50 (36 1066) Nhờ lư trí tự nhiên, con
người có thể nhận biết Thiên Chúa một cách
chắc chắn, dựa vào những công tŕnh của Người.
Nhưng c̣n có một loại nhận biết khác, mà con
người không thể đạt tới bằng sức
lực của chính ḿnh, đó là loại nhận biết nhờ
mặc khải của Thiên Chúa (x. Cđ Vat I: DS 3015). Bằng
một quyết định hoàn toàn tự do,
Thiên Chúa tự mặc khải và ban chính ḿnh cho con người.
Thiên Chúa làm điều đó bằng cách mặc
khải mầu nhiệm của Người, ư định
yêu thương Người đă có từ muôn thuở trong
Đức Ki-tô, để mưu ích cho mọi người.
Thiên Chúa mặc khải trọn vẹn ư định
của Người khi cử Người Con chí ái là Đức
Ki-tô, Chúa chúng ta, và khi cử Thánh Thần đến với
loài người.
I. THIÊN
CHÚA MẶC KHẢI "Ư ĐỊNH YÊU THƯƠNG"
51 (2823, 1996)
"Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đă muốn mặc khải
chính ḿnh và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm
thánh ư Người. Nhờ đó, loài người có thể
đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Ki-tô, Ngôi Lời nhập
thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần
bản tính của Thiên Chúa" (DV 2).
52 Thiên Chúa, Đấng "ngự trong
ánh sáng siêu phàm" (1Tm 6, 16), muốn thông ban sự sống
thần linh của chính ḿnh cho loài người mà Người
đă tự do sáng tạo, để làm cho loài người
được trở nên nghĩa tử trong Con Một của
Người (Ep 1, 4-5). Bằng cách tự mặc khải
chính ḿnh, Thiên Chúa muốn giúp cho loài người có khả
năng đáp lời Người, nhận biết và yêu mến
Người vượt trên những ǵ họ có thể làm
được tự sức ḿnh.
53 (1953, 1950) Ư định mặc khải
được thể hiện cùng một trật qua
"hành động và lời nói, cả hai liên kết chặt
chẽ và soi sáng cho nhau"(DV 2). Ư định đó hàm chứa
"một đường lối sư phạm thần
linh" đặc biệt của Thiên Chúa :
Thiên Chúa thông ban chính ḿnh cho con người một cách tiệm
tiến, chuẩn bị từng giai đoạn để
con người đón nhận mặc khải siêu nhiên về
chính bản thân Người. Mặc khải này sẽ đạt
tới tột đỉnh nơi con người và sứ mạng
của Lời nhập thể là Đức Giê-su Ki-tô.
Thánh I-rê-nê thành Ly-on nhiều lần
nói về đường lối sư phạm của Thiên
Chúa dưới h́nh ảnh Thiên Chúa và con người làm quen
nhau : "Ngôi Lời của Thiên Chúa đă ở giữa
loài người và trở thành con của loài người,
để con người quen đón nhận Thiên Chúa, và
để Thiên Chúa quen ở giữa loài người, theo ư
định tốt đẹp của Chúa Cha" (Chống
lạc giáo 3, 20, 2; xem thí dụ ở phần chống lạc
giáo 3, 17, 1; 4, 12, 4; 4, 21, 3).
II. CÁC
GIAI ĐOẠN MẶC KHẢI
Từ thuở ban đầu, Thiên
Chúa tự mặc khải cho con người
54 (32, 374) "Thiên Chúa, Đấng sáng tạovà
bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời, không ngừng
làm chứng về Ḿnh trước mặt loài người
qua các thụ tạo. Và v́ muốn mở
đường cứu độ cao trọng nên từ
đầu Người c̣n tỏ Ḿnh ra cho tổ tông chúng
ta". Người đă mời các nguyên tổ sống
kết hợp mật thiết với Ḿnh, khi ban cho họ ân sủng và đức công chính rạng ngời"
(DV 3).
