512 (1163) Khi đề cập
đến cuộc đời của Ðức Ki-tô, kinh Tin
Kính chỉ nói về mầu nhiệm Nhập Thể
(tượng thai và sinh ra) và mầu nhiệm Vượt Qua
(khổ nạn - đóng đinh - chịu chết - mai táng
xuống ngục tổ tông - sống lại - lên trời),
mà không nói cách minh nhiên về các mầu nhiệm cuộc
đời ẩn dật và công khai của Ðức Giê-su. Tuy
nhiên, những tín điều liên quan đến Nhập Thể
và Vượt Qua của Ðức Giê-su lại soi sáng toàn
bộ cuộc đời trần thế của Ðức
Ki-tô. "Tất cả những việc Ðức Giê-su làm và
những điều Người dạy, kể từ lúc
đầu cho đến ngày... Người được
rước lên trời" (Cv l, l-2), cần phải được
nhìn dưới ánh sáng các mầu nhiệm Giáng Sinh và
Phục Sinh.
513 (426, 561) Tùy theo hoàn cảnh, huấn giáo
sẽ đề cập đến tất cả sự
phong phú trong các mầu nhiệm của Ðức Giê-su. Ở
đây, chúng tôi chỉ nêu lên một vài điểm chung cho
tất cả mọi mầu nhiệm cuộc đời
của Người (I). Sau đó sẽ bàn sơ
lược về các mầu nhiệm chính yếu trong
cuộc đời ẩn dật (II) và công khai (III) của
Ðức Giê-su.
I. TOÀN BỘ CUỘC ÐỜI ÐỨC GIÊ-SU LÀ MẦU
5l4
Có nhiều điều liên quan đến Ðức Giê-su
mà loài người tò mò muốn biết, nhưng lại
không được các Tin Mừng nói đến. Tin
Mừng hầu như không nói gì về cuộc sống
của Người ở Na-da-rét, và một phần lớn
cuộc đời công khai của Người cũng không
được nhắc đến (x. Ga 20, 30). Tất
cả những gì được viết ra trong các Tin
Mừng là "để anh em tin rằng Ðức Giê-su là
Ðấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà
được sự sống nhờ Danh Người"
(Ga 20, 31).
515 (126 609, 477) Các Tin Mừng đã
được những người thuộc số các tín
hữu đầu tiên viết ra (x. Mc l, l ; Ga 2l, 24) vì
muốn chia sẻ đức tin cho kẻ khác. Ðược
nhận biết Ðức Giê-su nhờ đức tin, họ
thấy và chỉ cho thấy những dấu tích về
mầu nhiệm của Người trong suốt thời
gian Người sống trên dương thế. Từ
những tấm tã lót ngày Giáng Sinh (x. Lc 2, 7), cho đến
chút dấm lúc chịu khổ hình (x. Mt 27, 48), và tấm
khăn liệm ngày Phục Sinh (x. Ga 20, 7), mọi sự
trong cuộc đời Ðức Giê-su đều là dấu
tích cho mầu nhiệm của Người. Qua những
cử chỉ, phép lạ, lời nói, Người mặc
khải cho biết "tất cả sự viên mãn của
thiên tính hiện diện cách cụ thể nơi
Người" (Cl 2, 9). Như vậy nhân tính của
Người xuất hiện như một "bí tích",
nghĩa là như một dấu chỉ và công cụ cho thiên
tính và ơn cứu độ Người mang lại :
những gì hữu hình trong cuộc đời trần
thế của Người dẫn chúng ta đến
với mầu nhiệm vô hình về địa vị Con
Thiên Chúa và sứ mạng cứu chuộc của
Người.
Những
điểm chung trong các mầu nhiệm của Ðức
Giê-su
516 (65 2708) Toàn bộ cuộc
đời Ðức Ki-tô là mặc khải về Chúa Cha :
những lời Người nói, những việc
Người làm, những lúc Người im lặng,
những đau khổ Người chịu, cách thế
Người sống và giảng dạy. Ðức Giê-su có
thể nói : "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga
l4, 9), và Chúa Cha nói : "Ðây là Con Ta, Người đã
được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời
Người" (Lc 9, 35). Vì Chúa Ki-tô đã làm người
để chu toàn ý muốn của Chúa Cha (x. Dt l0, 5-7), nên
ngay cả những điểm nhỏ nhặt nhất trong
các mầu nhiệm của Người đều biểu
lộ cho chúng ta thấy "tình yêu của Thiên Chúa đối
với chúng ta" (l Ga 4, 9).
517 (606, 1115)
Toàn bộ cuộc đời
Ðức Ki-tô là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Ơn
Cứu Chuộc đến với chúng ta trước
hết nhờ Máu Người đổ ra trên Thánh Giá (x. Ep
l, 7; Cl l, l3-l4 : l Pr l, l8-l9), nhưng mầu nhiệm này
đã hoạt động trong toàn bộ cuộc
đời Ðức Ki-tô : trong việc Nhập Thể, khi
Ngưòi trở thành nghèo khó để lấy cái nghèo
của mình làm cho chúng ta nên giàu có (x. 2Cr 8, 9) trong cuộc
sống ẩn dật, khi Người vâng phục (x. Lc 2,
5l) để sửa lại sự bất phục tùng
của chúng ta; trong lời Người nói để làm cho
kẻ lắng nghe nên thanh sạch (x. Ga l5, 3) trong các
việc chữa bệnh và trừ qủy, "Người
mang lấy các tật nguyền của ta, và gánh lấy các
bệnh hoạn của ta" (Mt 8, l7) (x. Is 53, 4) trong
việc phục sinh, để chúng ta được nên
công chính (x. Rm 4, 25).
