
và Thánh Kinh, cùng được cắt nghĩa bởi Huấn
Quyền. “Kho tàng Đức Tin” như Thánh
Phaolô gọi, là kết quả của việc liên tục suy
niệm của Hội Thánh, cho nên phải được
giữ gìn cẩn thận và rao giảng trung thành.
Thánh Truyền truyền lại trọn vẹn Lời
Thiên Chúa mà Đức Chúa Giêu Kitô và Chúa Thánh Thần đã
trao phó cho các Thánh Tông Đồ. Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa
được viết lại dưới sự linh hứng
của Chúa Thánh Thần. Huấn Quyền cung cấp cho
chúng ta sự giải thích trung thực Lời Chúa trong Hội
Thánh. Đó là ba nguồn mạch chính của
môn Giáo Lý (Số 94-95).
Ngoài ra những nguồn mạch phụ của môn Giáo
Lý cũng được khai triển: 1) Từ việc suy niệm
Lời Chúa của dân Chúa dưới sự hướng dẫn
của Huấn Quyền. 2) từ việc cử hành Phụng
Vụ Thánh mà trong đó Lời Chúa được công bố;
3) từ các nhân chứng Kitô giáo và các Thánh qua hơn hai ngàn
năm lịch sử Hội Thánh; 4) từ các nghiên cứu
thần học giúp cho các tin hữu đào sâu sự hiểu
biết về Đức Tin; và 5) từ các nguyên tắc tôn
giáo và luân lý nảy sinh từ xã hội và văn hóa (Số
95-96).
Các tiêu chuẩn để trình bày Giáo Lý
liên hệ mật thiết với nhau vì được phát
sinh từ cùng một nguồn, là Đức Chúa Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta (Số 97).
Trước hết, sứ điệp phải
được đặt trọng tâm vào Đức Chúa
Giêsu Kitô là Đấng không những chỉ thông truyền
Lời Thiên Chúa nhưng chính là Lời Thiên Chúa Nhập Thể.
Mọi hoạt động Giáo Lý phải dẫn học
viên đến việc đào sâu sự hiểu biết và sự
kết hợp mật thiết với con người Đức
Chúa Giêsu Kitô. Cũng
thế, các bài Giáo Lý cố gắng trình bày Đức Kitô là
trung tâm của lịch sử Cứu Độ. Bởi vì Đức Kitô là trọng
tâm của Giáo Lý, Giáo Lý viên phải xác quyết là mình luôn
trình bày những gì mà Đức Kitô dạy về Thiên Chúa,
về con người, hạnh phúc, đời sống luân
lý, sự chết,… mà không được thay đổi
tư tưởng của Người một chút nào” (Số
98d). Vì thế các Tin Mừng phải là trọng
tâm của việc dạy Giáo Lý (Số 98).
Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Con Thiên Chúa. Vì môn Giáo Lý đặt trọng tâm vào Đức
Kitô, nên cũng phải đặt trọng tâm vào Thiên Chúa
Ba Ngôi. Sự hiểu
biết và yêu mến Đức Kitô đồng thời cũng
là sự hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa Cha, Đấng
sai Người xuống thế gian, và Chúa Thánh Thần là
Đấng xừc dầu cho Người, và cùng Thiên Chúa
Cha và Người xức dầu mọi tín hữu. Môn Giáo Lý dạy về đời sống mật
thiết nhất của Thiên Chúa và dẫn đưa học
viên đến việc tuyên xưng Đức Tin trong Thiên
Chúa, giải phóng họ để họ tuân phục Thánh Ý
Thiên Chúa. Sự hiểu biết về đời sống
của Chúa Ba Ngôi cũng dạy cho chúng ta rằng chúng ta
được tạo dựng theo hình ảnh
và giống Đức Kitô, và được mời gọi
làm anh chị em của nhau như là con cái của Thiên Chú
trong Chúa Con (Số 99).
Môn Giáo Lý truyền đạt sứ điệp được
giải thoát khỏi tội lỗi và được hưởng
niềm vui ân sủng mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta để
chúng ta có thể làm những gì là đúng và tốt lành trong
những ngày chúng ta còn lữ hành nơi dương thế,
để chúng ta được cùng ở với Ngài trên
Thiên Quốc trong cuộc đời mai hậu. Chính nhờ việc công bố sự công chính của
Thiên Chúa mà lương tâm được uốn nắn một
cách đúng đắn, và niềm hy vọng vào sự sống
đời đời được nuôi dưỡng (Số
103).
Sứ điệp được giải thoát khỏi
tội lỗi trong Giáo Lý cũng là một “sứ điệp
giải phóng” nhắm đến những người nghèo cùng
với một sự cảm thông như chính Thầy Chí
Thánh. Giáo huấn Tin Mừng đưa người
ta đến việc luôn chú tâm đến những người
phải trải qua những kinh nghiệm nghèo khó, đói
khát, và đau khổ. Nó gợi lên trong những người
được dạy Giáo Lý “một sự lưu tâm đặc
biệt đến người nghèo”, lan
rộng đến toàn thể Hội Thánh. Không
nên hiểu sự giải phóng chỉ về mặt kinh tế,
xã hội, chính trị hay giáo điều, nhưng về con
người toàn diện, kể cả liên quan của họ
với Thiên Chúa (Số 104).
Môn Giáo Lý còn có Hội Thánh tính, có
nghĩa là xảy ra trong Hội Thánh. “Dạy Giáo Lý không phải
là cái gì khác với tiến trình truyền thụ Tin Mừng,
như cộng đồng Kitô hữu đã nhận
được nó, hiểu nó, cử hành nó, sống và truyền
thông nó bằng nhiều cách” (Số 105). Đức Tin
được truyền lại qua Giáo Lý là Đức Tin của
tất cả các thánh: Các Thánh Tông Đồ, tử đạo,
các bậc thầy vĩ đại về
Đức Tin và các nhà truyền giáo. Nó là một
Đức Tin mà nhờ sự truyền thụ của nó
nuôi dưỡng sự hiệp nhất của tất cả
mọi tín hữu (Số 105-106).
Môn Giáo Lý tôn trọng đặc tính lịch sử của
mầu nhiệm Cứu Độ. Môn Giáo Lý phải có
tính Thánh Kinh để trình bày lịch sử Cứu Độ.
Giáo Lý về Tín Lý trình bày Kinh Tin Kính và Luân Lý Kitô giáo, phải
chú ý đến lịch sử Cứu Độ được
viết mỗi ngày trong đời sống của các tín hữu.
Cũng vậy, việc trình bày các Bí Tích cũng phải nhắc
đến các biến cố vĩ đại
của lịch sử Cứu Độ được làm
sống lại trong đời sống Kitô hữu. Tóm lại,
môn Giáo Lý phải dạy Đức Tin là Đức Tin bày tỏ
sự tự mặc khải của Thiên Chúa trong dấu chỉ
Nhập Thể, trong dấu chỉ Hội Thánh, và trong “dấu
chỉ của thời đại” (Số 107-108).
Môn Giáo Lý hội nhập văn hóa vào
Tin Mừng. Nó đưa chân lý Tin Mừng vào những thực
tại thâm sâu nhất của cá nhân và văn hóa của họ. Nó thu lượm những
gì thích hợp trong văn hóa, nhưng nó cũng phải thanh
lọc và biến đổi những gì không phù hợp với
với Tin Mừng. Hội nhập văn hóa qua việc dạy
Giáo Lý là một điều tế nhị và phải
được thực thi cách từ từ bởi những
Giáo Lý viên có một Đức Tin vững chắc và hiểu
biết tường tận về nền văn hóa đó,
bởi các Giáo Lý viên địa phương, bởi các viện Giáo Lý, và qua minh giáo (hộ
giáo), là những gì đem Đức Tin ra đối thoại
với văn hóa (Số 109-110).
Môn Giáo Lý trình bày Tin Mừng cách trọn
vẹn.
Giáo Lý viên phải tránh trình bày các Giáo Lý Đức
Tin cách từng phần hoặc méo mó. Toàn thể sứ
điệp Tin Mừng phải được trình bày cách
tiệm tiến thích hợp với khả năng thu nhận của học viên. Tiêu chuẩn
này đòi hỏi Giáo Lý viên không được làm giảm
thiểu chân lý Tin Mừng để tránh bị bác bỏ,
nhưng cũng không được thổi phồng chân lý
của Tin Mừng bằng cách áp đặt trên học viên
những gánh nặng mà Tin Mừng không đề ra. Sự
liên quan mật thiết giữa việc hội nhập
văn hóa vào Tin Mừng và sự tôn trọng sự toàn vẹn
của Tin Mừng thì thật rõ ràng. Chính phương diện
truyền giáo của Đức Tin sẽ giữ cho Giáo Lý
viên trung thành với Tin Mừng “mà không rơi vào sự khép
kín cứng ngắt hay dễ
dàng nhượng bộ làm yếu Tin Mừng và trần tục
hóa Hội Thánh” (Số 111-113).
Sứ điệp được truyền
đi phải toàn diện và có thứ tự. Các chân lý của
Đức Tin được xây dựng trên nhau. Có những chân lý có tầm quan trọng hơn vì những
chân lý khác lệ thuộc vào chúng. Việc
trình bày lịch sử Cứu Độ chỉ có thể hiểu
được trong tương quan với Đức Chúa
Giêsu Kitô. Kinh Tin Kính của các Tông Đồ
là một suy nghĩ tuyệt diệu về nấc thang chân
lý của Đức Tin. Trong việc
trình bày các Bí Tích, “Bí Tích Thánh Thể chiếm địa vị
độc đáo mà xoay quanh đó các Bí Tích khác được
lập ra” (Số 115). Trong trật tự luân lý, giới
răn trọng nhất là mến Chúa yêu người giữ
địa vị cao nhất. Trong việc
trình bày về cầu nguyện, Kinh Lạy Cha tỏ lộ
các ý định và ước muốn của người
đang cầu nguyện (Số 114-115).
Môn Giáo Lý cũng tỏ lộ con người cho con
người. Trong khi đưa học viên đến sự
hiệp thông trọn vẹn hơn với Chúa Giêsu, người
Giáo Lý viên cũng nêu lên sự liên quan giữa những kinh
nghiệm của học viên như một con người với
kinh nghiện của Con Thiên Chúa Nhập Thể. Trong những
bài Giáo Lý đầu tiên, cần phải cho học viên thấy
Tin Mừng thỏa mãn những ước vọng thầm
kín nhất của lòng người thế nào. Trong Giáo Lý
Thánh Kinh, cách giải thích các biến cố hiện tại
được tìm thấy trong các biến cố trong lịch
sử Cứu Độ, nhất là trong cuộc đời
của Chúa Cứu Thế và trong Hội Thánh Sơ Khai. Trong
khi dạy về Kinh Tin Kính, Giáo Lý viên sẽ trình bày các Giáo
Lý Đức Tin như là “nguồn sự sống và ánh sáng”
cho đời sống hằng ngày (Số 117). Giáo Lý về
Luân Lý liên hệ Mười Điều Răn và Tám Mối
Phúc Thật với các đức tính của con người.
Giáo Lý Phụng Vụ liên hệ các dấu chỉ và biểu
tượng trong phụng vụ với những cảm
nghiệm sâu xa nhất của con người (Số
116-117).
Việc trình bày giáo điều nào của Đức
Tin trước hay sau là tùy vào cộng đồng giáo hội
địa phương, là cộng đồng có nhiệm vụ
trình bày toàn thể Tin Mừng theo các
phương pháp thích hợp nhất với hoàn cảnh và
thời thế của địa phương (Số 118).