55 (397, 410) Tội của
nguyên tổ không làm gián đoạn mặc khải. Quả vậy, " sau khi tổ tông sa ngă, qua lời hứa
ban ơn cứu chuộc, Người đă nâng họ dậy
trong niềm hy vọng ơn cứu độ. Người
không ngừng săn sóc nhân loại, để ban sự sống
đời đời cho tất cả những ai t́m kiếm
ơn cứu độ nhờ kiên tâm làm việc thiện"
( DV 3).
(761) Tuy con người đă mất
t́nh nghĩa với Cha v́ tội bất phục tùng, Cha cũng
không đành bỏ mặc cho sự chết thống trị ... . Nhiều lần Cha
đă giao ước với loài người (MR, Kinh Tạ
Ơn IV, 118).
Giao ước
với ông Nô-ê
56 (01,1219) Khi tội
lỗi phá vỡ sự thống nhất của nhân loại,
Thiên Chúa t́m cách cứu họ qua từng nhóm người.
Giao ước với ông Nô-ê sau lụt hồng thủy (St
9, 9) nói lên nguyên tắc, qua đó Thiên Chúa thực hiện
Nhiệm Cục cứu độ các "dân tộc", tức
là những con người tập hợp lại theo xứ
sơ<150) của họ, "mỗi người tùy theo
tiếng nói và tùy theo thị tộc của họ"(St 10,
5; 10, 20-31).
57 Trật tự gồm nhiều
dân tộc ( x. Cv 17, 26-27) vừa có tính vũ trụ, vừa
có tính xă hội và tôn giáo này được Thiên Chúa thiết
đặt để ngăn chặn ḷng kiêu căng của
nhân loại đă sa ngă nhưng vẫn đồng lơa với
nhau trong sự đồi bại ( x. St 10, 5) để
mưu cầu sự hiệp nhất như chuyện tháp
Ba-ben ( x. St 11, 4-6). Nhưng v́ tội lỗi (
x. Rm 1, 18-25) làm con người mê muội, nên thuyết
đa thần cũng như tệ sùng bái, dân tộc và thủ
lănh luôn đe dọa nhiệm cục tạm thời này bằng
sự lệch lạc ngoại giáo.
58 (674, 2569) Giao ước với ông
Nô-ê có giá trị suốt thời của các dân tộc ( x. Lc 21, 24), cho tới khi Tin Mừng
được loan báo khắp thế giới. Thánh Kinh tôn
kính một vài gương mặt vĩ nhân của các
"dân tộc", như ông "A-ben người công
chính", vị vua tư tế Men-ki-xê-đê ( x. St 14, 18)
được xem như h́nh bóng Đức Ki-tô ( x. Dt 7, 3), hoặc
các người công chính "Nô-ê, Đa-nen và Gióp" (Êd 14, 14).
Như vậy, Thánh Kinh nói lên mức độ thánh thiện
cao vời mà những người sống dưới chế
độ giao ước Nô-ê đă có thể đạt tới,
trong khi đợi chờ Đức Ki-tô "qui tụ con cái
Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối"
(Ga 11, 52).
Thiên Chúa
tuyển chọn ông Áp-ra-ham
59 (145, 2570) Để qui tụ loài
người đă bị tản mác, Thiên Chúa tuyển chọn
ông Áp-ram bằng cách kêu gọi ông "rời bỏ xứ
sở, họ hàng và nhà cha của ông" ( St 12, 1), để
làm cho ông trở nên "Áp-ra-ham", tức là "cha của
vô số dân tộc" (St 17, 5) : "nhờ ngươi,
muôn dân sẽ được chúc phúc" (St 12, 3 LXX) ( x. Gl
3. 8).