5l8
Toàn bộ cuộc đời Ðức Ki-tô là mầu
nhiệm. Qui Tu<139): tất cả mọi điều
Ðức Giê-su đã nói, đã làm, đã chịu... đều
hướng tới mục đích đưa con
người sa ngã trở về ơn gọi ban đầu
:
Khi nhập thể làm
người, Ðức Ki-tô đã qui tụ nơi mình toàn bộ
lịch sử nhân loại và ban cho chúng ta ơn cứu
độ, để những gì xưa kia chúng ta đã
mất nơi A-đam, tức là không còn là hình ảnh và
giống như Thiên Chúa nữa, thì nay chúng ta tìm lại
được trong Ðức Ki-tô Giê-su (T. I-rê-nê, chống
lạc giáo 3, l8, l). Chính vì thế Ðức Ki-tô đã trải
qua các lứa tuổi của đời người,
nhờ đó làm cho mọi người được
hiệp thông với Thiên Chúa (Id3, l8, 7; x. 2, 22, 4).
Hiệp
thông với các mầu nhiệm của Ðức Giê-su
519 (793
520 (459
521 (2715 1391) Ðức Ki-tô giúp chúng ta sống
như Người đã sống : Người sống
trong chúng ta và chúng ta sống trong Người. "Con Thiên
Chúa khi nhập thể, đã kết hợp một cách nào
đó với mọi người" (x. GS 22, 2). Chúng ta
được kêu gọi nên một với Người;
những gì Người đã sống trong thân xác
Người vì chúng ta và nên mẫu mực cho chúng ta, thì
Người cũng cho chúng ta được hiệp thông,
như là chi thể của Thân Mình Người.
Chúng ta phải tiếp nối
và thực hiện nơi bản thân các trạng huống và
mầu nhiệm của Ðức Giê-su, và thường xuyên
cầu xin Người hoàn tất và kiện toàn những
điều ấy nơi chúng ta, cũng như nơi toàn
thể Hội Thánh... Vì Con Thiên Chúa có ý cho chúng ta tham dự,
mở rộng và tiếp nối các mầu nhiệm của
Người nơi bản thân chúng ta cũng như nơi
toàn thể Hội Thánh, nhờ các ân sủng Người
thông ban cho chúng ta và nhờ những hiệu quả của
các mầu nhiệm Người thực hiện nơi chúng
ta. Theo phương thế đó, Người muốn hoàn
tất các mầu nhiệm của Người nơi chúng
ta (T. Gio-an Ơ-đơ, nước Thiên Chúa).
II. CÁC
MẦU
Chuẩn
bị
522 (711, 762) Việc Con Thiên Chúa xuống
thế gian là một biến cố lớn lao đến
nỗi Thiên Chúa đã muốn chuẩn bị từ bao
thế kỷ. Tế tự và hiến lễ, hình
tượng và biểu trưng trong "Giao Ước
Cũ" (Dt 9, l5), đều được Thiên Chúa cho
qui hướng về Ðức Ki-tô. Người loan báo
biến cố ấy qua các ngôn sứ kế tiếp nhau
ở Ít-ra-en. Người còn khơi dậy nơi tâm
hồn lương dân niềm mong đợi chưa rõ nét
về việc Con Thiên Chúa đến.
523 (712, 720) Thánh Gio-an Tẩy Giả đã
được sai đến (x. Cv l3, 24) để trực
tiếp dọn đường cho Ðức Ki-tô (x. Mt 3, 3).
Thánh nhân là "ngôn sứ của Ðấng Tối Cao" (Lc
l, 76), trổi vượt tất cả mọi ngôn sứ
(x. Lc 7, 26) và là ngôn sứ cuối cùng (x. Mt ll, l3) khai mạc
thời Tin Mừng (x. Cv l, 22; Lc l6, l6). Ngay từ trong
dạ mẹ, thánh nhân đón chào Ðức Ki-tô đến (x.
Lc l, 4l), rồi vui mừng được làm "bạn
của tân lang" (Ga 3, 29), Ðấng mà thánh nhân gọi là
"Chiên Thiên Chúa, Ðấng xoá tội trần gian" (Ga l,
29). " Ðầy thần trí và quyền năng của ngôn
sứ Ê-li-a" (Lc 1, 17), thánh nhân xuất hiện
trước Ðức Giê-su và làm chứng cho Người
bằng lời rao giảng, bằng phép rửa sám hối
và cuối cùng bằng cuộc tử đạo (x. Mc 6,
l7-29).
524 (1171) Hằng năm khi cử hành
phụng vụ Mùa Vọng, Hội Thánh hiện tại hóa
niềm mong đợi Ðấng Mê-si-a : khi hiệp thông
với việc chuẩn bị lâu dài cho Ðấng Cứu
Thế đến lần thứ nhất, các tín hữu làm
bừng sáng niềm khát khao mong mỏi Người
đến lần thứ hai (x. Kh 22, l7). Khi mừng sinh
nhật và cuộc tử đạo của vị Tiền
Hô, Hội Thánh cũng hợp ý với thánh nhân "Ðức
Ki-tô phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ
đi" (Ga 3, 30).
Mầu
nhiệm Giáng Sinh
525
Hôm nay Ðức Trinh nữ
hạ sinh Ðấng Hằng Hữu Thế gian dâng tặng
hang đá cho Ðấng vô biên. Thiên thần và mục
đồng ca tụng Ðạo sĩ tiến bước theo
ánh sao, Bởi Người sinh ra cho chúng con, Lạy Chúa Hài
Nhi, Chúa Trời hằng hữu! (x. Bài ca của Romanos thi
sĩ).
526
"Trở nên trẻ nhỏ" trong tương quan
với Thiên Chúa là điều kiện để vào
Nứơc Trời (x. Mt l8, 3-4). Muốn thế, cần
phải tự hạ (x Mt 23, l2), phải trở nên bé
mọn; hơn nữa, còn phải "sinh ra từ trên
cao" (Ga 3, 7) "do chính Thiên Chúa sinh ra" (Ga l, l3)
để "trở nên con cái Thiên Chúa" (Ga l, l2).