Ngay từ ban đầu, Hội Thánh đã đặt
ra những công bố ngắn về những chân lý căn bản
của Đức Tin. Những công bố này được
thấy trong Tin Mừng, trong những lời tuyên xưng
Đức Tin cổ xưa và trong các bản văn Phụng
Vụ. Trong lịch sử Hội Thánh, đã hai lần Hội
Thánh chính thức soạn ra các sách bao gồm toàn thể các
điều chính yếu của Đức Tin được
khai triển và truyền lại từ nhiều kỷ nguyên
thành sách có hệ thống gọi là sách Giáo Lý. Sách Giáo Lý đầu tiên được soạn bởi
Công Đồng
Sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo cung cấp cho các Giáo Lý viên một trình bày trọn vẹn
về Đức Tin của Hội Thánh mà họ đang tìm
để truyền lại cho học viên. Đây là một trình
bày về Đức Tin được phong phú hóa bằng
những trích dẫn từ Thánh Kinh, Truyền Thống các
Tông Đồ, Huấn Quyền, và các nhà thần học và
các tác giả linh đạo có thẩm quyền. Sách Giáo Lý này được
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II coi như là “một điểm
tựa để tra cứu việc trình bày cách xác thực
nội dung của Đức Tin” (Số 120b). Nó phải là tài liệu tối yếu
trong các tài liệu tham khảo của các Giáo Lý viên, vì nó
được trình bày cho toàn thể Hội Thánh bằng
quyền kế vị các Thánh Tông Đồ của Đức
Thánh Cha.
Sách Chỉ
Sách Giáo Lý
là sách trình bày giáo huấn của Hội Thánh về tín lý và
luân lý một cách có hệ thống. Sách này nhằm
đáp ứng một số mục đích quan trọng
trong đời sống Hội Thánh. Sách
cổ võ sự hiệp nhất của Hội Thánh bằng
cách giúp các phần tử của Hội Thánh tuyên xưng
Đức Tin một cách đầy đủ và mạch lạc.
Sách cung cấp cho tất cả các tín hữu một trình
bày sáng sủa, chính xác, và đáng tín cậy về những
điều Hội Thánh tin. Về điểm
này, sách Giáo Lý là “một điểm tựa để tra cứu
cho việc dạy Giáo Lý” (Số 121a). Sách
cũng là bản văn để tham khảo trong việc
soạn thảo các sách Giáo Lý địa phương, mà
trong đó bao gồm các hoàn cảnh lịch sử và văn
hóa địa phương. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo là sách chung thích hợp cho toàn thể Hội Thánh
trên khắp thế giới. Các sách Giáo Lý địa
phương thích hợp cho Hội Thánh ở một địa
phương và một thời đại (Số 121).
Sách Giáo Lý theo một cấu
trúc dựa theo bốn khía cạnh của đời sống
chúng ta trong Đức Kitô: Những gì chúng ta tin hay Kinh Tin
Kính (Tin Thiên Chúa – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và
chương trình Cứu Độ của Ngài); cử hành
và hiệp thông vào điều chúng ta tin trong các Bí Tích (đời
sống nhiệm tích mà qua đó chúng ta lãnh nhận ân sủng
của Thiên Chúa); cách chúng ta hành động dựa theo
điều chúng ta tin hay Mười Điều Răn
(đời sống luân lý: kính mến Thiên Chúa hết lòng hết
sức và yêu tha nhân như chính mình); và chúng ta phải cầu
nguyện thế nào theo những gì chúng ta tin hay là Kinh Lạy
Cha (đời cầu nguyện hằng ngày trong cuộc lữ
hành dương thế của chúng ta mà chúng ta hy vọng sẽ
gặp Thiên Chúa ở cuối đời). Như đã thấy,
cấu trúc của Sách Giáo Lý làm cho sách này rất thích hợp
để tiến hành những công tác căn bản của
việc dạy Giáo Lý (Số 122).
Sách Giáo Lý
được cảm hứng bởi sự mặc khải
trọn vẹn của Chúa Ba Ngôi trong sự Nhập Thể
của Ngôi Hai trong lòng Trinh Nữ Maria. Trọng
tâm của sách là Con Thiên Chúa Nhập Thể, Đức Chúa
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đồng thời sách cũng
được cảm hứng bởi mầu nhiệm con
người được mời gọi thông phần phần
vào sự sống của Thiên Chúa. Thực ra,
mầu nhiệm về con người cũng được
mặc khải trong việc Nhập Thể của Chúa Giêsu
(Số 123).
Sách Giáo Lý là một bản
văn chính thức mà trong đó Hội Thánh trình bày những
điều mình tin, cử hành, sống và cầu nguyện bằng
những công thức ngắn, gọn và chính xác. Sách chỉ
trình bày những gì “căn bản và chung” cho Đức Tin
Công Giáo; sách không trình bày ý kiến hay những quan điểm
riêng của một trường phái tư tưởng thần
học nào. Sau cùng, sách này có tính hoàn vũ, cho chúng ta thấy
một hình ảnh đầy đủ của Đức
Tin Công Giáo, sát nhập các giáo huấn của Công Đồng
Chung Vaticanô II, đặc biệt là những lo âu về tôn
giáo và luân lý của thời đại chúng ta. Sách không đưa ra những thích nghi phù hợp với
văn hóa, thời điểm, sự trưởng thành tâm
linh hay điều kiện xã hội hay Giáo Hội của học
viên. Các thích nghi này thuộc phạm vi
của các sách Giáo Lý địa phương (Số 124).
Sách Giáo Lý có liên hệ
đặc biệt với điều mà Công Đồng
Vaticanô II gọi là “Kho tàng Đức Tin Kitô quý
giá”. Sách giúp truyền
lại một Giáo Lý Đức Tin hoàn toàn và tinh tuyền.
Như thế, sách giúp người học Giáo
Lý cầu nguyện bằng Thánh Kinh. Cho
nên, môn Giáo Lý cần phải phong phú về các trích dẫn Lời
Chúa chứa đựng trong Thánh Kinh. Nhờ
sách Giáo Lý, người Giáo Lý viên biết cách trình bày Lời
Chúa trong toàn bộ chân lý như thế nào (Số 125-128).
Sách Giáo Lý cũng trích dẫn
nhiều từ các Giáo Phụ, giúp học viên thấy
Giáo Lý Đức Tin đã được giảng dạy,
cử hành và thực hành như thế nào trong quá khứ.
Các lời của các Giáo Phụ giúp chúng ta thấy việc
dạy Giáo Lý phải tiến hành qua từng giai đoạn
như thế nào, để theo những
giai đoạn đi đến Đức Tin này, từ rửa
tội và đời sống trọn vẹn trong Hội
Thánh. Đặc biệt là nhờ các Giáo Phụ mà chúng ta nhận
ra tầm quan trọng của việc chấp nhận chân
lý Đức Tin của trí khôn và ý chí, cùng với những
khía cạnh khác của đời sống Đức Tin:
Kinh Tin Kinh, các Bí Tích, Mười Điều Răn, và Kinh Lạy
Cha (Số 129-130).
Các sách Giáo Lý địa phương được soạn
thảo và công bố bởi từng Đức Giám Mục
hay Hội Đồng Giám Mục địa phương. Mục
đích là trình bày đầy đủ Giáo Lý Đức Tin
cho nền văn hóa và hoàn cảnh khác nhau cũng như tuổi
tác của những học viên Giáo Lý. Sách Giáo
Lý địa phương cố gắng trình bày Đức
Tin bằng ngôn ngữ dễ hiểu nhất, nhưng không
làm tổn thương đến chân lý hay tính chất trọn
vẹn của Đức Tin (Số 131).
Văn của sách Giáo Lý địa
phương cũng là loại văn chính thức vì nó
được soạn bởi các Giám Mục địa
phương. Cũng như sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo, nó trình bày tổng hợp của toàn
thể Giáo Lý Đức Tin. Nó cũng là điểm
tựa cho việc tra cứu Giáo Lý (Số 132).
Tổng hợp Đức Tin phải biểu lộ sự
thích nghi mà “sự khác biệt về văn hóa, tuổi tác,
trưởng thành về tâm linh, và điều kiện xã hội
và giáo hội giữa những người mà sách này nhắm
đến” đòi hỏi (Số 132). Vì thế
nó sẽ thường xuyên nhắc đến kinh nghiệm
của học viên, đến liên quan giữa Đức
Tin sồng động và nền văn hóa, điều kiện
xã hội, và hoàn cảnh cụ thể của Hội Thánh
địa phương.
Sách Giáo Lý địa phương sẽ
luôn tham chiếu sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo. Mục tiêu của sách Giáo Lý địa
phương là sẽ thích ứng cách trình bày toàn thể nội
dung sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo. Việc soạn thảo các
sách Giáo Lý địa phương biểu lộ bản tính
Công Giáo của Đức Tin chúng ta. Nó
trình bày Đức Tin cho mọi nền văn hóa. Nó cũng
nói lên sự hiệp nhất của tất cả mọi Hội
Thánh địa phương vớ Hội Thánh Duy Nhất
mà Đức Kitô đã thiết lập, đồng thời
cũng diễn tả sự hiệp thông giữa các Giám Mục.
Sau hết, sách Giáo Lý địa phương, cùng với
sách Giáo Lý của Hội Thánh
Công Giáo, là “một men mới của việc dạy Giáo
Lý trong Hội Thánh” (Số 133-136).
Phần Thứ Ba của Sách Chỉ Nam
Giáo Lý trình bày nghệ thuật dạy về Đức Tin
hay sư phạm Đức Tin.
Dạy về Đức
Tin là công việc của Chúa Thánh Thần, vì Giáo Lý viên cộng tác
vào việc truyền thông chân lý và tình yêu của Thiên Chúa Cha
cho các con cái của Ngài. Ngài thực hiện việc
này một cách hoàn hảo nhất bằng cách sai Con Một
Ngài xuống thế gian để Cứu Độ chúng ta.
Tiêu chuẩn của tất cả môn Giáo Lý là sự mặc
khải của Thiên Chúa Cha cho chúng ta trong Con của Ngài, là
Đức Chúa Giêsu Kitô của chúng ta. Các Giáo Lý viên
được chia sẻ sứ vụ của Đức
Kitô trong việc tỏ lộ tình yêu của Thiên Chúa Cha cho
các con cái của Người (Số 137-138).
Thiên Chúa Cha dạy các con
cái của Ngài bằng cách chấp nhận chúng trong thực trạng
của chúng. Ngài tìm cách để giải thoát
chúng khỏi tội lỗi và kéo chúng đến cùng Ngài.
Thiên Chúa Cha hoạt động qua các biến cố trong
đời sống mỗi người để tỏ
mình ra và tạo nên mối dây yêu thương chung
thủy với mỗi người.
Phương pháp sư phạm hay nghệ thuật dạy
học của Giáo Lý viên cũng phải bắt chước
phương pháp sư phạm của Thiên Chúa. Giáo Lý viên phải
giúp học viên nhìn thấy bàn tay của
Thiên Chúa hoạt động trong các biến cố của
đời họ. Qua môn Giáo Lý, học viên nhận
thức sâu sắc mối dây liên hệ của mình với
Thiên Chúa (Số 139).
Đức Chúa Giêsu Kitô đã làm
gương cho chúng ta về nghệ thuật giảng dạy
của Thiên Chúa Cha. Các môn đệ đã kinh nghiệm trực
tiếp cách giảng dạy của Đức Kitô qua lời
nói và việc làm của Người. Các ngài đã cho
chúng ta thấy hình ảnh của cách giảng dạy của
Người trong Tin Mừng.
·
Chúa Giêsu luôn đón nhận những người khác, nhất
là người nghẻo khổ và tội lỗi, “như những
người được Thiên Chúa yêu thương và tìm kiếm”;
·
Người luôn trình bày chân lý và tình yêu của Thiên Chúa
Cha mà không nhân nhượng;
·
Người luôn tỏ ra nhạy cảm và yêu
thương mãnh liệt để giúp người khác chiến
thắng tội lỗi, và kính trọng cùng nuôi dưỡng
sự sống;
·
Người luôn mời gọi và thúc dục người
khác “sống một cuộc sống được nuôi
dưỡng bằng việc Tin vào Thiên Chúa, hy vọng vào
Nước Trời và bác ái với tha nhân”;
·
Người dùng nhiều cách để truyền thông với
người khác, thí dụ: “lời nói, im lặng, phép ẩn
dụ, hình ảnh, thí dụ, và nhiều dấu hiệu
khác nhau” (Số 140)
Khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đi theo
Người với hết lòng và hết trí khôn, Người
truyền lại cho các ngài nghệ thuật giảng dạy
của Người như một phương thế
căn bản để chia sẻ sứ vụ Cứu
Độ của Người.