60 (760 762, 781) Dân tộc
phát sinh từ Áp-ra-ham sẽ lănh nhận lời Thiên Chúa
đă hứa với các tổ phụ. Đây là dân tuyển
chọn ( x. Rm 11, 28), được gọi
để chuẩn bị cho cuộc qui tụ con cái Thiên
Chúa một ngày nào đó trong Hội Thánh duy nhất ( x. Ga
11, 52; 10, 16); dân này sẽ là gốc rễ mà các dân ngoại
khi tin vào Thiên Chúa sẽ được tháp vào ( x. Rm 11,
17-18. 24).
61 Các tổ phụ,
các ngôn sứ và những nhân vật khác nữa của Cựu
Ước đă và sẽ luôn được tôn kính như
những thánh nhân trong tất cả các truyền thống phụng
vụ của Hội Thánh.
Thiên Chúa huấn luyện dân Ít-ra-en
62
(060, 2574 1961) Sau thời các tổ
phụ, Thiên Chúa lập Ít-ra-en làm dân của Người khi
giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Người
kư kết Giao Ước Xi-nai với dân và ban cho họ lề
luật qua ông Mô-sê, để họ nh́n nhận và phụng
sự Người như vị Thiên Chúa duy nhất hằng
sống và chân thật, người Cha quan pḥng và vị Thẩm
Phán công minh, và để họ mong đợi Vị Cứu
Tinh đă được Thiên Chúa hứa (x. DV 3).
63
(204, 2801 839) Ít-ra-en là Dân tư tế của Thiên Chúa ( x. Xh 19, 6), được "mang danh ĐỨC
CHÚA" (Đnl 28, 10). Đó là dân gồm "những người
đầu tiên đă được nghe lời Thiên Chúa phán
dạy" ( Phụng vụ Thứ Sáu
Tuần Thánh ) gồm các "anh trưởng" của những
người cùng chia sẻ đức tin của tổ phụ
Áp-ra-ham.
64
(711, 1965 489) Qua các ngôn sứ, Thiên Chúa huấn luyện dân
Người trong niềm hy vọng vào ơn cứu độ,
trong sự chờ đợi một Giao Ước mới,
Giao Ước vĩnh cửu dành cho tất cả mọi
người ( x. Is 2, 2-4)và sẽ
được ghi khắc trong ḷng mọi người ( x.
Gr 31, 31-34; Đnl 10, 16). Các ngôn sứ tiên báo Thiên Chúa sẽ cứu
chuộc trọn vẹn dân Ít-ra-en, thanh tẩy họ khỏi
mọi bất trung (Ed 36) và ban ơn cứu độ cho tất
cả các dân tộc ( x. Is 49, 5-6; 53, 11).
Chính những người nghèo khó và khiêm nhu của Chúa (Xph
2, 3) sẽ cưu mang niềm hy vọng này. Những phụ
nữ thánh thiện như các bà Xa-ra, Rê-bê-ca, Ra-khen, Mi-ri-am,
Đê-bô-ra, An-na, Giu-đi-tha và Ét-te, đă ǵn giữ cho niềm
hy vọng cứu độ ấy của Ít-ra-en được
luôn sống động. Về vấn đề này, Đức
Ma-ri-a là gương mặt sáng chói nhất (x. Lc 1, 38).