Mầu nhiệm Giáng Sinh được thực hiện
nơi chúng ta khi Ðức Ki-tô "thành hình" nơi chúng ta
(Ga 4, l9). Giáng Sinh là mầu nhiệm của việc "trao
đổi kỳ diệu" này :
460
Ôi việc trao đổi diệu kỳ! Ðấng sáng
tạo loài người, đã đoái thương sinh làm
con một Trinh Nữ, đảm nhận một xác thể
và một linh hồn, và đã ban cho chúng ta thiên tính của
Người khi làm người mà không cần đến
sự can thiệp của con người ! (Tiền xướng
tuần bát nhật Giáng Sinh)
Các
mầu nhiệm thời thơ ấu của Ðức Giê-su
527
Việc Ðức Giê-su chịu
cắt bì ngày thứ tám sau khi sinh (x. Lc 2, 2l) là dấu
chỉ việc Người hội nhập vào miêu duệ
Áp-ra-ham, vào dân Giao Ước; là dấu chỉ việc
Người phục tùng lề luật (x. Gl 4, 4), việc
Người gia nhập phụng tự Ít-ra-en, nền
phụng tự Người sẽ tham gia suốt
đời. Dấu chỉ này báo trước "phép
cắt bì của Ðức Ki-tô" là bí tích Thánh Tẩy (Cl 2,
ll-l3).
528 (439 711-716 122) Hiển Linh là biến cố
Ðức Giê-su tỏ mình là Ðấng Mê-si-a của Ít-ra-en, là Con
Thiên Chúa, là Ðấng Cứu Ðộ thế gian. Cùng với
việc Ðức Giê-su chịu phép rửa ở sông Gio-đan
và tiệc cưới Ca-na (x. Tiền xướng Thánh ca
Tin Mừng kinh chiều II lễ Hiển Linh), mầu
nhiệm này mừng kính việc "các đạo
sĩ" từ Phương Ðông đến thờ lạy
Ðức Giê-su (Mt 2, l). Qua các "đạo sĩ",
đại diện cho các tôn giáo lương dân chung quanh, Tin
Mừng đã thấy đây là hoa quả đầu mùa
của các dân tộc sẽ đón nhận Tin Mừng
cứu độ nhờ Chúa Con nhập thể. Việc các
đạo sĩ đến Giê-ru-sa-lem để "triều
bái Vua dân Do Thái" (Mt 2, 2) cho thấy : theo ánh sáng của
ngôi sao Ða-vít (Ds 24, l7; Kh 22, l6) loan báo Ðấng Mê-si-a, họ
tìm kiếm ở Ít-ra-en Ðấng sẽ là vua mọi dân
nước (Ds 24, l7-l9). Việc họ đến còn cho
thấy các dân ngoại chỉ có thể nhận ra Ðức
Giê-su và thờ lạy Người là Con Thiên Chúa và là
Ðấng Cứu Thế bằng cách hướng về dân Do
Thái (x. Ga 4, 22) và lãnh nhận nơi họ lời hứa
về ơn cứu độ chứa đựng trong
Cựu Ước
(x. Mt 2, 4-6). Mầu nhiệm Hiển Linh cho thấy đông
đảo các dân ngoại được gia nhập vào gia
đình các tổ phụ (T. Lê-ô Cả, bài giảng 23), và
được hưởng phẩm giá của Ít- ra- en (x.
MR. Vọng Phục Sinh 26: Lời nguyện sau bài
đọc 3).
529 (583 439 614) Việc dâng Ðức Giê-su vào
đền thờ (x. Lc 2, 22-39) cho thấy Người là
con đầu lòng thuộc về Thiên Chúa (x. Xh l3, l2-l3). Cùng
với Xi-mê-on và An-na là cho toàn thể Ít-ra-en đang mong
đợi, đến gặp Ðấng Cứu Ðộ
của mình. Ðức Giê-su được nhận biết là
Ðấng Mê-si-a hằng mong đợi, là "ánh sáng muôn
dân", là "vinh quang của Ít-ra-en", nhưng cũng
là "dấu hiệu bị người đời
chống báng". Lưỡi gươm mà Xi-mê-on tiên báo
sẽ đâm thâu lòng Ðức Ma-ri-a, loan báo hiến lễ
hoàn hảo và duy nhất trên Thánh Giá, hiến lễ sẽ
mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã
"chuẩn bị trước mắt cho muôn dân".
530 (574) Việc trốn thoát sang Ai Cập
và cuộc tàn sát các anh hài (x. Mt 2, l3-l8) cho thấy bóng
tối đang chống lại ánh sáng : "Người
đã đến nhà mình, nhưng ngưòi nhà chẳng
chịu đón tiếp" (Ga l, ll). Ðức Ki-tô sẽ
phải chịu bách hại suốt cuộc đời. Các
kẻ theo Người cũng thế (x. Ga l5, 20). Việc
Người từ Ai Cập (x Mt 2, l5) trở về,
gợi lại cuộc Xuất Hành (x. Hs 11, 1) và giới
thiệu Ðức Giê-su là Ðấng Giải Phóng tối
hậu.
Các mầu nhiệm thời
ẩn dật
531 (2427) Gần như suốt đời,
Ðức Giê-su đã chia sẻ thân phận của đại
đa số loài người : một cuộc sống
thường nhật, bề ngoài không có gì là vĩ
đại, với lao động tay chân; một
đời sống tôn giáo Do Thái phục tùng Luật Thiên
Chúa (x. Gl 4, 4), đời sống trong cộng đồng.
Về giai đoạn này, chúng ta được biết
rằng Ðức Giê-su "vâng phục" cha mẹ và
"ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng
như mọi người thương mến" (Lc 2,
5l-52).