Đến lượt Hội Thánh cũng theo nghệ thuật giảng dạy của
Thiên Chúa Cha và của Chúa Giêsu Kitô. Theo một nghĩa nào
đó, toàn thể đời sống Hội Thánh là một
giáo trình Đức Tin. Hội Thánh là Mẹ và
là Thầy chúng ta. Sau bao nhiêu kỷ nguyên Kitô, chúng ta tìm
thấy phương pháp sư phạm Giáo Lý phong phú trong Hội
Thánh: đời sống của các thánh và các Giáo Lý viên; những
cách sống Đức Tin Kitô, cách truyền thụ Đức
Tin khác nhau cho tha nhân, thí dụ, các sách Giáo Lý, và nhiều
sưu tập các cách dạy Giáo Lý và các sách giáo khoa về
Giáo Lý.
Chúng ta có thể khám phá ra nghê thuật dạy
Giáo Lý của Thiên Chúa Cha nhờ hoạt động của
Chúa Thánh Thần trong các học viên Giáo Lý.
Chúa Thánh Thần dẫn đưa họ đến gần
Chúa Cha bằng việc giúp họ trở nên mỗi ngày một
giống Chúa Con. Mục đích tối hậu của việc
dạy Giáo Lý là đưa đến sự kết hợp
mật thiết với Thiên Chúa Cha bằng cách trở nên giống
Đức Kitô nhiều hơn.
Mức độ giống Đức Kitô của mỗi
người tùy thuộc vào việc người ấy làm theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần
trong mình. Sách Chỉ Nam về Dạy Giáo Lý kết luận
“Vì lý do đó, không ai có thể thành thầy dạy Đức
Tin, trừ các môn đệ vững tin và trung thành với
Đức Kitô cùng Hội Thánh Người” (Số 142).
Nghệ thuật dạy về Đức Tin theo gương Thiên Chúa có những đặc
tính sau:
·
Nó giúp học viên trong mối liên hệ với Thiên Chúa
mà qua đó Ngài cứu chúng ta khỏi tội lỗi và giải
thoát chúng ta để chúng ta được tự do kính mến
Ngài và yêu mến tha nhân. Nghệ thuật này nhấn mạnh
đến việc Thiên Chúa tự nguyện yêu thương
chúng ta trước, đến phẩm giá con người
như những kẻ đón nhận tình yêu của Thiên Chúa
và đáp trả lại tình yêu mà Thiên Chúa đòi hỏi;
·
Nó tôn trọng mầu nhiệm hiệp thông của Thiên
Chúa Cha với nhân loại: nguồn gốc thiêng liêng và việc
thích ứng vào hoàn cảnh của mỗi người và mỗi
nền văn hóa (Số 143).
·
Nó coi trọng kinh nghiệm Đức Tin trong Hội
Thánh;
·
Nó bắt nguồn từ sự liên hệ giữa
người với người, và tự tạo ra một
tiến trình đối thoại;
·
Nó dùng dấu hiệu, liên kết lời nói với việc
làm, giảng dạy với cảm nghiệm;
·
Nó diễn tả “tình yêu vô biên của Thiên Chúa”, mà ở
đó nó tìm thấy quyền năng.
Tóm lại, nghệ thuật dạy Giáo Lý chú tâm đến
việc làm cho học viên nên giống Đức Kitô, với
Chúa Thánh Thần là Đấng Trợ Giúp và Hướng Dẫn.
Làm như thế, nghệ thuật dạy về Đức
Tin là nghệ thuật giúp người khác trở về với
Thiên Chúa Cha trong đời sống thương yêu và thánh
thiện.
Việc dạy Giáo Lý được thực thi bởi
con người với những phương tiện của
nhân loại, nhưng lại là sự hợp tác vào sứ vụ
Cứu Độ của Đức Kitô, và hành động
Cứu Độ của Thiên Chúa Cha. Cho nên,
các Giáo Lý viên phải ý thức rằng mình trình bày chân lý
Đức Tin, chứ không phải tư tưởng của
mình hay một ý thức hệ nào khác. Các
Giáo Lý viên sẽ dùng một nghệ thuật giảng dạy
giúp họ khuyến khích học viên gắn bó với Thiên
Chúa và với nội dung của sứ điệp Kitô, là sứ
điệp giúp họ có thể gắn bó hoàn toàn với
Thiên Chúa. Các Giáo Lý viên cũng giúp họ phát triển về
mọi phương diện của Đức Tin: sự hiểu
biết, cầu nguyện và phụng tự, và sống
đời nhân đức. Sau cùng, các Giáo Lý viên giúp các học viên hiến mình
cho Thiên Chúa, nhất là trong “những ơn gọi mà Chúa kêu
mời họ” (Số 144).
Về điểm này, việc dạy Giáo Lý là điều
căn bản của việc tông đồ ơn gọi mà
nhờ đó, Hội Thánh giúp các người trẻ biết
ơn gọi của mình trong đời sống và hết
lòng ấp ủ nó.
Để kết luận, việc dạy Giáo Lý phải
tìm cách bắt chước phương pháp sư phạm của
Thiên Chúa Cha là Đấng đã tìm cách truyền thông cùng con
cái Ngài qua những kinh nghiệm khác nhau của đời sống.
Thách đố lớn nhất của việc
dạy Giáo Lý là tìm ra những cách truyền thông hoàn toàn tôn
trọng chân lý Đức Tin và hoàn cảnh cụ thể của
người học Giáo Lý. Làm như thế,
việc dạy Giáo Lý giúp học viên biến cuộc đời
họ thành món quà tình yêu chân thành dâng lên Thiên Chúa Cha và hiến
cho tha nhân.
Trong khi dạy về Đức Tin, Hội Thánh không
dùng một phương pháp nào duy nhất, mà dùng nhiều
phương pháp miễn là chúng phù hợp với
phương pháp sư phạm của Thiên Chúa, nghĩa là gắn
bó với Giáo Lý Đức Tin được giảng dạy.
Qua nhiều kỷ nguyên Kitô, nhiều phương pháp khác
nhau đã được sử dụng tùy theo
tài năng của các Giáo Lý viên và các học viên. Dù dùng
phương pháp nào đi nữa thì mục đích của
việc dạy Giáo Lý vẫn không thay đổi: là đào
luyện học viên trong Đức Tin.
Nếu việc dạy Giáo Lý phải
thích hợp với Lời Chúa và với học viên, thì
phương pháp và nội dung của môn Giáo Lý phải liên hệ
mật thiết với nhau. Thật là sai lầm khi cho rằng
phương pháp không liên hệ gì với nội dung của
Đức Tin được truyền đạt.
Phương thức truyền thụ Đức Tin phải
“đầy đủ so với bản chất, nguồn gốc,
và ngôn ngữ của sứ điệp, với hoàn cảnh
cụ thể của từng cộng đoàn Hội Thánh cũng
như hoàn cảnh của các tín hữu mà việc dạy
Giáo Lý nhằm đến” (Số 149a).
Có một phương pháp đóng vai trò
quan trọng cả trong lịch sử dạy Giáo Lý lâu dài lẫn
ngày nay. Đó là phương pháp tài liệu được
trình bày trong Thánh Kinh, các Kinh Tin Kính, Phụng Vụ và trong Hội
Thánh. Phương pháp này có thể
được dùng cách hiệu quả bằng những
phương tiện truyền thông đại chúng.
Khi nói về cách dạy Giáo Lý, người
ta thường nói đến phương pháp quy nạp và
tổng hợp. Bằng phương pháp quy nạp, các dữ kiện,
như lịch sử Cứu Độ, các nghi thức Phụng
Vụ, lịch sử Hội Thánh, và các biến cố thời
đại, được trình bày để khám phá ra sự
liên quan của chúng với mặc khải của Thiên Chúa
cho chúng ta. Phương pháp này còn được
gọi là “phương pháp Công Bố Tin Mừng (kerygmatic)”
bởi vì nó thích hợp với việc trình bày chương
trình của Thiên Chúa trong việc Cứu Độ chúng ta.
Trong phương pháp “Công Bố Tin Mừng”
các biến cố Cứu Độ được công bố
trước, rồi sau đó được áp dụng vào
đời sống.
Phương pháp tổng hợp cố gắng trình bày
các dữ kiện và giải thích chúng theo
căn nguyên của chúng. Phương pháp này
không đối nghịch với phương pháp quy nạp,
nhưng trong việc dạy Giáo Lý, hai phương pháp bổ
túc cho nhau. Tuy nhiên lý luận mà thôi thì
không đủ để hiểu mặc khải của
Thiên Chúa.
Chúng ta phải phân tích và định giá cẩn thận
vai trò của kinh nghiệm của con người trong việc
dạy Giáo Lý. Việc dạy Giáo Lý phải
giúp học viên ý thức hơn về các kinh nghiệm của
mình và lượng giá chúng dựa trên giáo huấn của Hội
Thánh. Nếu không, chúng ta sẽ không giúp
gì cho học viên trong việc sống một đời có
trách nhiệm trước nhan Thiên Chúa.
Kinh nghiệm giúp người ta hiểu Giáo Lý Đức
Tin dễ dàng. Hãy nhớ lại Chúa Giêsu dùng
nhiều kinh nghiệm khác nhau để dạy về chân
lý của Tin Mừng. Thiên Chúa cũng tỏ mình ra cho mỗi
người qua kinh nghiệm sống của họ.
Giáo Lý viên có nhiệm vụ giúp học viên nhìn đến
các kinh nghiệm sống hằng ngày dưới lăng kính của Tin Mừng và giáo huấn Hội
Thánh. Chỉ có như thế việc dạy
Giáo Lý mới dẫn đến một cuộc sống nội
tâm Kitô sâu xa.
Qua việc dạy Giáo Lý, Hội Thánh
truyền lại ký ức sống động của mình. Việc học thuộc
lòng giúp học viên thu nhận vào bản
thân các chân lý Đức Tin.
Phải nhớ những gì?
Các công thức chính yếu của Đức Tin là ngôn
ngữ và văn hóa chung của mọi
tín hữu. Việc học thuộc lòng các công
thức này rất hiệu quả sau khi đã hiểu
tường tận chúng. Trong số các công thức của
Đức Tin, học viên cần phải nhó những đoạn
Thánh Kinh chính, các kinh quan trọng trong Phụng Vụ, và các
kinh thường nhật (Dấu Thánh Giá, Kinh Tin Kính của
các Tông Đồ, Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Ăn
Năn Tội,…).
Sách Chỉ Nam Giáo Lý coi việc học
thuộc lòng các công thức của Đức Tin như là
những chùm hoa sẽ nở ra khi học viên hiểu biết
hơn về Đức Tin. Các công thức này sẽ nhắc cho học
vỉên các kinh nghiệm cá nhân hay cộng đoàn mà chúng liên
quan đến.
Không có phương pháp nào có thể thay
thế thừa tác vụ của Giáo Lý viên.
Giáo Lý viên đem đến cùng với
phương pháp ơn Chúa Thánh Thần, là một đời
sống tâm linh, nhân chứng và nhân đức vững chắc.
Giáo Lý viên là một công cụ quan trọng mà
Thiên Chúa dùng để vươn tới chúng ta. Cho nên
“cái nhìn về văn hóa, điều kiện xã hội, và
cách sống của Giáo Lý viên không được biến
thành trở ngại trên cuộc hành trình Đức Tin” (Số
156b). Một Giáo
Lý viên tốt sẽ ý thức về sự cần thiết
phải nuôi dưỡng Đức Tin của mình bằng
cách học hỏi, và trên hết là cầu nguyện.
Ngoài ra liên hệ cá nhân giữa Giáo Lý
viên và học viên sẽ có ảnh hưởng sâu đậm.
Nếu việc dạy Giáo Lý muốn đạt
được kết quả cao quý là làm cho học viên hiểu
biết và yêu mến Thiên Chúa một cách thâm sâu hơn, thì học
viên phải được mời gọi và khuyến khích
tích cực đáp trả lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.
Có một số hình thức tham gia tích cực trong việc
học Giáo Lý là: cầu nguyện, cầu nguyện chung, tham dự các Bí Tích khác, làm việc cho
công lý và hòa bình, sống đời nhân đức. Việc dạy Giáo Lý phải giúp học viên sống
những gì họ học.