III. ĐỨC GiÊ-SU KI-TÔ "ĐẤNG TRUNG
GIAN VÀ SỰ VIÊN MĂN CỦA TOÀN BỘ MẶC KHẢI "
(DV 2)
Thiên
Chúa đă phán dạy mọi sự trong Ngôi Lời
65
(102) "Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên
Chúa đă dùng các ngôn sứ mà phán dạy cha ông ta; nhưng
vào thời sau hết này, Thiên Chúa đă phán dạy ta qua Con
của Người " (Dt 1, 1-2). Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa
làm người, là Lời duy nhứt, hoàn hảo và dứt
khoát của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa phán dạy
mọi sự, và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời
đó. Nối gót bao người, Thánh Gio-an Thánh Giá diễn
tả điều đó với những lời lẽ sáng
ngời khi quảng diễn Dt 1, 1-2 :
516
(2717) Một khi đă ban cho
chúng ta Chúa Con, là Lời của Người, Thiên Chúa không
c̣n Lời nào khác để ban cho ta. Người đă nói hết
trong một lần và cùng một trật, trong Lời duy nhất
đó, và không c̣n ǵ để nói nữa. Những ǵ Người
chỉ nói từng phần với các ngôn sứ, th́ Người
đă nói hết trọn vẹn trong Con của Người
bằng cách ban cho chúng ta điều trọn vẹn ấy
là Con của Người. Do đó, ai c̣n muốn gạn hỏi
Người hoặc ước ao có một thị kiến
hay mặc khải, người ấy chẳng những làm
một sự điên rồ, mà c̣n xúc phạm đến
Thiên Chúa, bởi không nh́n vào Đức Ki-tô mà lại đi t́m
những ǵ khác hay những điều mới lạ ( Cát minh 2, 22).
Sẽ không c̣n Mặc Khải nào khác nữa
66
(94) "Nhiệm cục Ki-tô
giáo, v́ là Giao Ước mới và vĩnh viễn, sẽ
không bao giờ mai một, chúng ta không phải chờ đợi
một mặc khải công khai nào khác nữa trước
khi Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh
quang" (DV 4). Dù Mặc Khải đă hoàn tất, nhưng
vẫn chưa được diễn đạt hoàn toàn rơ
rệt, nên Hội Thánh phải cố gắng t́m hiểu một
cách tiệm tiến qua ḍng thời gian.
67
(84) Theo ḍng lịch sử, có
những điều gọi là "mặc khải tư,
" một số được thẩm quyền Hội
Thánh công nhận. Tuy vậy, những mặc khải đó
không thuộc kho tàng đức tin. Vai tṛ của chúng không phải
là "cải thiện" hoặc "bổ sung" Mặc
Khải tối hậu của Đức Ki-tô, mà để giúp
người ta sống Mặc Khải cách trọn vẹn
hơn vào một thời điểm lịch sử. Được
Huấn Quyền Hội Thánh hướng dẫn, người
tín hữu nhờ cảm thức đức tin sẽ biết
nhận định và tiếp thu trong các mặc khải
đó, những ǵ là lời mời gọi đích thực của
Đức Ki-tô hoặc của các thánh gởi đến cho Dân
Người.
Theo
đức tin Ki-tô giáo không có mặc khải nào được
coi là vượt cao hơn hay sửa đổi mặc khải
được hoàn tất trong Đức Ki-tô. Hiện nay một
số tôn giáo ngoài Ki-tô giáo và một số giáo phái được
sáng lập gần đây đặt nền tảng trên những
"mặc khải" như thế.
TÓM LƯỢC
68 V́ t́nh thương, Thiên Chúa đă
tự mặc khải và ban chính ḿnh cho con người.
Như vậy, Người mang đến một lời giải
đáp cuối cùng và phong phú cho những câu hỏi mà con
người đặt ra cho ḿnh về ư nghĩa và cùng
đích cuộc đời .
69
Thiên Chúa tự mặc khải
cho con người bằng cách dùng hành động và lời
nói, từng bước thông ban mầu nhiệm chính bản
thân ḿnh cho họ.
70
Ngoài những chứng từ
nơi các thụ tạo, Thiên Chúa c̣n đích thân tỏ ḿnh
cho nguyên tổ chúng ta. Người đă nói với họ,
và sau khi họ sa ngă, Người hứa ban ơn cứu
độ (St 3, 15) và mời họ kư kết giao ước
với Người.
71
Thiên Chúa kư kết với ông Nô-ê một giao ước vĩnh
cửu giữa Người và mọi sinh linh (St 9, 16). Giao
ước này sẽ tồn tại bao lâu thế gian c̣n tồn
tại.