532 (2214-2220 612) Việc Ðức
Giê-su tùng phục mẹ Người và cha nuôi chứng
tỏ Người đã chu toàn điều răn thứ
tư. Ðó là hình ảnh của việc Người vâng
phục Cha trên trời như con thảo. Việc Ðức
Giê-su mỗi ngày vâng phục thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a báo
trước việc vâng phục vào ngày Thứ Năm
Tuần Thánh : "Xin đừng theo ý con" (Lc 22, 42).
Sự vâng phục của Ðức Ki-tô trong cuộc sống
ẩn dật thường ngày đã khởi đầu
công trình tái lập những gì mà A-đam đã phá đổ
vì bất tuân phục (x. Rm 5, l9).
533
Cuộc sống ẩn dật của Ðức Giê-su
ở Na-da-rét cho phép mỗi người chúng ta hiệp thông
với Người bằng những phương thế
thông thường nhất :
2717 (2204 2427) Na-da-rét là trường học
nơi đó chúng ta bắt đầu hiểu về
cuộc đời Ðức Giê-su; đó là trường
dạy của Tin Mừng ... Trước hết là bài
học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quí
chuộng sự thinh lặng, vì đó là bầu khí tuyệt
vời và tối cần cho tâm hồn ... Kế đến
là bài học về đời sống gia đình : Ước
gì Na-da-rét dạy chúng ta biết thế nào là gia đình, là
hòa hợp yêu thương, là nét đẹp của
đời sống đạm bạc và đơn sơ,
cùng tính thánh thiêng và bền vững của gia đình...
Tiếp theo là bài học về lao động. Ôi Na-da-rét,
ngôi nhà của "con bác thợ mộc", chính tại
đây, chúng ta ước ao được thấu hiểu
và đề cao bổn phận lao động của con
người, tuy nhọc nhằn nhưng đem lại
ơn cứu chuộc... . Sau hết, chúng tôi ước ao
được chào mừng ở đây mọi
người lao động trên toàn thế giới, và
chỉ cho họ mẫu mực vĩ đại,
người anh thần linh của họ (Phao-lô VI diễn
văn ngày 5. 0l. l964 ở Na-da-rét).
534 (583, 2599 964) Tìm được Ðức Giê-su
trong Ðền Thờ (x. Lc 2, 4l-52) là biến cố duy
nhất phá vỡ sự im lặng của các Tin Mừng
về những năm tháng ẩn dật của Ðức
Giê-su. Ở đây, Ðức Giê-su hé cho thấy mầu
nhiệm Người toàn hiến để thi hành một
sứ mạng xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa.
"Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà
Cha Con sao?" Ðức Ma-ri-a và thánh Giu-se "không
hiểu", nhưng đón nhận lời ấy trong
đức tin, và Ðức Ma-ri-a "hằng ghi nhớ
những kỷ niệm ấy trong lòng", suốt
những năm dài Ðức Giê-su ẩn mình thinh lặng
sống bình thường như mọi người.
III. CÁC MẦU
Ðức
Giê-su chịu phép Rửa
535 (719-720 701 438) Ðức Giê-su khởi đầu
(x. Lc 3, 23) cuộc đời công khai bằng phép rửa do
thánh Gio-an trên sông Gio-đan (x. Cv. l, 22). Thánh Gio-an rao
giảng "phép rửa tỏ lòng sám hối để
được ơn tha tội" (Lc 3, 3). Rất
nhiều người tội lỗi, thu thuế, lính tráng
(x. Lc 3, l0-l4), Pha-ri-sêu và Xa-đốc (x. Mt 3, 7), cùng gái
điếm (x. Mt 2l, 32) đến xin người rửa
cho. "Bấy giờ Ðức Giê-su xuất hiện".
Vị Tẩy Giả ngần ngại, nhưng Ðức Giê-su
tha thiết yêu cầu, và thế là thánh Gio-an rửa cho
Người. Lúc ấy, Thánh Thần dưới hình chim
bồ câu ngự xuống trên Người và có tiếng
từ trời phán : "Ðây là Con yêu dấu của Ta"
(Mt 3, l3-l7). Qua biến cố này Ðức Giê-su tỏ mình
(Hiển Linh) là Ðấng Mê-si-a của Ít-ra-en và là Con Thiên
Chúa.
536 606 (1224 444 727 739) Ðối với Ðức Giê-su, phép
rửa chính là việc Người chấp nhận và khởi
đầu sứ mạng làm người Tôi Tớ Ðau
Khổ. Người đặt mình vào hàng ngũ tội
nhân (x. Is 53, 12) Người là "Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa
tội trần gian"(Ga 1, 29); như thế Người
đã tiền dự "phép rửa bằng máu" (x. Mc
l0, 38; Lc. l2, 50). Người đến để "chu
toàn mọi lẽ công chính"(Mt. 3, l5), nghĩa là hoàn toàn
vâng phục thánh ý Chúa Cha : vì tình yêu, Người bằng
lòng chịu phép rửa bằng máu để tha thứ
tội lỗi chúng ta (x. Mt 26, 39). Ðáp lại sự vâng
phục này, Chúa Cha bày tỏ sự hài lòng đối
với Chúa Con (x. Lc 3, 22; Is 42, 1). Thánh Thần mà Ðức
Giê-su đã được đầy tràn lúc tượng
thai "ngự xuống trên Người" (Ga l, 32-33) (x.
Is, ll, 2). Người sẽ là nguồn mạch Thánh
Thần cho toàn thể nhân loại. Lúc Người chịu
Phép Rửa, các tầng trời mà tội A-đam đã
đóng lại, nay "được mở ra" (Mt 3,
l6), và dòng nước được thánh hóa do việc
Ðức Giê-su và Thánh Thần ngự xuống báo hiệu
cuộc sáng tạo mới.