Cộng đồng các tin hữu hiển
nhiên là “điểm quy chiếu cụ thể của cuộc
hành trình Đức Tin của từng cá nhân” (Số 158). Các học viên Giáo Lý nhìn
vào cộng đoàn để tìm các nhân chứng của chân
lý Đức Tin. Trong tương quan với cộng
đồng, cần có những giao thiệp cá nhân “người
với người” trong những phương diện chính
của đời sống Kitô.
Nhóm có thể giúp nhiều trong việc
học hỏi Đức Tin. Với trẻ em, các nhóm
giúp các em biết sống đời xã hội. Các nhóm cũng giúp các em phát triển nhân cách.
Sau cùng, toàn thể việc học hỏi Đức Tin mở
ra nhiệm vụ mà chúng ta là một thân thể chia sẻ
để Cứu Độ thế gian.
Đối với nhiều người,
truyền thông đại chúng “là phương tiện chính
để thông tin và giáo dục, hướng dẫn và khuyến
khích họ trong cách cư xử giữa cá nhân, trong gia
đình và ngoài xã hội” (Số 160). Cho nên, việc sử dụng
các phương tiện truyền thông đại chúng (truyền
thanh, truyền hình, báo chí, thu băng, quay
phim, và băng, đĩa nhạc…) phải được
dùng chung với bất cứ phương pháp dạy Giáo Lý
nào. Có những phương tiện đắt tiền,
nhưng nếu nhiều giáo xứ cùng chung
nhau dùng thì giá sẽ trở nên phải chăng.
Việc sử dụng các phương
tiện truyền thông phải dựa trên kiến thức,
khả năng và sự sửa soạn của Giáo Lý viên. Về phương diện
này, thách đố lớn lao nhất là
phải làm sao cho chân lý thấm nhuần nền văn hóa mà
các phương tiện truyền thông tạo ra.
Những chuyên gia truyền thông phải được
khuyến khích để dùng tài năng của họ mà trình
bày Tin Mừng. Cũng cần phải giúp các gia đình sử
dụng phương tiện tryền thông để xây dựng
đời sống gia đình, và tránh dùng những
phương tiện chống phá gia đình. Những
người trẻ lớn lên với các phương tiện
truyền thông hiện đại thường bị ảnh
hưởng bởi chúng. Phải giúp các
em dùng chúng cách nào để giúp các em lớn lên trong Đức
Tin và sống Đức Tin.
Phần Thứ Tư của Sách Chỉ
Vì người chịu phép rửa được mời
gọi để lớn lên và phát triển về Đức
Tin và sống Đức Tin, nên họ có
quyền được học Giáo Lý cách đầy đủ.
Hội Thánh có nhiệm vụ cung cấp cho họ
một chương trình Giáo Lý thích hợp. Quyền
được học Giáo Lý đầy đủ của mỗi
người được rửa tội cũng là quyền
của toàn thể cộng đồng Đức Tin, là cộng đồng lệ thuộc vào
việc giáo dục Đức Tin để được
tồn tại và phát triển.
Đức Tin hay Lời Chúa được truyền
thông chì là một, nhưng những người được
truyền thông lại sống trong các hoàn cảnh và văn hóa
khác nhau. Nếu việc dạy Giáo Ly là chất dinh dưỡng
thật cho Đức Tin của những người học
Giáo Lý, thí các Giáo Lý viên phải sử dụng năng lực
và óc sáng tạo để trình bày Đức Tin cho những
người khác nhau về văn hóa, tuổi tác, trình độ
trưởng thành tâm linh và sự liên quan của họ với
Hội Thánh. Điều quan trọng nhất là các Giáo Lý
viên phải quan tâm đến những gì thầm kín trong nội
tâm của người học Giáo Lý: các thắc mắc, hy
vọng và nhu cầu nằm tận đáy lòng họ (Số
170).
Cần phải thích nghi việc dạy Giáo Lý theo tuổi của học viên, bởi vì học
viên càng lớn lên thì Đức Tin càng được
tăng trưởng trong họ. Đồng
thời ở mỗi lứa tuổi có những thách đố
riêng về Đức Tin mà Giáo Lý viên phải giúp học
viên đương đầu. Trong lúc tìm cách thích nghi
việc dạy Giáo Lý với từng lứa tuổi, nên
dùng việc dạy Giáo Lý cho người trưởng thành
làm tiêu chuẩn, vì đó là mục đích mà mọi cách dạy
Giáo Lý khác phải nhắm đến.
Các học viên Giáo Lý trưởng thành có thể ở
nhiều tình trạng:
·
Người trưởng thành đang sống và muốn
đào sâu Đức Tin.
·
Người trưởng thành đã được rửa
tội nhưng chưa lãnh hội đầy đủ Giáo
Lý, chưa làm phát triển đầy đủ món quà Đức
Tin đã lãnh nhận khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, hay Thêm Sức,
hoặc đã bỏ bê việc sống đạo.
·
Người trưởng thành chưa được rửa
tội.
·
Các người trưởng thành đến từ các
Cộng Đồng Kitô hữu chưa hoàn toàn hiệp thông
với Hội Thánh Công Giáo.
Trong việc dạy Giáo Lý cho người
trưởng thành, phải ý thức rằng họ có nhiệm
vụ phải làm cho món quà Đức Tin mà họ nhận
được trong Bí Tích Thánh Tẩy trở nên trưởng
thành. Cũng vậy, họ phải chịu trách nhiệm
về cuộc đời của họ và đời sống
xã hội, và sẽ trải qua những thay đổi cũng
như khủng hoảng cá nhân và xã hội. Cho nên Đức Tin của người trưởng
thành cần phải thăng tiến, phát triển và bảo
vệ luôn. Trong khi trình bày Đức Tin
cho người lớn, phải để ý đến những
khó khăn và kinh nghiệm của họ; đến ơn gọi
nên thánh riêng biệt của họ như một tín hữu,
đó là ơn gọi thánh hóa mọi phương diện của
đời sống thế trần. Cũng phải
để ý đến cộng đoàn là cơ quan khuyến
khích và nuôi dưỡng sự lớn lên trong kiến thức
về Đức Tin và thực hành Đức Tin; và các việc
mục vụ cho họ, cùng việc họ tham gia Phụng
Vụ Thánh và vào việc làm chứng cho Hội Thánh bằng
đức ái.
Phải trình bày trọn vẹn Đức
Tin cho người lớn, để giúp họ có thể trả
lời về chân lý Đức Tin cho “những khó khăn,
nghi ngờ, hiểu lầm, thành kiến, và chống đối
thời nay” (Số 175). Việc học Giáo Lý phải giúp chúng
ta lớn lên trong Đức Tin qua việc tham dự vào các
Bí Tích, linh hướng và tĩnh tâm. Đồng thời, việc
học Giáo Lý
người trưởng thành giúp chúng ta nhìn vào
văn hóa của chúng ta bằng con mắt Đức Tin. Nó
giúp chúng ta định giá đúng điều gì là tốt cho
đời sống xã hội, và điều gì hủy diệt
nó, để trả lời cho những thắc mắc về
luân lý ở thời đại chúng ta, để biết áp
dụng giáo huấn của Hội Thánh vào các hoàn cảnh sống
hằng ngày, và giúp chúng ta thấy sự hợp nhất của
Đức Tin và lý trí để tránh những cách giải
thích Đức Tin cách cơ bản hay chủ quan hoặc
độc đoán.
Việc dạy Giáo Lý cho người lớn
có nhiều hình thức khác nhau. Luôn luôn cần có những lớp trình bày trọn vẹn
Đức Tin cách có hệ thống cho người lớn.
Thêm vào đó là những lớp dự tòng cho những
người chưa được rửa tội; các lớp
Giáo Lý theo chu kỳ Phụng Vụ; các lớp Giáo Lý chuyên
môn cho các thừa tác viên có trách nhiệm tông đồ khác
nhau trong Hội Thánh; các lớp Giáo Lý thích hợp với các
biến cố của đời sống, thí dụ như
Hôn nhân hay Rửa Tội trẻ em, hay những giây phút trọng
yếu của đời sống như đau ốm, các
biến cố hay kinh nghiệm đặc biệt, như
đi lính hay di dân; các lớp Giáo Lý về việc dùng thời
giờ rảnh rỗi hay du lịch của Kitô hữu; và
Giáo Lý cho những biến cố đặc biệt của
đời sống Hội Thánh hay xã hội.
Những người sinh con và đưa con đến
nhà thờ để rửa tội có nhiệm vụ nuôi
dưỡng và phát triển hồng ân
Đức Tin trong các em. Có một
số điểm cần phải giữ trong việc dạy
Giáo Lý cho ấu nhi và trẻ em.
·
Tuổi thơ ấu là thời gian dứt khoát cho va chạm xã hội đầu tiên trong gia
đình, học đường và Hội Thánh.
·
Việc dẫn đưa con em vào đời sống Hội
Thánh qua các Bí Tích Khai Tâm (Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể),
cùng Bí Tích Hòa Giải.
·
Việc uốn nắn con người là điều
quan trọng để lớn lên trong đời sống
Đức Tin, thí dụ, phát triển
lòng tin tưởng, hy sinh, chia sẻ….
·
Dạy các em cầu nguyện và làm quen các em với
Thánh Kinh.
·
Gia đình và học đường là hai nơi quan trọng
nhất cho việc giáo dục và dạy Giáo Lý, nhất là
vai trò không thể thay thế được của gia
đình.
Về điểm cuối cùng, việc dạy Giáo Lý ở
các trường Công Giáo hay các lớp Giáo Lý ở các giáo xứ
chỉ có hiệu quả khi có sự tham gia tích cực của
gia đình. Các mục tử và
các Giáo Lý viên phải đặt ưu tiên vào việc làm sao
cho các phụ huynh cộng tác vào vỉệc dạy Giáo Lý
cho con em họ. Về phương diện
này, việc dạy Giáo Lý cho trẻ em cũng là dịp tốt
cho cha mẹ học Giáo Lý.
Sau cùng, Hội Thánh cũng phải đặc biệt
lưu tâm đến các em không được gia đình
giúp đỡ trong việc lớn lên trong Đức Tin và
thực hành Đức Tin, hay những em không có gia đình. Ngày nay có nhiều trẻ em còn không được
rửa tội. Nhiều em khác đã rửa
tội, nhưng không được giúp đỡ để
hạt giống Đức Tin trong các em được lớn
lên.
Khi nói về việc dạy Giáo Lý cho người trẻ,
sách Chỉ Nam Giáo Lý nhận xét rất đúng rằng giới
trẻ là vừa thành phần dễ bị ảnh hưởng
bởi những khủng hoảng đang đầy dẫy
trên thế gian, đồng thời cũng là kho tàng chứa
đầy hy vọng cho việc canh tân Hội Thánh và thế
giới (Số 181). Việc dạy Giáo Lý cho người trẻ
là việc rất quan trọng để giúp các em
đương đầu với những thách đố của
Đức Tin trong xã hội và văn hóa của chúng ta, và
giúp các em phát triển các nhân đức để nhờ
đó các em sẽ trở thành những phần tử vững
mạnh của Hội Thánh và những công dân tốt.
Trong việc dạy Giáo Lý cho tuổi trẻ, phải
nhận ra ba giai đoạn khác nhau của sự phát triển
con người: tuổi thiếu niên, tuổi vị thành
niên và tuổi thanh niên. Sách Chỉ Nam Giáo Lý nhấn mạnh
sự cần thiết phải lưu tâm đặc biệt
đến tuổi thiếu niên được gọi là “lứa
tuổi chối từ”, vì các em sẵn sàng nhạy cảm
với những quyến rũ của thế
tục và vật chất, và dễ bỏ việc thực
hành Đức Tin. Sách Chỉ
Việc dạy Giáo Lý cho giới trẻ
có nghĩa là trình bày Đức Chúa Giêsu Kitô bằng ngôn ngữ
mà người trẻ có thể hiểu và nhạy cảm với
những khó khăn mà các em đang gặp phải. Không nên chỉ nhìn những
người trẻ như là “mục tiêu của việc dạy
Giáo Lý”, nhưng cũng phải nhìn các em như những
đề tài của Giáo Lý, đề cập đến
ơn Thiên Chúa Cha gọi các em làm nhân chứng cho Đức
Kitô trên thế gian (Số 182).