72
Thiên Chúa đă tuyển chọn
ông Áp-ra-ham và kư kết một giao ước với ông và
ḍng dơi ông. Từ đó, Thiên Chúa thiết lập dân Người
và mặc khải Lề Luật cho họ qua ông Mô-sê. Nhờ
các ngôn sứ, Thiên Chúa đă chuẩn bị dân Người
đón nhận ơn cứu độ dành cho toàn thể
nhân loại.
73 Thiên Chúa tự mặc
khải trọn vẹn khi cử chính Con Ḿnh đến trần
gian; nơi Chúa Con, Thiên Chúa đă thiết lập Giao Ước
của Người cách vĩnh viễn. Con Thiên Chúa là Lời
tối hậu của Chúa Cha nói với nhân loại; sau
Người, không c̣n một mặc khải nào khác.
74
(851) Thiên Chúa "muốn cho mọi
người được cứu độ và nhận biết
chân lư" (1Tm 2, 4), tức là nhận biết Đức Ki-tô
Giê-su (Ga 14, 6). Vậy Đức Ki-tô phải được
rao giảng cho mọi dân tộc và mọi người, và
như thế, mặc khải phải được loan
truyền đến tận cùng thế giới.
Những
ǵ Thiên Chúa mặc khải để cứu độ muôn
dân, Người đă ân cần sắp đặt để
luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn
cho mọi thế hệ ( DV 7).
I. TRUYỀN THỐNG CÁC TÔNG ĐỒ
75
(171) "Toàn bộ mặc khải
của Thiên Chúa tối cao được hoàn tất nơi
Chúa Ki-tô. Sau khi thực hiện và công bố Tin Mừng
đă được các ngôn sứ tiên báo, Chúa Ki-tô ra lệnh
cho các tông đồ rao giảng Tin Mừng ấy cho mọi
người như là nguồn mạch của toàn bộ
chân lư cứu độ và của mọi qui luật luân lư,
đồng thời ban phát cho họ những hồng ân của
Thiên Chúa"(DV 7).
Lời rao giảng của các tông đồ
76
Theo mệnh lệnh của
Chúa, việc lưu truyền Tin Mừng đă được
thực hiện bằng hai cách :
Cách
truyền khẩu : "Bằng lời
rao giảng, bằng gương mẫu và các định chế,
các tông đồ truyền lại những điều
đă học được từ chính miệng Đức
Ki-tô khi sống chung với Người và thấy Người
xử sự hoặc những điều các ngài đă
được Thánh Thần gợi hứng".
Bằng
văn tự : "Được Thánh Thần
linh hứng, các tông đồ và những người thân cận
với các ngài đă ghi lại sứ điệp cứu
độ "( DV 7).
... được tiếp nối do những
người kế nhiệm các tông đồ
77
(861) "Để Tin Mừng luôn
luôn được ǵn giữ nguyên vẹn và sống động
trong Hội Thánh, các tông đồ đă đặt các Giám Mục
làm người kế nhiệm, và trao lại cho họ
"trách nhiệm giáo huấn của các ngài" (DV 7). V́ vậy,
"những lời giảng dạy của các tông đồ
được đặc biệt ghi lại trong các sách
linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục
lưu truyền cho đến tận thế " (DV 8).
78
(174 1124, 2651) Được thực
hiện trong Chúa Thánh Thần, cách lưu truyền sống
động này được gọi là Thánh Truyền, phân
biệt với Thánh Kinh, dù có liên hệ chặt chẽ với
Thánh Kinh. Nhờ Thánh Truyền, "Hội Thánh qua giáo lư,
đời sống và việc phượng tự của
ḿnh, bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ
tất cả thực chất của ḿnh và tất cả
những ǵ ḿnh tin"( DV 8). "Giáo huấn
của các thánh giáo phụ chứng thực sự hiện
diện tác sinh của Thánh Truyền ấy mà sự phong phú
đă thâm nhập vào nếp sống đạo của Hội
Thánh hằng tin tưởng và cầu nguyện" (DV 8).