537 (1262) Nhờ bí tích Thánh Tẩy,
người Ki-tô hữu được đồng hình
đồng dạng với Ðức Giê-su một cách bí tích,
Ðấng đã tiền dự cái chết và sự phục
sinh của mình ngay trong phép rửa. Người tín hữu cũng phải dấn thân
vào mầu nhiệm tự hạ và hoán cải này,
bước xuống nước với Ðức Giê-su
để bước lên với Người, tái sinh
bởi nước và Thánh Thần để trong Chúa Con,
trở nên con yêu dấu của Chúa Cha và "sống
một đời sống mới" (Rm 6, 4) :
628
"Chúng ta hãy cùng chịu mai táng với Ðức Ki-tô
bằng phép rửa, để cùng được phục
sinh với Người. Hãy cùng bước xuống với
Người, để cùng được đưa lên
với Người. Hãy cùng đi lên với Người,
để cùng được tôn vinh trong Người"(T.
Ghê-gô-ri-ô Thành Na-di-en; or 40, 9).
Tất cả những gì
xảy ra nơi Ðức Ki-tô cho biết : sau khi chúng ta
được dìm trong nước, Chúa Thánh Thần từ
trời ngự xuống trên chúng ta và Chúa Cha lên tiếng
chấp nhận để chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa
(T. Hi-la-ri-ô , Mat. 2).
Ðức
Giê-su chịu cám dỗ
538 (394 518) Các Tin Mừng đều nói
đến thời gian Ðức Giê-su sống cô tịch trong
hoang địa, ngay sau khi nhận phép rửa của Thánh
Gio-an. "Ðược Thánh Thần thúc đẩy" vào
hoang địa, Ðức Giê-su ở lại đó, nhịn
đói 40 ngày, sống giữa các dã thú và các thiên thần
hầu hạ Người
(x. Mc l, l2-l3). Cuối thời gian này, Xa-tan ba lần cám
dỗ Ðức Giê-su hòng lung lạc thái độ con thảo
của Người đối với Thiên Chúa. Ðức
Giê-su đẩy lui những cuộc tấn công ấy,
được xem như thu tóm các cám dỗ của A-đam
trong vườn địa đàng và của Ít-ra-en trong
hoang địa. Ma quỷ bỏ Người mà đi,
"để trởlại vào thời giờ đã
định" (Lc 4, l3).
539 (397 609) Các tác giả Tin Mừng cho
thấy ý nghĩa cứu độ của biến cố
huyền nhiệm này. Ðức Giê-su là A-đam mới, vẫn
trung thành trong khi A-đam cũ sa ngã. Ðức Giê-su chu toàn
ơn gọi của Ít-ra-en : khác hẳn với dân xưa
kia đã thách thức Thiên Chúa suốt 40 năm trong hoang
địa (x. Tv 95, l0), Ðức Giê-su tỏ ra mình là
Người Tôi Tớ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Như thế, Ðức Giê-su toàn thắng ma quỷ :
Người đã "trói kẻ mạnh" và thu lại
tài sản nó đã cướp (Mc 3, 27). Việc Ðức
Giê-su chiến thắng tên cám dỗ trong hoang địa
thể hiện trước chiến thắng trong cuộc
khổ nạn khi Người tuyệt đối vâng
phục Chúa Cha với tình con thảo.
540 (2119 519, 2849 1438) Cơn cám dỗ cho thấy cách
thế Con Thiên Chúa thực hiện chức năng Mê-si-a,
khác hẳn đề nghị của Xa-tan và mong muốn
của con người (x. Mt l6, 2l-23). Vì chúng ta, Ðức Ki-tô
đã chiến thắng tên cám dỗ : "Bởi vì
thượng tế của chúng ta không phải là Ðấng
không biết cảm thông những nỗi yếu hèn của
chúng ta, vì Người đã chịu thử thách về
mọi phương diện cũng như chúng ta, nhưng
không phạm tội" (Dt 4, l5). Hằng năm, bằng 40
ngày Mùa Chay, Hội Thánh kết hiệp với mầu
nhiệm Ðức Giê-su trong hoang địa.
"Nước
Thiên Chúa đã gần kề"
541 (2816 763 669, 768 865) "Sau khi ông Gio-an bị bắt
giam, Ðức Giê-su đến miền Ga-li-lê, rao giảng Tin
mừng của Thiên Chúa. Người nói : "Thời
kỳ đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến
gần. Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc
l, l5). "Ðể chu toàn Thánh ý Chúa Cha, Ðức Ki-tô đã khai
nguyên nước Trời nơi trần gian" (LG 3). Và
đây là thánh ý Chúa Cha : "Nâng loài người lên tham
dự đời sống Thiên Chúa"(LG 2) bằng cách quy
tụ mọi người quanh Con của Người,
Ðức Giê-su Ki-tô. Sự quy tụ này, chính là Hội Thánh, là
"mầm mống và là khai nguyên của Nước Thiên
Chúa" trên trần gian (LG 5).
542 (2233 789) Ðức Ki-tô là trung
tâm của đoàn người được quy tụ
trong gia đình Thiên Chúa. Người triệu tập họ
quanh Người bằng lời nói, bằng những
dấu chỉ chứng tỏ nước Thiên Chúa đang
hiện diện, bằng việc sai phái các môn đệ.
Người sẽ làm cho Vương Quốc Người
hiển trị bằng mầu nhiệm Vượt Qua
của Người: cái chết trên Thập Giá và Phục
Sinh. "Phần tôi, một khi được đưa
cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi
người đến với tôi" (Ga l2, 32). Mọi
người đều được mời gọi
kết hiệp với Ðức Ki-tô (x. LG 3).