Sách Chỉ Nam Chung cũng đòi các Sách Chỉ
·
để ý đến sự đa dạng của
điều kiện tôn giáo của tuổi trẻ: những
em chưa rửa tội, những em chưa hoàn tất việc Khai Tâm
Kitô; những em đang bị khủng hoảng về Đức
Tin; những em bỏ Đức Tin và cần giúp đỡ
về tâm linh;
·
để ý đến hoàn cảnh xã hội và giáo dục
của tuổi trẻ để việc học Giáo Lý là một
phần của việc chăm sóc mục vụ cho các em;
·
việc dùng những sinh hoạt nhóm, nhất
là những hội đoàn trẻ đang hoạt động,
bao gồm việc linh hướng “như một yếu tố
quan trọng” (Số 184).
Sau cùng, những hình thức dạy Giáo Lý cho tuổi trẻ
có thể bao gồm: việc dạy Giáo Lý dự tòng cho các
em chưa rửa tội; dạy Giáo Lý Khai Tâm cho các em
chưa Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu
hay chưa Thêm Sức; dạy Giáo Lý về những đề
tài đặc biệt; dạy Giáo Lý trong phạm vi các buổi
họp giới trẻ. Dù dạy Giáo Lý dưới hình thức
nào đi nữa, thì nó cũng trên hết phải giúp các em lớn
lên trong sự tự do Kitô, huấn luyện lương tâm
ngay thẳng, và một “sự giáo dục về tình
yêu”. Việc dạy
Giáo Lý như thế sẽ nuôi dưỡng sự đáp trả
lại ơn gọi, là một công tác trọng yếu nhất
mà người trẻ phải đối diện, và diễn
tả diện truyền giáo của mỗi ơn gọi.
Không được coi các người
lão thành là những “vật thụ động” nhưng là những
phần tử hoạt động của Hội Thánh với
quyền được học Giáo Lý. Trong việc dạy Giáo
Lý cho họ, phải chú ý đến tình trạng họ có
thể bị “cô lập” hay bị “bỏ ra lề” (Số
186). Trên thực tế, việc dạy Giáo Lý
là phương thế cho người lớn tuổi tránh bị
cô độc và bị bỏ ra lề, và tiếp tục
tham gia tích cực vào đời sống Hội Thánh.
Theo “điều kiện Đức Tin” của người
lão thành, việc dạy Giáo Lý có thể củng cố “một
Đức Tin phong phú và vững chắc” thêm, hay là thời
điễm để canh tân việc sống Đức Tin
giữa những người vì một lý do nào đó đã
trở nên thờ ơ. Đồng thời cũng để
chữa lành những đau buồn mà một số người
già đang mang theo mình và cần phải được hòa
giải.
Cuối cùng, việc học Giáo Lý của
những người lớn tuổi giúp họ lãnh trách nhiệm
là Giáo Lý viên cho trẻ em và giới trẻ là những
người coi họ như những bậc đáng kính. Việc dạy
Giáo Lý cho người lớn tuổi cổ võ việc
“đối thoại giữa các thế hệ” (Số 188).
Sách Chỉ Nam Giáo Lý đưa ra một
số trường hợp đặc biệt mà việc dạy
Giáo Lý cần bén nhậy.
Việc dạy Giáo Lý cho những
người có nhu cầu đặc biệt cần phải
đầy đủ và thích ứng với cá nhân, cùng phải
được giảng dạy bởi các Giáo Lý viên đã
được chuẩn bị đặc biệt (Số
189).
·
Việc dạy Giáo Lý cho những người ngoài lề
xã hội (những người di dân, tản cư, du mục,
đi xa nhà, bệnh hoạn thường xuyên, nghiện ngập
và tù đày) phải được thi hành theo
giáo huấn của Dụ Ngôn Phán Xét Chung (Số 190).
·
Nên dạy Giáo Lý cho những nhóm đặc biệt
(công nhân, chuyên gia, nghệ sĩ, khoa học gia, và sinh viên
đại học), cần phải có những Giáo Lý viên
đã được chuẩn bị cho mục vụ này (Số
191).
·
Các Giáo Lý viên phải lưu tâm đến những môi
trường đặc biệt của học viên, dù là ở
thành thị hay thôn quê (Số 192).
Về phạm vi tôn giáo xã hội, phải
để ý đến những điều sau:
·
Việc dạy Giáo Lý phải đương đầu
với những thách đố gây ra bởi một xã hội
và văn hóa quá thế tục. Đức Tin “cần phải
được nuôi dưỡng và duy trì không ngừng” (Số
193). Dạy Giáo Lý cách hiệu quả nhắc nhở các học
viên tất cả những điều căn bản của
Đức Tin, khuyến khích hoán cải,
và giúp học viên làm chứng về những gì mình tin cho
người khác.
·
Việc dạy Giáo Lý cũng vun xới và đề cao
những mặt tích cực của các việc đạo
đức phổ thông, nhất là việc sùng kính Đức
Mẹ, và để tâm đến việc thanh luyện những
tiêu cực, như “những sai lầm hay quá khích, mê tín, pha
lẫn tôn giáo, hay không biết gì về tôn giáo” (Số
195-196).
·
Việc dạy Giáo Lý cũng phải để ý đến
đại kết, bằng cách trình bày Đức Tin Công
Giáo cách trọn vẹn, để giúp học viên hiễu sự
phân chia đáng buồn giữa các giáo hội Kitô và các cộng
đồng hội thánh, sự liên quan đặc biết của
Đức Tin Công Giáo với Do Thái giáo, và những yếu tố
riêng biệt của các tôn giáo khác (Số 197-200)
·
Việc dạy Giáo Lý phải giúp học viên
đương đầu với các phong trào tôn giáo mới,
mà giáo thuyết và cách sống “không phù hợp với nội
dung của Đức Tin Kitô” (Số 201).
Về phạm vi xã hội văn
hóa, việc dạy Giáo Lý chạm trán với việc hội
nhập văn hóa của Đức Tin. Việc
hội nhập văn hóa đòi hỏi nhận thức sâu
xa về các nền văn hóa khác nhau mà trong đó học
viên đang sống để Tin Mừng đạt
được mục đích tối hậu là biến cải
và nâng cao nền văn hóa ấy. Việc
hội nhập văn hóa chứng tỏ sự siêu việt
của Đức Tin mà không một nền văn hóa nào có
thể hoàn toàn diễn tả được. Nó làm nảy
sinh những cách diễn đạt Đức Tin mới theo sự đa dạng của văn hóa. Trong bất cứ trường hợp nào, vẫn
cần phải luôn duy trì sự vẹn toàn của Đức
Tin (Số 202-205).
Rõ ràng là các phương tiện truyền thông đóng
vai trò thiết yếu trong công tác hội nhập văn hóa
bởi vì khả năng chuyên môn của các phương tiện
này trong việc truyền đạt Tin Mừng (Số 209).
Để đáp lại với những
thách đố của việc hội nhập văn hóa,
Sách Giáo Lý Công Giáo là một công cụ cần thiết và là
tiêu chuẩn (Số 210). Trong một
nền văn hóa như nền văn hóa của chúng ta, mà
trong đó Đức Tin đã được dạy qua nhiều
thế hệ, hội nhập văn hóa có nghĩa là tân Phúc
Âm hóa, một cách dạy Đức Tin “có nhiệt tình, các
phương pháp và các cách diễn tả mới” (ĐTC
Gioan Phaolo II, Tông Huấn “Hội
Thánh ở Mỹ Châu”, ngày 22 tháng 1 năm 1999, số 6).
Các Giám Mục có nhiệm vụ hướng
dẫn các cố gắng hội nhập văn hóa. Các ngài làm thế bằng
cách cổ võ một chương trình dạy Giáo Lý càng sâu rộng
càng tốt để “khắc phục sự thiếu hiểu
biết và tuyên truyền sai lầm, một trở ngại
lớn nhất cho mọi cố gắng hội nhập
văn hóa”; bằng cách có các chương trình hội nhập
văn hóa thử nghiệm dưới sự giám sát cẩn
thận, bằng cách cung cấp các sách chỉ nam Giáo Lý bằng
nhiều ngôn ngữ khác nhau của tín hữu; và bằng
cách cung cấp các việc truyền thông và hiệp thông trong
giáo phận, với các giáo phận khác và với Tòa Thánh, nhờ
đó bảo đảm “một cách hội nhập văn
hóa chắc chắn và cập nhật hóa” (Số 214)
Phần Thứ Năm của Chỉ
Nam Giáo Lý nói đến địa điểm mà việc dạy
Giáo Lý được thi hành, đó là giáo phận hay các
địa hạt tương đương, thi dụ
như quân đội. Giáo Hội địa phương
được Hội Thánh hoàn vũ thành lập và làm cho Hội
Thánh hoàn vũ hiện diện khắp nơi trên thế giới.
Cũng như trong Hội Thánh hoàn vũ, trong Giáo Hội
địa phương, rường cột để xây dựng
đời sống Hội Thánh là giáo huấn của Tin Mừng
và cử hành Thánh Lễ (Số 217).
Việc dạy Giáo Lý là căn bản của đời
sống của Hội Thánh trong giáo phận. Qua việc dạy
Giáo Lý, giáo phận cung ứng cho tín hữu và những
người đang tìm Đức Tin một sự giáo dục
và đào luyện để giúp họ biết Đức
Tin, cử hành và sống Đức Tin trong thế gian (Số
218).
Việc dạy Giáo Lý có một địa vị quan trọng
căn bản trong toàn thể giáo phận. Nó
có những đặc tính sau.
·
Toàn thể cộng đồng Kitô có nhiệm vụ
giúp dạy Giáo Lý. Việc dạy Giáo Lý là tác vụ rõ ràng của
các linh mục, các phó tế, các tu sĩ và giáo dân hiệp
thông với Đức Giám Mục. Sự khác biệt giữa
các ơn gọi của những người phụ trách việc
dạy Giáo Lý làm cho nó thêm phong phú.
·
Việc dạy Giáo Lý là căn bản cho việc phát
triển của Hội Thánh. Nó được thực hiện
nhân danh toàn thể Hội Thánh, chứ không phải là hoạt
động riêng rẽ hay hoàn toàn cá nhân.
·
Việc dạy Giáo Lý có đặc tính riêng được
bắt nguồn từ nhiệm vụ của Giáo Lý viên
như thầy dạy về Đức Tin. Nhiệm vụ
của Giáo Lý viên khác nhiệm vụ của những người
lo các hoạt động phụng vụ, từ thiện
hay xã hội trong Hội Thánh.
Đồng thời, việc dạy Giáo Lý liên quan
đến tất cả các sinh hoạt khác.
·
Các Giáo Lý viên trong giáo phận cần những người
có trách nhiện đào tạo Giáo Lý viên, và xuất bản
các tài liệu Giáo Lý.
Toàn thể cộng đồng Kitô hữu phải chú
tâm theo đuổi việc dạy Giáo Lý
để nó có thể làm tròn nhiệm vụ làm chứng cho
Đức Tin. Chính cộng đồng Tín Hữu đón nhận
người mới lãnh nhận Đức Tin lần đầu
tiên hay Đức Tin đang phát triển. Qua mục vụ dạy
Giáo Lý không những chỉ các học viên được nên
trưởng thành về tâm linh, mà cả cộng đoàn cũng
nên trưởng thành hơn.
Qua Bí Tích Truyền Chức, Giám Mục nhận đặc
sủng chân lý để thi hành một trong những trách vụ
quan trọng nhất của ngài là dạy về Đức
Tin. Cho nên Giám Mục phải vạch ra
đường hướng cho việc dạy Giáo Lý trong
giáo phận của mình. Một số những
trách nhiệm của Giám Mục là.
·
Giám Mục phải chắc chắn là việc dạy
Giáo Lý chiếm một vị thế ưu tiên nhất trong
các việc tông đồ của giáo hội địa
phương.
·
Giám Mục phải can thiệp trực tiếp vào việc
dạy Giáo Lý bằng cách tỏ ra quan tâm, nhất là đảm
bảo sự trung thực của các giáo huấn Đức
Tin và chắc chắn rằng các sách giáo khoa và các
phương tiện dạy Giáo Lý khác phù hợp với
Đức Tin.
·
Giám Mục phải tích cực tổ chức việc
tông đồ dạy Giáo Lý trong Giáo Phận vì đó là
điều thiết yếu nhất của toàn thể
đời sống Giáo Phận.