79
Như vậy, việc Chúa Cha
thông ban chính ḿnh nhờ Ngôi Lời và trong Thánh Thần, vẫn
hiện diện và tác động trong Hội Thánh :
"Thiên Chúa Đấng xưa đă phán dạy, nay vẫn
không ngừng ngơ lời với hiền thê của Con yêu dấu
ḿnh; và Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động
của Tin Mừng vang dội trong Hội Thánh, và nhờ Hội
Thánh làm vang dội trong thế giới, vẫn hướng
dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lư và làm
cho lời Chúa Ki-tô tràn ngập trong ḷng họ" (DV 8).
II. TƯƠNG QUAN GIỮA THÁNH TRUYỀN
VÀ THÁNH KINH
Cùng một nguồn mạch...
80 "Thánh Truyền và
Thánh Kinh liên kết và giao lưu mật thiết với
nhau, v́ cả hai phát xuất từ một nguồn mạch
duy nhất là Thiên Chúa, có thể nói là cả hai kết hợp
nên một toàn bộ và hướng về cùng một mục
đích" ( DV 9). Cả hai đều
làm cho mầu nhiệm Đức Ki-tô được hiện
diện và sinh hoa trái trong Hội Thánh, chính Người
đă hứa ở lại với môn đệ "mọi
ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 20).
... nhưng hai cách lưu truyền khác
biệt
81
"Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa
được ghi chép lại dưới sự linh hứng
của Chúa Thánh Thần".
(113)
"Thánh Truyền chứa đựng Lời Thiên Chúa mà
Chúa Ki-tô và Chúa Thánh Thần đă ủy thác cho các tông đồ,
và lưu truyền toàn vẹn cho những người kế
nhiệm các ngài, để nhờ Thánh Thần chân lư soi
sáng, họ trung thành ǵn giữ, tŕnh bày và phổ biến qua
lời rao giảng".
82
Do đó, Hội Thánh,
được ủy thác nhiệm vụ lưu truyền
và giải thích Mặc Khải, "không chỉ nhờ Thánh
Kinh mà biết cách xác thực tất cả những điều
mặc khải, chính v́ thế, cả Thánh Kinh lẫn Thánh
Truyền đều phải được đón nhận
và tôn kính bằng một tâm t́nh yêu mến và kính trọng
như nhau"( DV 9).
Truyền thống Tông đồ và các
truyền thống trong Hội Thánh
83
Truyền Thống mà chúng ta nói
đây khởi phát từ các tông đồ và lưu truyền
những ǵ các ngài đă lănh nhận từ giáo huấn và
gương mẫu của Chúa Giê-su cũng như những
ǵ các ngài học được nhờ Thánh Thần. Thật
vậy, thế hệ các Ki-tô hữu đầu tiên chưa
có một Tân Ước thành văn, và chính bản văn Tân
Ước chứng thực tiến tŕnh của truyền
thống sống động này.
(1202,
2041 2684) Chúng ta phải phân biệt
"Truyền Thống" các tông đồ với các
"truyền thống" thuộc diện thần học,
kỷ luật, phụng vụ hoặc sùng kính đă phát
sinh theo thời gian trong các giáo đoàn địa
phương. Những truyền thống này tạo nên những
h́nh thức đặc thù, qua đó, Thánh Truyền thu nhận
những lối diễn tả thích nghi cho những nơi
khác nhau và những thời kỳ khác nhau. Chính trong ánh sáng
truyền thống các tông đồ, mà các truyền thống
này được giữ lại, sửa đổi hay bị
loại bỏ, theo sự hướng dẫn của Huấn
Quyền Hội Thánh.