Ðức
Giê-su loan báo Nước Thiên Chúa
543 (764) Mọi người đều
được mời gọi gia nhập Nước Thiên
Chúa. Vương Triều của Ðấng Mê-si-a trước
tiên được loan báo cho con cái Ít-ra-en (x. Mt l0, 5-7),
nhưng cũng để tiếp nhận mọi dân
tộc (x. Mt 8, ll; 28, l9). Ðể được vào
Nước Thiên Chúa, con người phải đón nhận
lời của Ðức Giê-su :
Lời
Chúa ví như hạt giống gieo trong ruộng : ai tin nghe
Lời Chúa và gia nhập đàn chiên nhỏ của Ðức
Ki-tô thì đã đón nhận chính nước Người;
rồi tự sức mình, hạt giống nẩy mầm và
lớn lên cho tới mùa gặt (x. LG 5).
544
545 (1443,
546 (2613 542) Ðức Giê-su đã dùng các dụ
ngôn kêu gọi mọi người vào Nước Trời.
Dụ ngôn là nét tiêu biểu trong cách giảng dạy của
Người (x. Mc 4, 33-34). Qua các dụ ngôn, Người
mời họ dự tiệc Nước Trời (x. Mt 22,
l-l4), nhưng cũng đòi họ phải có một
chọn lựa triệt để : phải "cho đi
tất cả" để có được Nước
Trời (x. Mt l3, 44-45) lời nói suông chưa đủ,
cần phải hành động (x. Mt 2l, 28-32). Các dụ ngôn
như những tấm gương nhờ đó con
người nhận diện chính mình : đón nhận
Lời như mảnh đất khô khan hay mảnh
đất mầu mỡ? (x. Mt l3, 3-9) làm gì với những
nén bạc đã nhận? (x. Mt 25, l4-30). Ðức Giê-su và
sự hiện diện của Nước Trời giữa
thế gian là trọng tâm của các dụ ngôn. Phải
trở nên môn đệ Ðức Ki-tô mới "thấu
hiểu các mầu nhiệm Nước Trời" (Mt l3,
ll); còn đối với "người ngoài" (Mc 4, ll)
mọi sự đều bí ẩn (Mt 13, 10-15).
Các
dấu chỉ Nước Thiên Chúa
547 (670 439) Kèm theo lời nói,
Ðức Giê-su đã làm "những phép mầu, điềm
thiêng và dấu lạ" (Cv 2, 22) để chứng
tỏ Nước Trời đang hiện diện nơi Người
và Người chính là Ðấng Mê-si-a được tiên báo (x.
Lc 7, l8-23).
548
549 (1503 440) Khi giải thoát
một số người khỏi những đau khổ
đời này như đói khát (x. Ga 6, 5-l5), bất công (x.
Lc l9, 8), tật bệnh và cái chết (x. Mt ll, 5), Ðức
Giê-su chứng tỏ Người là Ðấng Mê-si-a. Tuy nhiên,
Người không đến để tiêu diệt mọi
khổ đau ởtrần gian này (x. Lc l2. l3. l4; Ga l8, 36),
nhưng để giải phóng con người khỏi
kiếp nô lệ lầm than nhất, đó là nô lệ
tội lỗi (x. Ga 8, 34-36). Thứ nô lệ này ngăn
cản họ làm con Thiên Chúa, cũng như gây ra mọi hình
thức nô lệ hóa con ngưòi.
550
"Chìa khóa Nước
Trời"
551 (858 765) Ngay khi bắt đầu
đời sống công khai, Ðức Giê-su chọn Nhóm
Mười Hai để các ông cùng ở với
Người và chia sẻ sứ mạng với
Người (x. Mc 3, l3-l9). Người ban cho họ dự
phần vào uy quyền của Người và "sai họ
đi loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh
nhân" (Lc 9, 2). Họ sẽ vĩnh viễn liên kết
với Nước Ðức Ki-tô, bởi vì Người
sẽ nhờ họ mà điều hành Hội Thánh.
"Thầy sẽ ban
quyền cai trị cho anh em; như Cha Thầy đã ban cho
Thầy, anh em được đồng bàn ăn uống
với Thầy trên vương quốc của Thầy, và
ngự trên tòa xét xử l2 chi tộc Ít-ra-en" (Lc 22, 29-30).
552 (880, 153 442 424) Trong nhóm Mười Hai, Xi-mon Phê-rô
giữ vị trí hàng đầu (x. Mc 3, l6; 9, 2; Lc 24, 34; lCr.
l5, 5). Ðức Giê-su ủy thác cho ông sứ mạng
độc nhất vô nhị. Nhờ Chúa Cha mặc
khải, Phê-rô tuyên xưng "Thầy là Ðấng Ki-tô, Con
Thiên Chúa hằng sống". Bấy giờ Chúa liền
tuyên bố "Anh là Phê-rô nghĩa là Tảng Ðá, trên Tảng
Ðá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và
quyền lực tử thần sẽ không thắng
nổi" (Mt l6, l8). Ðức Ki-tô, "Viên đá
sống" (l Pr 2, 4), bảo đảm Hội Thánh mà
Người xây dựng trên Tảng Ðá Phê-rô, sẽ chiến
thắng quyền lực tử thần. Vì đức tin
ông đã tuyên xưng, Phê-rô sẽ là Tảng Ðá kiên vững
của Hội Thánh. Ông có sứ mạng bảo toàn đức
tin ấy khỏi suy suyển và củng cố đức
tin của anh em (x. Lc 22. 32).