·
Giám Mục phải chắc chắn rằng các Giáo Lý
viên được đào luyện đúng cách, đặc
biệt là về tín lý và phương pháp sư phạm.
·
Giám Mục phải tổ chức chương trìng Giáo
Lý của giáo phận để đáp ứng mọi nhu cầu
của các giáo xứ (Số 222-223).
Nhờ Bí Tích Truyền Chức, các linh mục là hình dạng
của Đức Kitô, là Đầu của Nhiệm Thể
Người, là Hội Thánh. Thừa tác vụ
của linh mục hình thành cộng đồng, và phối hợp
cùng củng cố các thừa tác vụ khác trong Hội
Thánh. Cho nên, việc tham gia tích cực của
linh mục là điều thiết yếu cho việc tông
đồ Giáo Lý. Một số những
trách nhiệm của linh mục là.
·
Linh mục có nhiệm vụ nuôi dưỡng tinh thần
trách nhiệm chung của cả cộng
đoàn Kitô hữu đối với việc dạy Giáo Lý.
·
Linh mục cung cấp chương trình cơ bản
cho việc dạy Giáo Lý bằng cách tìm người huấn
luyện các Giáo Lý viên và chắc chắn rằng các Giáo Lý
viên được huấn luyện đầy đủ.
·
Linh mục phải tìm kiếm những người
được Chúa gọi làm Giáo Lý viên và khuyến khích họ
lãnh nhận trách nhiệm dạy Giáo Lý.
·
Linh mục phải tháp nhập mục vụ dạy
Giáo Lý với mục vụ sửa soạn lãnh nhận các
Bí Tích và cử hành Phụng Vụ Thánh.
·
Linh mục phải nưôi dưỡng mối dây hợp
nhất bằng cách khuyến khích các Giáo Lý viên đi theo
chương trình mục vụ của giáo phận
Kinh nghiệm đầu tiên của trẻ
em với Hội Thánh được thể hiện trong
tương quan giữa các em và cha mẹ. Không gì có thể
thay thế được việc đào luyện Đức
Tin mà cha mẹ cung ứng ở gia đình. Sự hiểu biết và đời sống Đức
Tin bắt đầu từ gia đình và được
đào sâu qua việc dạy Giáo Lý có hệ thống và đầy
đủ của giáo xứ. Bí Tích Hôn Phối phú cho
cha mẹ ân sủng cần thiết
để giáo dục Kitô giáo cho con cái. Cha mẹ phải
được giúp đỡ để chu toàn nhiệm vụ
đào luyện con cái trong Đức Tin qua việc tiếp
xúc trực tiếp với linh muc và Giáo Lý viên, cùng qua các buổi
hội họp, khóa học và các chương trình Giáo Lý cho
người trưởng thành (Số 226-227).
Các người đã được thánh hiến
đem lại sự phong phú cho mục vụ dạy Giáo Lý
bởi vì nghề nghiệp của họ là các lời khuyên
Phúc Âm hay lời khấn khó nghèo, trong sạch và vâng lời
để theo sát Đức Kitô hơn. Sự đóng góp của
họ vào các công tác dạy Giáo Lý của Hội Thánh không thể
thay thế bằng các linh mục hay giáo dân. Nhiều
dòng tu được thành lập với mục đích
chính là phục vụ việc dạy Giáo Lý, và đã trổi
vượt trong công tác dạy này. Các đặc sủng khác nhau của
các dòng tu được tìm thấy trong các hoạt động
dạy Giáo Lý của các tu sĩ để phong phú hoá đời
sống tâm linh của người học Giáo Lý (Số
228-229).
Các giáo dân cũng đóng góp một phần
đặc biệt vào việc dạy Giáo Lý vì họ
được gọi để sống Tin Mừng trong thế
gian và biến đổi nó trong Đức Chúa Giêsu Kitô.
Các giáo dân có ơn đặc biệt
để giúp học viên áp dụng Đức Tin vào đời
sống hằng ngày. Giáo dân được ơn dạy
Giáo Lý qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức là những Bí
Tích cho họ được thông phần vào sứ vụ
ngôn sứ của Đức Kiô. Thêm vào những nhiệm vụ
chung mà tất cả mọi giáo dân đều
có trong việc dạy Giáo Lý, một số Giáo Dân được
Thiên Chúa gọi để trở thành Giáo Lý viên. Các giáo dân có thể có những mức độ
quyết tâm khác nhau. Một số có thể thỉnh
thoảng mới phục vụ được hay chỉ
phục vụ một thời gian nào đó. Tuy
nhiên vì tầm quan trọng của việc dạy Giáo Lý, cần
phải có một số giáo dân và tu sĩ “được
công nhận và dành trọn thì giờ cho việc dạy Giáo
Lý” (Số 230-231).
Công việc dạy Giáo Lý có nhiều
hình thức khác nhau. Tùy theo nhu cầu của học
viên. Giáo Lý truyền giáo dành cho những người
chưa được dạy về Tin Mừng. Trong nhiều
Hội Thánh đã có truyền thống Kitô giáo lâu đời,
cần phải có chương trình Giáo Lý tương tự
như Giáo Lý truyền giáo bởi vì thiếu linh mục
và những lý do khác. Trong nhiều xứ đã có truyền
thống Kitô giáo, cần phải tân Phúc Âm hoá: Cần
phải dạy Giáo Lý cho người trẻ cũng
như người trưởng thành, cần phải
dạy Giáo Lý cho trẻ em và thiếu niên. Cũng
cần có chương trình Giáo Lý cho tiền – Bí Tích cho
người lớn và đôi khi cho con cái họ để họ
nhận lãnh các Bí Tích. Đồng thời cũng phải
đào luyện các Giáo Lý viên để dạy Giáo Lý cho
người cao niên, cho những người có nhu cầu
đặc biệt, và cho dân di cư hay những người
bị sống ngoài lề xã hội.
Sau cùng, các trường hợp đặc
biệt trong các giáo hội địa phương có thể
cần phải khai triển các hình thức dạy Giáo Lý
khác (Số 232).
Vì sứ vụ căn bản và không thể thay thế
được của Giáo Lý viên trong Hội Thánh, Hội
Thánh chăm lo việc mục vụ cho họ một cách
thích đáng. Trước hết, Hội Thánh
phải khuyến khích các tín hữu dấn thân phục vụ
việc dạy Giáo Lý. Phải tuyển
nhiều loại Giáo Lý viên khác nhau. để
cung cấp những loại dạy Giáo Lý khác nhau.
Thêm vào số nhiều Giáo Lý viên làm việc
bán phần, Hội Thánh cần một số Giáo Lý viên làm
việc toàn phần. Các Giáo Lý viên làm việc toàn phần bỏ
hết tâm lực ra để đào sâu việc phục vụ
môn Giáo Lý, cho nên họ là những nguồn tài nguyên cần
thiết cho các Giáo Lý viên bán phần. Cũng cần phải
quân bình số công việc của các Giáo Lý viên theo nhiều nhu cầu Giáo Lý khác nhau.
Phải cung cấp một chương trình đào luyện
căn bản và một chương trình đào luyện tiếp
tục cho các Giáo Lý viên. Hội Thánh cũng cần
lưu tâm đến các nhu cầu cá nhân và tinh thần của
các Giáo Lý viên. Đặc biệt là trong một nền
văn hóa hoàn toàn thế tục, thừa tác vụ của
các Giáo Lý viên là một phục vụ cam go nhất và đòi
hỏi Giáo Lý viên phải có một sức mạnh nội
tâm sâu xa. Chỉ những Giáo Lý viên nào được cung cấp
phương tiện
canh tân và phát triển tâm linh mới có thể đáp ứng
được những thách đố trong việc dạy
về Đức Tin hôm nay.
Sau cùng, cần phải phối hợp việc phục
vụ của các Giáo Lý viên với toàn bộ chương
trình mục vụ của Giáo Xứ, thí dụ dự bị
hôn nhân với thăng tiến hôn nhân, cử hành Phụng Vụ,
hoạt động cho công lý và hoà bình…(Xem Số 233).
Đương nhiên là chỉ có những Giáo Lý viên “thực
sự có khả năng và được huấn luyện”
mới có thể sử dụng các phương tiện dạy
Giáo Lý các hiệu quả (Số 234). Trong toàn bộ
công cuộc canh tân Giáo Lý, việc đào luyện Giáo Lý viên
phải được đặt lên hàng đầu. Chỉ khi đó, việc xuất bản các sác giáo
khoa mới và soạn thảo lại học trình mới
đem lại kết quả.
Việc đào luyện các Giáo Lý viên giáo dân phải
đi đôi với chương trình đào luyện các linh
mục về dạy Giáo Lý trong chương trình ở chủng
viện trước khi thụ phong và qua các chương
trình huấn luyện tiếp tục sau khi thụ phong (Số
234)
Mục đích rõ ràng của việc đào luyện các
Giáo Lý viên là “giúp các Giáo Lý viên có khả năng truyền
thông” chân lý Đức Tin (Số 235a). Nếu
một Giáo Lý viên có thể truyền thông Tin Mừng, người
ấy phải biết và yêu mến Đức Chúa Giêsu Kitô
cách sâu xa. Sau đó người ấy có thể
đưa ra một hành trình Giáo Lý cần thiết cho học
viên Giáo Lý: Đức Chúa Giêsu Kitô; Cuộc đời của
Người trong toàn thể lịch sử Cứu Độ;
mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người vì chúng ta; và sự
hiệp thông của người học Giáo Lý với Đức
Kitô qua việc lãnh nhận các Bí Tích.
Giáo Lý viên nhân danh toàn thể Hội
Thánh mà thông truyền Tin Mừng, cho nên người ấy
phải luôn suy nghĩ và hành động với Hội
Thánh. Chống đối không có chỗ đứng nào
trong việc dạy Giáo Lý (Xem Số 235b).
Sau đây là những tiêu chuẩn cho việc
đào luyện Giáo Lý viên.
·
Việc đào luyện theo nhu cầu
Phúc Âm hóa trong hoàn cảnh văn hóa và lịch sử thật
sự. Điều này đòi hỏi một Đức Tin
sâu xa, một đặc tính Kitô và Hội Thánh rõ rệt, và
một sự nhạy cảm về xã hội.
·
Việc đào luyện theo khái niệm dạy Giáo Lý và
đào luyện cá nhân Kitô hữu, nghĩa là giúp các Giáo Lý
viên không những chỉ truyền thụ giáo huấn mà còn
truyền thụ cả một Đức Tin sống động.
·
Việc đào luyện phải tránh “các khuynh hướng
xé lẻ một chiều” bằng cách cung cấp một
Giáo Lý toàn vẹn. Giáo Lý viên phải biết nối kết
các chiều kích của chân lý và ý nghĩa của Đức
Tin, chính tín và chính đạo, ý nghĩa Hội
Thánh và xã hội. Việc đào luyện phải góp phần
vào việc thăng tiến các yếu tố trên thay vì tạo
ra căng thẳng giữa chúng.
·
Việc đào luyện phải thích hợp với hoàn
cảnh sống của giáo dân, “việc huấn luyện về
tông đồ của họ đòi hỏi một đặc
tính chính xác bắt nguồn từ bản tính thế tục
của tình trạng giáo dân và từ loại linh đạo
thích hợp”
·
Sau cùng, phương pháp sư phạm dùng trong việc
đào tạo Giáo Lý viên rất quan trọng. Như một
tiêu chuẩn tổng quát, cần phải nhấn mạnh
đến sự kết hợp giữa phương pháp
sư phạm dùng trong việc đào luyện Giáo Lý viên với
phương pháp sư phạm dùng để dạy Giáo Lý.
Khó lòng mà một Giáo Lý viên có thể ứng biến về
cách thức hay cảm thức trong các hoạt động của
họ về những gì mà họ không được học
trong khi họ được đào luyện.