III. GIẢI NGHĨA KHO TÀNG ĐỨC TIN
Kho
tàng đức tin được giao phó cho toàn thể Hội
Thánh
84
(857, 871 2033) "Kho tàng đức
tin" (depositum fidei) (2Tm 1, 12-14), chứa đựng trong
Thánh Truyền và Thánh Kinh, đă được các tông đồ
giao phó cho toàn thể Hội Thánh. "Nhờ gắn bó với
kho tàng ấy, toàn thể dân thánh hiệp nhất với các
mục tử, vẫn một niềm trung tín, chuyên cần
nghe các tông đồ giảng dạy, sống hiệp thông
huynh đệ, tham dự lễ bẻ bánh và các giờ cầu
nguyện, đến nỗi trong cách giữ đạo,
hành đạo, và tuyên xưng đức tin được
truyền lại, các mục tử và đoàn chiên đồng
tâm nhất trí với nhau cách lạ thường"(DV 10).
Huấn Quyền Hội Thánh
85
(888- 892 2032-2040) "Nhiệm vụ
giải nghĩa cách chân chính Lời Thiên Chúa đă được
viết ra hay lưu truyền, chỉ được ủy
thác cho Huấn Quyền sống động của Hội
Thánh, và Hội Thánh thi hành quyền đó nhân danh Đức
Giê-su Ki-tô " (DV 10), nghĩa là <F255D)được
ủy thác cho những Giám mục sống hiệp thông với
Giám mục Rô-ma là người kế nhiệm Thánh Phê-rô.
86
(688) "Tuy nhiên, Huấn Quyền
không vượt trên Lời Chúa, nhưng phải phục vụ
Lời Chúa, nên chỉ dạy những ǵ đă được
truyền lại. Theo lệnh Chúa với sự trợ giúp
của Chúa Thánh Thần, Huấn Quyền thành tâm lắng
nghe, ǵn giữ cách thánh thiện và thành tín tŕnh bày Lời
Chúa. Và từ kho tàng đức tin duy nhất ấy, rút ra mọi
điều phải tin như là Mặc Khải của Thiên
Chúa" (DV 10).
87
(1548 2037) V́ ghi nhớ lời Đức
Ki-tô đă nói với các tông đồ :
"Ai nghe anh em là nghe Thầy" (Lc 10, 16) (LG 20), các tín hữu
nhiệt thành ngoan ngoăn nhận lănh lời dạy và chỉ
thị mà các mục tử ban cho họ dưới những
h́nh thức khác nhau.
Các tín điều đức tin
88 Huấn Quyền thực thi trọn
vẹn quyền bính nhận từ Đức Ki-tô khi định
tín, tức là khi công bố, dưới h́nh thức buộc
dân thánh phải tin, những chân lư được chứa
đựng trong mặc khải hoặc khi công bố một
cách xác định dức khoát những chân lư có liên hệ tất
yếu với các chân lư đó.
89
(2625) Có một tương quan
hữu cơ giữa đời sống thiêng liêng của
chúng ta với các tín điều. Tín điều là những
ánh sáng trên con đường đức tin, soi sáng và làm cho
con đường đức tin ấy được an
toàn. Ngược lại, nếu chúng ta sống ngay thẳng,
trí tuệ và tâm hồn sẽ mở rộng đón nhận
ánh sáng các tín điều (x. Ga 8, 31-32).
90
(114, 158 234) Toàn bộ mặc
khải mầu nhiệm Đức Ki-tô cho thấy các tín điều
có liên hệ hỗ tương và đan kết với nhau
(Cđ Va-ti-can I : DS 3016 : nexus mysteriorum: LG
25). Thực vậy cần nhớ là "chúng ta phải nhận
có một trật tự hay phẩm trật" các chân lư
trong đạo lư công giáo, v́ sự liên hệ giữa các tín
điều với các nền tảng đức tin Ki-tô
giáo không đồng đều" (UR 11).
Cảm thức siêu nhiên về đức
tin
91
(737) Mọi tín hữu đều
tham dự vào ơn hiểu biết và việc lưu truyền
chân lư mặc khải. Họ được Thánh Thần xức
dầu, chính Người dạy dỗ (x. 1Ga 2, 20. 27) và dẫn
họ tới chân lư toàn diện (x. Ga 16, 13).