553
Nếm trước hạnh
phúc Nước Trời : Chúa Hiển Dung
554 (697, 2600 444) Từ ngày
Phê-rô tuyên xưng Ðức Giê-su là Ðấng Ki-tô, Con Thiên Chúa
hằng sống, Ðức Giê-su "bắt đầu tỏ
cho các môn đệ biết Người sẽ phải
đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ...
rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ
sống lại" (Mt l6, 2l). Phê-rô không chấp nhận
điều đó (x. Mt. l6, 22-23), các môn đệ khác
cũng không hiểu gì hơn (x. Mt l7, 23; Lc 9, 45). Chính trong bối
cảnh này, đã xảy ra biến cố kỳ diệu :
Ðức Giê-su hiển dung trên núi (x. Mt l7, l-8. par; 2 Pr. l, l6-l8),
trước mặt ba nhân chứng do Người lựa
chọn là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Dung mạo và y phục
của Ðức Giê-su trở nên chói sáng, ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện
ra "nói với Người về cuộc ra đi
Người sẽ phải hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem" (Lc
9, 3l). Một đám mây bao phủ các Ngài và có tiếng
từ trời phán : "Ðây là Con Ta, người đã
được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời
Người" (Lc 9, 35).
555 (2576, 2583 257) Ðức Giê-su tỏ lộ vinh quang
mình trong chốc lát, và như vậy xác nhận lời tuyên
xưng của thánh Phê-rô. Người cũng cho thấy
để "được hưởng vinh quang" (Lc
24, 26), Người phải kinh qua thập giá tại
Giê-ru-sa-lem. Ông Mô-sê và Ông Ê-li-a đã thấy vinh quang Thiên Chúa
trên Núi. Lề luật và các Ngôn sứ đã loan báo Ðấng
Mê-si-a phải chịu nhiều đau khổ (Lc 24, 27).
Cuộc khổ nạn của Ðức Giê-su đúng là ý
muốn của Chúa Cha: Chúa Con hành động như
Người Tôi Tớ Thiên Chúa (x. Is 42, l) đám mây nói lên
sự hiện diện của Chúa Thánh Thần: "Cả
Ba Ngôi xuất hiện : Chúa Cha qua tiếng nói, Chúa Con nơi
con người, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói"
(T. Tô-ma A-qui-nô tổng luận thần học 3, 45, 4, ad 2.).
"Lạy Chúa Ki-tô, Ngài đã
hiển dung trên núi, và các môn đệ chiêm ngắm vinh quang
Ngài tùy khả năng mình, để mai sau khi thấy Ngài
chịu đóng đinh Thập Giá, họ hiểu rằng
Ngài đã tự nguyện chịu khổ hình. Rồi
họ sẽ loan báo cho muôn dân biết Ngài chính là vinh quang Cha
chiếu tỏa" (Phụng vụ By-dan-tin, thánh ca lễ
Hiển Dung).
556 (1003) Phép Rửa mở đầu
đời sống công khai. Hiển Dung mở đầu
cuộc Vượt Qua. Qua phép rửa của Ðức Giê-su,
"mầu nhiệm cuộc tái sinh lần thứ nhất
của chúng ta" được tỏ hiện : đó là
bí tích Thánh Tẩy. Hiển Dung là "mầu nhiệm
cuộc tái sinh lần thứ hai" : đó là phục sinh
của chính chúng ta (T. Tô-ma A-qui-nô 3, 45, 4 ad. 2). Ngay từ bây giờ,
chúng ta thông phần vào cuộc Phục Sinh của Chúa,
nhờ Chúa Thánh Thần hoạt động, trong các Bí tích
của Thân Mình Ðức Ki-tô. Biến cố Hiển Dung cho
phép chúng ta nếm trước cuộc quang lâm vinh hiển
của Ðức Giê-su, "Người sẽ biến
đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân
xác vinh hiển của Người" (Pl 3, 2l). Nhưng
biến cố ấy cũng nhắc nhở chúng ta :
"Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được
vào Nước Thiên Chúa" (Cv l4, 22).
Khi Phê-rô ước ao sống
với Ðức Ki-tô trên núi, ông chưa hiểu gì (x. Lc 9, 33).
Hỡi Phê-rô, Chúa sẽ dành cho ông diễm phúc này sau khi
chết mà thôi. Còn hiện nay thì Chúa nói : Hãy xuống núi
để chịu cực nhọc ở trần gian,
để phục vụ ở trần gian, để
chịu sỉ nhục, chịu đóng đinh ở
trần gian. Ðấng là Sự Sống đã xuống
để bị giết chết; Ðấng là Bánh đã
xuống để chịu đói; Ðấng là Ðường
đã xuống để chịu mệt nhọc trên
đường lữ hành; Ðấng là Nguồn Suối đã
xuống để chịu cơn khát; còn ông lại từ
chối gian lao ư (T. Âu-tinh, bài giảng 78, 6)?
Ðức
Giê-su lên Giê-ru-sa-lem
557
"Khi đã tới ngày Ðức Giê-su được
đưa ra khỏi thế gian, Người nhất
quyết đi lên Giê-ru-sa-lem" (Lc 9, 5l) (x. Ga l3, l). Khi
nhất quyết như thế, Ðức Giê-su muốn nói là Người
lên Giê-ru-sa-lem để sẵn sàng chịu chết ở
đó. Người loan báo đến ba lần cuộc
Khổ Nạn và Phục Sinh của Người (x. Mc 8,
3l-33; 9, 3l-32; l0, 32-34). Khi tiến về Giê-ru-sa-lem,
Người nói : "Chẳng lẽ một ngôn sứ
lại chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem!" (Lc l3, 33).
558
Ðức Giê-su gợi lại việc các ngôn sứ
đã bị giết ở Giê-ru-sa-lem (x. Mt 23, 27a). Dù sao,
Người vẫn kiên trì kêu gọi Giê-ru-sa-lem tập
hợp quanh Người : "Ðã bao lần Ta muốn
tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ
tập hợp gà con dưới cánh ... mà các ngươi
không chịu" (Mt 23, 37b). Khi nhìn thấy Giê-ru-sa-lem,
Người khóc thương nó và thốt lên một lần
nữa ước muốn của lòng Người :
"Phải chi hôm nay cả ngươi nữa cũng
hiểu được sứ điệp bình an cho
ngươi! Nhưng hiện giờ mắt ngươi
không thấy được" (Lc l9, 4l-42).