Việc đào luyện Giáo Lý viên có nhiều
chiều kích. Chiều kích thâm sâu nhất là con người Giáo Lý
viên, là chiều kích nhân loại và Kitô của họ. Trên hết mọi sự, việc đào luyện
phải giúp họ trưởng thành như một người,
một tín hữu và một tông đồ. Đây cũng là điều mà Giáo Lý viên cần biết
để làm tròn bổn phận của mình. Chiều kích
này cần phải thấm nhuần bẳng việc gia
tăng quyết tâm của người ấy với sứ
điệp và với con người. Nó
đòi hỏi Giáo Lý viên phải có đủ kiến thức
về sứ điệp mà mình truyền lại, về những
người mà họ sẽ truyền sứ điệp cho
và hoàn cảnh xã hội mà họ đang sống. Sau đó là chiều kích khôn khéo, nghĩa là biết
cách truyền thông sứ điệp. Việc
đào luyện Giáo Lý viên làm cho họ trở thành “nhà giáo của
con người và đời sống con người.
Trên nền tảng việc bắt đầu trưởng
thành của con người,
trong khi dạy Giáo Lý, nhờ việc chọn lựa
và định giá liên tục, cho phép Giáo Lý viên lớn lên lớn
lên trong các nhân đức cần thiết để dạy
Giáo Lý. Điều này bao gồm lòng yêu thương những
người học Giáo Lý, một sự quân bình và một
cái nhìn phán đoán, sự liêm chính, khả năng liên kết,
để khuyến khích đối
thoại, để có một tinh thần xây dựng, và biết
sinh hoạt nhóm. Nó sẽ giúp họ lớn lên
trong việc kính trọng và yêu thương học viên.
Việc đào luyện Giáo Lý viên cũng giúp cho Giáo Lý viên lớn
lên như một tín hữu, nuôi dưỡng đời sống
tâm linh của họ, để họ hoạt đông trong
chân lý qua chính đời sống nhân chứng của họ.
Việc đào luyện luôn nuôi dưỡng ý thức tông đồ của
Giáo Lý viên, nghĩa là ý thức rằng mình là một người
rao giảng Tin Mừng. Phương thức tốt nhất
để nuôi ý thức này là đồng hóa với Đức
Kitô, là thầy và Người đào luyện các môn đệ
bằng cách tìm kiếm và đạt được lòng nhiệt
thành như Chúa Giêsu đã nhiệt thành đối với
Nước Trời. Bắt đầu từ
việc dạy Giáo Lý, ơn gọi tông đồ Giáo Lý
được nuôi dưỡng bằng việc tiếp tục
đào luyện, sẽ tiến đến trưởng
thành.
Ngoài việc làm nhân chứng, một
Giáo Lý viên cũng là môt thầy dạy về Đức Tin. Việc
đào luyện về tín lý cần phải bao gồm những
yếu tố sau.
·
Ba thời đại quan trọng của lịch sử
Cứu Độ: Cựu Ứớc, cuộc đời
Đức Kitô, và lịch sử Hội Thánh.
·
Trọng tâm của sứ điệp Kitô: Kinh Tin Kính,
Phung Vụ, đời sống luân lý và cầu nguyện.
Thánh Kinh là trung tâm của việc đào luyện Giáo Lý
viên, và Sách Giáo Lý Công
Giáo vẫn là điểm quy chiếu chính yếu của Giáo Lý viên (Số 240).
Một hiểu biết tường tận về con
người qua việc học tâm lý và các khoa học xã hội
khác sẽ giúp Giáo Lý viên thông truyền Đức Tin và việc
thực hành Đức Tin cách hiệu nghiệm hơn. Cũng thế một hiểu biết sâu rộng
về giáo dục và truyền thông sẽ rất hữu ích.
Phải tôn trọng phương pháp của khoa học nhân
văn, những quan niệm triết học làm nền tảng
cho chúng phải được làm sáng tỏ để chắc
chắn rằng chúng phù hợp với sứ điệp
Tin Mừng và sự truyền thông sứ điệp
này. Mục
đích chính của việc dạy khoa học nhân văn là
để biết thích hợp chúng vào việc truyền
thông Tin Mừng.
Giáo Lý viên cần phải phát huy khả
năng truyền thụ Đức Tin. Ở đây, Giáo Lý viên
phải ý thức rằng sứ vụ của mình là vun trồng
Đức Tin, một hồng ân mà Thiên Chúa ban cho người
học Giáo Lý. Phương pháp sư phạm
Giáo Lý chú tâm đến cá nhân và được xắp đặt
để trình bày sứ điệp Tin Mừng một cách
thích đáng cho người học Giáo Lý.
Sau cùng, cần phải có những trường và trung
tâm cao đẳng Giáo Lý để cung cấp việc
đào luyện Giáo Lý viên, cho cả những người dạy
Giáo Lý lẫn những người có trách nhiệm về
Giáo Lý, như các linh mục, tu sĩ, và các trưởng ban
cũng như phối hợp viên Giáo Lý. Các trường cũng
như trung tâm này sẽ được độc quyền
dùng để đào luyện Giáo Lý viên, cung cấp một
cách trình bày và thực hành Đức Tin có hệ thống và
đầy đủ, đồng thời cũng cung cấp
sự đào tạo thích hợp về khoa học nhân
văn và sư phạm.
Giáo Lý được dạy ở trong
cộng đồng Kitô hữu mà Đức Kitô lập ra
qua sự Thương Khó, sự Chết và Phục Sinh của
Người. Cộng đồng Kitô hữu được thể
hiện trong Hội Thánh hoàn vũ, trong Hội Thánh địa
phương hay Giáo Phận, và trong những cộng đoàn
Kitô hữu khác nhau và trung cấp là gia đình, giáo xứ,
trường Công Giáo, các hội đoàn tín hữu và các phong
trào của Hội Thánh, và các cộng đồng Hội
Thánh căn bản. Việc dạy Giáo Lý tiên
khởi và tiếp tục được tổ chức ở
tất cả các nơi này (Số 253).
Cộng đồng Kitô hữu dưới
hình thức hoàn vũ cũng như riêng biệt không những
chỉ là các lớp Giáo Lý được tổ chức, mà
còn là nguồn gốc và mục tiêu của Giáo Lý.
Nói cách khác, đầu tiên Tin Mừng được
rao giảng trong cộng đồng Kitô giáo, lôi kéo chúng ta
đến để nhận biết và theo
Đức Kitô cách trọn vẹn hơn. Đồng thời,
sự hiểu biết thâm sâu hơn về Đức Tin và
việc sống Đức Tin đưa chúng ta đến
việc tham gia cách đầy đủ hơn vào cuộc sống
của cộng đoàn Kitô hữu.
Hội Thánh không ngừng nhắc nhở rằng cha mẹ
“là các nhà giáo dục Đức Tin chính yếu”. Chính trong gia đình mà Tin Mừng được
công bố đầu tiên, được suy niệm và
đem ra thực hành. Gia đình là “Hội Thánh tại
gia”, vì chúng ta tìm thấy trong gia đình những yếu tố
căn bản của đời sống Hội Thánh: truyền
giáo, dạy Giáo Lý, cầu nguyện và làm nhân chứng. Gia
đình là nơi đặc biệt để dạy Giáo Lý
vì nền tảng nhân sinh sâu xa của nó: “nhận thức về
Thiên Chúa; bước đầu cầu nguyện; gíao dục
lương tâm về luân lý; đào luyện ý thức Kitô về
tình yêu thương nhân loại, được hiểu
như phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa Cha, Đấng
Tạo Hóa (Số 255)>
Trong lớp Giáo Lý Tân Tòng, những
người chưa được rửa tội nhưng
đã chấp nhận và sửa soạn lãnh nhận bằng
cả tâm hồn và hết trí khôn để Tuyên Xưng
Đức Tin. Cho nên các lớp Giáo Lý Tân Tòng phải cung
ứng một cách trình bày đầy đủ và mạch lạc
Giáo Lý về Đức Tin và luân lý. Hội
Thánh ấp ủ những người dự tòng và chăm
sóc cho họ như họ đã là thành phần của Hội
Thánh. Nghi Thức Khai Tâm Kitô Giáo cho Người
Trưởng Thành diễn tả một ít phương thế
quan trọng mà trong đó cộng đồng Kitô hữu
tham gia vào tiến trình đang xảy ra trong lớp Giáo Lý
Tân Tòng (Số 256).
Giáo xứ là nơi quan trọng nhất
mà ở đó cộng đồng Kitô hữu được
thành hình.
Trong giáo xứ, “tất cả mọi khác biệt giữa
con người tan biến đi và được tan biến
vào tính phổ quát của Hội Thánh.” Giáo xứ
thường là nơi nuôi dưỡng sự tiến triển
của Đức Tin của chúng ta. Để gíúp giáo
xứ chu toàn nhiệm vụ dạy Giáo
Lý của mình, sách Chỉ Nam Giáo Lý đưa ra những
điều kiện phải được chu toàn:
1)
Phải đặt ưu tiên vào việc dạy Giáo Lý
cho người trưởng thành qua Giáo Lý Tân Tòng và Giáo Lý hậu
rửa tội;
2)
Phải rao giảng Đức Tin cho những người
đã bỏ đời sống Đức Tin hay nguội lạnh,
nhất là trong phạm vi các buổi họp dự bị
Hôn Nhân, Rửa Tội và Xưng Tội Rước Lễ Lần
Đầu, và Thêm Sức;
3)
Một số lưu tâm đến vấn đề mục
vụ liên quan đến việc dạy Giáo Lý được
trao phó cho những Tín Hữu trưởng thành;
4)
Phải tổ chức dạy Giáo Lý cho trẻ em, thiếu
niên và giới trẻ, được nuôi dưỡng bởi
việc dạy Giáo Lý cho người trưởng thành.
Trường Công Giáo là nơi quan trọng nhất cho
việc dạy Giáo Lý trong cộng đồng nhà trường
là ban giám hiệu, thầy cô, nhân viên, các người thiên
nguyện, các linh mục trong giáo xứ, phụ huynh và con
cái họ. Việc dạy Giáo Lý không những
cố gắng dạy về Đức Tin cách toàn vẹn,
mà còn cử hành Đức Tin qua các Bí Tích và cầu nguyện,
cùng cố gắng đem Đức Tin ra thực hành.
Trong trường Công Giáo, có thể dạy về Đức
Tin dưới nhiều hình thức khác nhau, như rao giảng
Đức Tin lần đàu, các lớp về tôn giáo, Giáo Lý
và bài giảng. Quan trọng nhất là những
bài học về tôn giáo và Giáo Lý. Trong khi các trường
Công Giáo đóng góp một phần căn bản cho toàn thể
cộng đồng bằng cách đào luyện các học
sinh về văn hóa và trí thức, nhưng sự đóng góp
quan trọng nhất là về công tác Phúc Âm hóa của Hội
Thánh (Số 259-260).
Mục đích của các đoàn thể
giáo dân và các phong trào trong Hội Thánh là để giúp càc
đoàn viên phát huy sự hiểu biết và sống đạo
trong nhiều phương diện khác nhau. Các đoàn thể này
thường nỗ tâm làm việc bác ái, vun trồng sự
hiện diện của Kitô hữu trong những cố gắng
trần thế, cổ võ đời sống đạo
đức, và phát triển đời sống tâm linh tùy theo
ơn gọi của mình. Đương nhiên
là các hoạt động của họ đòi hỏi một
ít học hỏi Giáo Lý hay canh tân việc học hỏi Giáo
Lý giữa các hội viên. Việc học hỏi Giáo Lý
này, thường được đặt nền tảng
trên các bài Giáo Lý căn bản dành cho các phần tử của
Hội Thánh, thật là có hiệu quả cho cá nhân và cho cộng
đồng Kitô hữu nói chung. Có ba phương diện của
việc học hỏi Giáo Lý trong các đoàn thể và phong
trào giáo dân cần phải được nhấn mạnh
là:
1)
Cần phải chú ý đền sự phong phú của
môn Giáo Lý nói chung về ba phương diện tín lý, phụng
tự và làm nhân chứng;
2)
Việc học hỏi Giáo Lý trong các hội đoàn hay
phong trào phải được coi như là một sự
phát triển tự nhiên của việc đào luyện mà tất
cả các phần tử của Hội Thánh nhận
được;
3)
Các đoàn thể hay phong trào này không thay thế cho giáo
xứ trong việc dạy Giáo Lý (Số 261-262).
Các phần tử của Hội Thánh thành lập các cộng
đoàn Hội Thánh căn bản để sống Đức
Tin Công Giáo cách mãnh liệt hơn và cảm nghiệm đời
sống Hội Thánh một cách mật thiết hơn là có
thể tìm thấy được trong một giáo xừ lớn.