92
(785) "Toàn thể tín hữu ... không thể sai lầm trong đức
tin. Họ biểu lộ đặc tính ấy nhờ cảm
thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân
Chúa, khi" từ các Giám mục cho đến người
giáo dân rốt hết", đều đồng ư về
những chân lư liên quan đến đức tin và phong
hóa" (LG 12).
93
(889) "Thực vậy, nhờ
cảm thức về đức tin được Thánh Thần
chân lư khơi dậy và duy tŕ, và dưới sự hướng
dẫn của Huấn Quyền ... dân
Thiên Chúa một ḷng gắn bó không sờn với đức
tin đă được truyền lại một lần dứt
khoát, đào sâu đức tin hơn nhờ giải thích
đúng đắn và thực thi trọn vẹn đức
tin ấy trong đời sống của ḿnh" (LG 12).
Gia
tăng hiểu biết đức tin
94 (66) Nhờ Thánh Thần trợ
giúp, sự hiểu biết về các thực tại và các lời
thuộc kho tàng đức tin có thể tăng trưởng
trong đời sống Hội Thánh :
(2651) -"Nhờ
suy niệm và học hỏi của những tín hữu hằng
gẫm suy trong ḷng những thực tại và lời nói ấy"
(DV 8); đặc biệt "việc nghiên cứu thần
học giúp đào sâu hiểu biết về chân lư mặc khải"
( x. GS 62, 7; x. 44, 2 ; DV 23, 24;
(2038, 2518) -"Nhờ sự hiểu biết
nội tâm mà các tín hữu cảm nhận được những
điều thiêng liêng" (DV 8); "Lời Chúa lớn lên
cùng với người đọc" ( Thánh
Ghê-gô-ri-ô Cả, giảng về Ed 1, 7, 8);
-"Nhờ lời rao giảng của
các vị trong hàng Giám Mục đă nhận được
đặc sủng chắc chắn về chân lư " ( DV 8).
95 "Vậy
rơ ràng là Thánh Truyền, Thánh Kinh và Huấn Quyền, nhờ
một sự an bài rất khôn ngoan của Thiên Chúa, liên kết
và phối hiệp với nhau đến nổi không một
thực thể nào một trong ba có thể đứng vững
một ḿnh được. Dưới tác động của
một Thánh Thần duy nhất, cả ba cùng góp phần hữu
hiệu vào việc cứu độ các linh hồn, mỗi
thứ theo phương cách riêng của
ḿnh" (DV 10, 3).
TÓM LƯỢC
96 Điều
Đức Ki-tô đă ủy thác cho các Tông đồ, các ngài
đă truyền lại bằng lời rao giảng và bằng
văn bản, dưới sự linh hứng của Thánh Thần,
cho tất cả mọi thế hệ, cho đến ngày Đức
Ki-tô trở lại trong vinh quang.
97 "Thánh
Truyền và Thánh Kinh hợp thành một kho tàng thánh thiêng duy
nhất của Lời Thiên Chúa ( DV 10), trong đó, Hội
Thánh lữ hành chiêm ngắm Thiên Chúa (DV 10) là nguồn mạch
mọi sự phong phú của ḿnh như trong một tấm
gương.
98 "Qua giáo lư, đời sống
và phụng tự của ḿnh, Hội Thánh bảo tồn và
truyền lại cho mọi thế hệ tất cả thực
chất của ḿnh và tất cả những ǵ ḿnh tin" ( DV 8).
99 Nhờ cảm thức
siêu nhiên về đức tin, toàn thể Dân Chúa không ngừng
đón nhận, đào sâu và sống hồng ân mặc khải
ngày càng trọn vẹn hơn.
100 Nhiệm
vụ giải nghĩa cách chân chính Lời Thiên Chúa
được ủy thác riêng cho Huấn Quyền, tức
là cho Đức Giáo Hoàng và cho các Giám Mục hiệp thông với
Người.