Ðức
Giê-su khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem như Ðấng Mê-si-a
559 (333, 132) Giê-ru-sa-lem sẽ đón nhận
Ðấng Mê-si-a của mình như thế nào? Trong khi Ðức
Giê-su trốn tránh mọi ý đồ của dân chúng
muốn tôn Người làm vua (x. Ga 6, l5) thì Người
lại chọn thời điểm và chuẩn bị
mọi chi tiết chuyến vào Giê-ru-sa-lem, thành phố
của "Ða-vít, Cha của Người" (Lc l, 32) (x. Mt
2l, l-ll) với tư cách là Ðấng Mê-si-a. Người
được dân chúng hoan hô như con vua Ðavit, Ðấng mang
lại ơn cứu độ (Hosanna có nghĩa là "Xin
cứu chúng con", "Xin ban ơn cứu
độ!"). Nhưng "Vua Vinh hiển" (Tv 24, 7-l0)
lại "ngồi trên lưng lừa con" (Dcr 9, 9)
tiến vào thành. Người không chinh phục Nữ Tử
Xi-on bằng mưu mẹo hay bằng bạo lực,
nhưng bằng sự khiêm nhường, chứng từ
của Chân lý. Vì thế ngày hôm đó, thần dân vây quanh (x.
Ga l8, 37) Người là trẻ con (x. Mt 2l, l5-l6; Tv 8, 3) và
"những người nghèo của Thiên Chúa", tung hô
Người như các thiên thần đã loan báo
Người cho các mục đồng (x. Lc l9, 38; 2, l4)
Lời tung hô : "Chúc tụng Ðấng ngự đến
nhân danh Chúa" (Tv ll8, 26) được Hội Thánh sử
dụng trong kinh "Thánh! Thánh! Thánh!", để mở
đầu nghi thức tưởng niệm cuộc
Vượt Qua của Chúa.
560 (550, 2816 1169) Việc Ðức Giê-su khải hoàn
vào Giê-ru-sa-lem loan báo Nước Thiên Chúa đến,
Nước mà Ðức Vua Mê-si-a sắp thực hiện
bằng Vượt Qua từ cái chết đến
phục sinh của Người. Hội Thánh long trọng
khai mạc Tuần Thánh với việc cử hành biến
cố Ðức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem ngày Chúa Nhật Lễ Lá.
TÓM
LƯỢC
56l
"Tất cả cuộc đời Ðức Ki-tô là
một giáo huấn liên tục : Người thinh lặng,
hành động, cầu nguyện, yêu thương con
người, ưu ái kẻ bé mọn và người nghèo,
chấp nhận hiến tế trọn vẹn trên Thập
Giá để cứu chuộc thế gian, Phục Sinh...
tất cả là để hiện thực Lời
Người và hoàn tất Mặc Khải" (CT 9).
562
Các môn đệ Chúa Ki-tô phải nên đồng hình
đồng dạng với Người cho đến khi
Người được hình thành trong họ (x. Gl 4, 19). "Vì
thế, chúng ta được đảm nhận vào các
mầu nhiệm cuộc sống của Người,
trở nên giống Người, cùng chết và sống
lại với Người, cho đến khi cùng cai trị
với Người" (LG 7).
563
Là mục đồng hay đạo sĩ,
người ta cũng chỉ gặp được Thiên
Chúa ở đời này, khi quỳ xuống trước
máng cỏ Bê-lem và thờ lạy Thiên Chúa ẩn mình nơi
một trẻ thơ yếu đuối.
564
Khi tuân phục Ðức Ma-ri-a và thánh Giu-se cũng như
khiêm nhu lao động trong những năm dài ở Na-da-rét,
Ðức Giê-su nêu gương thánh thiện cho chúng ta trong
cuộc sống gia đình và lao động hằng ngày.
565
Ngay khi bắt đầu đời sống công khai,
lúc chịu phép rửa, Ðức Giê-su là "Người Tôi
Tớ" hoàn toàn hiến dâng cho công trình cứu độ
sẽ được hoàn tất trong "phép rửa"
là cuộc khổ nạn.
566
Cơn cám dỗ trong hoang địa cho thấy Ðức
Giêsu, Ðấng Mê-si-a khiêm nhu, chiến thắng Xa-tan nhờ
gắn bó trọn vẹn với ý định cứu
độ của Chúa Cha.
567
Ðức Ki-tô đã khai mạc Nước Trời
dưới thế. "Nước này chiếu sáng
trước mặt mọi người qua lời nói, hành
động và sự hiện diện của Chúa Ki-tô"
(LG 5). Hội Thánh là mầm và khởi đầu của
Nước Trời. Chìa khóa Nước Trời
được trao cho Phê-rô.
568
Cuộc Hiển Dung của Chúa Ki-tô nhằm mục
đích củng cố đức tin của các tông
đồ trước cuộc khổ nạn : việc leo
lên "núi cao" chuẩn bị việc leo lên Núi Sọ.
Ðức Ki-tô, Ðầu của Hội Thánh, bày tỏ
"niềm hy vọng đạt tới vinh quang" mà
Thân Thể Người ấp ủ và chiếu tỏa qua
các bí tích (Cl l, 27) (x. T. Lê-ô cả, bài giảng 5l, 3).
569
Ðức Giê-su tự nguyện lên Giê-ru-sa-lem dù biết
rằng tại đây Người sẽ phải chết
khổ nhục vì sự thù nghịch của những
kẻ tội lỗi (x. Dt l2, 3).
570
Việc Ðức Giê-su khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem cho
thấy Nước Trời đến. Ðức Vua Mê-si-a mà
trẻ thơ và những ngưòi có tâm hồn nghèo khó nghênh
đón, sẽ hoàn tất Nước Trời bằng
cuộc Vượt Qua từ Khổ Nạn đến
Phục Sinh của Người .