Trong các cộng đoàn Hội Thánh căn bản, Lời
Chúa được công bố, tình huynh đệ được
phát triển, và mầu nhiệm Kitô giáo được cử
hành và các hội viên lãnh nhận trách nhiệm biến đổi
xã hội. Các cộng đoàn Hội Thánh cũng cổ võ những
đặc điểm khác của con người và nhân
đức: “tình bằng hữu, công nhận cá nhân, tinh thần
trách nhiệm chung, óc sáng tạo, đáp
trả ơn gọi, chú tâm đến các vấn đề
của thế giới và Hội Thánh” (Số 263). Để
thực sự là một cộng đoàn Hội Thánh căn
bản, cộng đoàn này phải sinh hoạt trong sự
hiệp thông với Hội Thánh hoàn vũ và Hội Thánh
địa phương, hay giáo phận, cùng hoàn toàn chia sẻ
tính chất truyền giáo của Hội Thánh, tránh “cô lập
hay lạm dụng về ý tưởng” (Số 263-264).
Hội Thánh hoàn vũ được biểu hiện
trong các vùng theo địa dư gọi
là giáo phận, trong một số trường hợp, các
lãnh thổ giống như giáo phận. Mỗi
biểu hiện này được gọi là Hội Thánh
địa phương. Biểu hiện
thông thường nhất là giáo phận. Việc tổ chức Giáo Lý trong Hội Thánh địa
phương rất cần thiết nếu nó biểu hiện
thật sự Hội Thánh hoàn vũ. Trong Giáo Phận,
Đức Giám Mục là thủ lãnh của cộng đồng
tín hữu và là thầy dạy Đức Tin chính cho họ. Ngài chịu trách nhiệm
về thừa tác vụ dạy Giáo Lý. Ngài chu toàn bổn
phận của mình qua văn phòng Giáo Lý giáo phận (Số
265).
Các nhiệm vụ chính của văn phòng Giáo Lý giáo phận
là:
·
Điều nghiên tình trạng dạy Giáo Lý trong giáo phận,
và nhận ra những nhu cầu của việc dạy Giáo
Lý;
·
Soạn thảo một chương trình để
đáp ứng lại những nhu cầu này;
·
Cổ võ việc đào luyện Giáo Lý viên;
·
Cung cấp các tài liệu và dụng cụ cần thiết
cho việc dạy Giáo Lý (Sách Giáo Lý, sách chỉ nam, các
chương trình cho các lứa tuổi khác nhau, cẩm nang
Giáo Lý viên, tài liệu cho học viên, học cụ thính thị,
v.v…) cho các giáo xứ;
·
Khuyến khích các công tác của giáo phận có liên quan
đến Giáo Lý nhất là cho người dự tòng, và cho
các nhóm hay đoàn thể và các Giáo Lý viên trong các giáo xứ;
·
Cải tiến nhân lực cũng như tài nguyên của
Giáo Phận trong việc dạy Giáo Lý;
·
Cộng tác với Văn Phòng Phụng Vụ Thánh của
Giáo Phận vì sự liên hệ mật thiết giữa Phụng
Vụ Thánh và Giáo Lý (Số 266)
Để làm tròn các nhiệm vụ quan
trọng được trao phó, văn phòng Giáo Lý giáo phận
phải có đầy đủ nhân viên (Số 267).
Khi hai hay nhiều giáo phận trong cùng một địa
dư và có dân chúng tương tự nhau, có thể thăng
tiến tác vụ dạy Giáo Lý bằng cách cùng chia sẻ
nhân lực và tài nguyên. Nhiều việc tốt có thể hoàn thành khi nhân
viên của nhiều văn phòng Giáo Lý họp lại để
chia sẻ kinh nghiệm trong việc thi hành sứ vụ
Giáo Lý (Số 268).
Hội Đồng Giám Mục cũng
có thể thành lập văn phòng Giáo Lý để giúp các giáo
phận.
Thí dụ, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ có một
văn phòng giám sát việc dùng Sách Giáo Lý Công Giáo. Văn phòng này thật hữu dụng trong việc
tìm ra những yếu điểm trong việc dạy Giáo
Lý, trong việc nghiên cứu các sách giáo khoa và các tài liệu
phụ thêm khác nhau xem chúng có phù hợp với Sách Giáo Lý Công
Giáo hay không. Tổng quát, văn phòng Giáo Lý của Hội
Đồng Giám Mục có hai nhiệm vụ:
·
Đáp ứng các nhu cầu dạy Giáo Lý của các giáo
phận bằng các giám sát việc xuất hành những tài
liệu quan trọng trên toàn quốc, các đại hội
Giáo Lý, và liên hệ với các phương tiện truyền
thông;
·
Đáp ứng các nhu cầu dạy Giáo Lý của các giáo
phận bằng cách cung cấp và phân phối các tài liệu
về các chương trình Giáo Lý với mục đích giúp
đỡ các giáo phận thiếu phương tiện.
Hội Đồng Giám Mục cũng
có thể lãnh thêm các trách nhiệm khác về Giáo Lý, nhưng
luôn luôn là để phục vụ các Giáo Phận.
Đức Thánh Cha với vai trò là Giám Mục của Hội
Thánh hoàn vũ, có nhiệm vụ căn bản là dạy
Giáo Lý. Ngài chu toàn bổn phận này bằng
việc giảng dạy. Đức Thánh Cha trả
lời các câu hỏi và thắc mắc đặc biết về
Giáo Lý qua Thánh Bộ Giáo Sĩ, một trong nhiều văn
phòng giúp Đức Thánh Cha trong việc mục vụ của
ngài.
Nhiệm vụ về Giáo Lý mà Đức Thánh Cha trao
phó cho Thánh Bộ Giáo Sĩ là:
·
Cổ võ việc giáo dục về tôn giáo cho các tín hữu
thuộc mọi lứa tuổi và điều kiện sống;
·
Đề ra các tiêu chuẩn cho các bài học Giáo Lý
để chúng được dạy theo đúng
chương trình;
·
Giám sát các cách dạy Giáo Lý xem có thích hợp không;
·
phê chuẩn các sách Giáo Lý và các ấn bản
liên quan đến việc dạ Giáo Lý với sự
ưng thuận của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin.
·
Sẵn sàng giúp đỡ các văn phòng Giáo Lý và các sáng
kiến quốc tế về giáo dục tôn giáo, mà Thánh Bộ
Giáo Sĩ phối hợp các hoạt động, và nếu
cần thì giúp đỡ
Nếu sự hợp nhất về
Đức Tin được truyền đạt qua môn
Giáo Lý, thì sự phối hợp về việc dạy Giáo
Lý trong Hội Thánh thật là cần thiết. Khi việc dạy Giáo Lý
được phối hợp một cách hữu hiệu,
sự hợp nhất của Hội Thánh địa
phương với Hội Thánh hoàn vũ được bảo
đảm và phổ biến cho mọi người.
Trên bình diện giáo phận hay Hội Thánh địa
phương, cần phải phối hợp hai việc:
1)
“Một tiến tình duy nhất, mạch lạc cho Giáo
Lý Khai Tâm cho trẻ em, thiếu niên và thanh niên,”
2)
“một chương trình Giáo Lý cho
người lớn” (Số 274).
Hai chương trình này phải
được tổ chức một cách phối hợp với
nhau trong cách trình bày Đức Tin trong khắp giáo phận. Nếu chương trình
Giáo Lý cho người lớn được tổ chức
kỹ càng, nó sẽ là chìa khóa và hướng đi cho việc
tổ chức Giáo Lý cho trẻ em, thiếu niên và thanh niên (Số
275).
Tổ chức Giáo Lý giáo phận là chià khóa để thực
thi công tác Tân Phúc Âm hóa cho những người đã
được rửa tội và đã lãnh nhận các Bí Tích
Khai Tâm (Rửa Tội, Thâm Sức và Rước Lễ Lần
Đầu). Điều
quan trọng cần nhắc nhở là khi dạy Giáo Lý cho
người trưởng thành, thí dụ như để sửa
soạn cho con cái họ chịu các Phép Bí Tích, thì cũng cần
lưu tâm đến nhu cầu cần có một cách dạy
Đức Tin lần đầu mới (Tân Phúc Âm hoá).
Việc dạy Giáo Lý truyền giáo cho những người
chưa phải là phần tử của Hội Thánh và việc
tân Phúc Âm hóa cho các phần tử Hội Thánh phải
được phối hợp với nhau qua một
chương trình Phúc Âm Hóa duy nhất (Số 276-277).
Trong việc dạy Giáo Lý qua các chương trình giáo dục
của giáo xứ, của giáo hạt hay của giáo phận,
điều quan trọng là tất cả các tiêu chuẩn về
dạy Giáo Lý đều phải được thống nhất
theo sự hiệp nhất về Đức Tin và thực
hành (Số 278).
Ở cấp giáo phận, điều
chính yếu là văn phòng Giáo Lý phải biết rõ các nhu cầu
của việc dạy Giáo Lý trong giáo phận một cách cụ
thể và phải được cập nhật hóa thường
xuyên. Sách Cẩm
Nang Giáo Lý vạch ra rằng, phải ý thức rõ ràng về:
1)
việc dạy Giáo Lý đóng vai trò gì trong tiến trình
Phúc Âm hóa;
2)
sự quân bằng giữa các phạm vi Giáo Lý khác nhau
(trẻ em, thiếu niên, thanh niên, người trưởng
thành, và lão thành);
3)
phối hợp việc dạy Giáo Lý với giáo dục
Kitô giáo trong gia đình, ở nhà trường và ở những
nơi khác;
4)
nội dung và phương pháp Giáo Lý sử dụng;
5)
các đặc tính của Giáo Lý viên và việc
đào luyện họ.
Để chu toàn bổn phận, văn phòng Giáo Lý giáo
phận phải biết tình trạng sống đạo của
giáo dân trong giáo phận, và cũng phải hiểu hoàn cảnh
xã hội và văn hóa của họ (Số 281-283).
Sau cùng, Sách Chỉ Nam Giáo Lý nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc soạn thảo các sách
Giáo Lý, là một học cụ quan trọng nhất để
thi hành công tác dạy Giáo Lý. Hiện nay, đang có thảo luận
về việc soạn sách Giáo Lý khắp các Hội Đồng
Giám Mục. Như đã đề cập ở trên, hai tài
liệu phải được tham khảo trong việc soạn
các sách Giáo Lý địa phương là Sách Giáo Lý Công Giáo về nội dung và Sách Nam Giáo Lý về
phương pháp. Để bảo toàn sự thống nhất
về Đức Tin, các sách Giáo Lý địa
phương cần được Tòa Thánh phê chuẩn
trước khi ấn hành (Số 284-285).
Đáp ứng lại những thách đố của việc
dạy Giáo Lý là điều căn bản cho sự kiên vững
của đời sống Đức Tin của Hội
Thánh. Các thách đố mà các văn phòng Giáo Lý
của giáo phận, của giáo hạt và giáo xứ, các linh
mục và Giáo Lý viên gặp phải hằng ngày. Chúng ta hãy nhân danh Hội
Thánh mà cầu xin cùng Chúa Ba Ngôi.
“Hội Thánh, là cơ quan có nhiệm vụ dạy Giáo
Lý cho mọi tín hữu, khẩn cầu Thần Khí của
Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, xin Ngài ban sức mạnh
nội tâm và kết quả cho sự khó nhọc để
vun trồng Đức Tin và sự kết hợp với
Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Số 290).
Hơn bao giờ hết, những
người làm trong vườn Giáo Lý, phải quay về
phiá Đức Mẹ, xin Mẹ cầu bầu. Họ sẽ tìm thấy
nơi Mẹ một mẫu gương tinh thần trong việc
thực thi và củng cố việc canh tân Giáo Lý hôm nay trong
Đức Tin, Cậy, Mến. Chính qua sự chuyển cầu
của “Đức Nữ Trinh Ngũ Tuần” mà một sức
mạnh mới được phát sinh trong Hội Thánh, sinh
ra các con cái trong Đức Tin, và giáo dục chúng trở nên
giống như Đức Kitô (số 291).
Mùa
Chay 2007
GLV
Phaolô Phạm xuân Khôi