Mục
4
"Đức
Giê-su Ki-tô đă chịu nạn đời Phong-xi-ô Phi-la-tô,
chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác"
571 (1067) Mầu nhiêm
Vượt Qua từ Thập Giá đến Phục Sinh
của Chúa Ki-tô là trọng tâm Tin Mừng mà các tông
đồ và Hội Thánh tiếp nối các ngài, phải loan
báo cho thế giới cái chết của Thánh Tử Giê-su
Ki-tô đă hoàn tất ư định cứu độ
của Thiên Chúa "một lần dứt khoát" (Dt 9,
26).
572 (599) Hội
Thánh vẫn trung thành với cách "giải thích toàn bộ
Thánh Kinh" mà chính Đức Giê-su đă đưa ra
trước cũng như sau cuộc Vượt Qua : "Nào Đấng Ki-tô lại chẳng
phải chịu đau khổ như thế, rồi
mới được hưởng vinh quang dành cho
Người sao?" (Lc 24, 26-27, 44-45). Những khổ
đau của Đức Giê-su mang dấu chứng lịch
sử cụ thể v́ Người đă "bị các
kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại
bỏ" (Mc 8, 31); họ đă "nộp Người
cho dân ngoại nhạo báng, đánh đ̣n và đóng đinh
vào thập giá" (Mt 20, 19).
573 (158) Để
hiểu rơ hơn ư nghĩa của việc cứu chuộc,
chúng ta cố gắng t́m hiểu kỹ càng các t́nh tiết
về cái chết của Đức Giê-su, đă được
các sách Tin Mừng (x. DV 19)trung thành
truyền lại và được các nguồn lịch
sử khác soi sáng.
Tiết 1: Đức Giê-su và
Ít-ra-en
574 (530 591)
Ngay từ đầu sứ vụ công khai của
Đức Giê-su, những người Pha-ri-sêu và nhóm
Hê-rô-đê, cùng với các tư tế và kinh sư đă toa
rập với nhau để hại Người (x. Mc 3, 6).
V́ một số hành động của Người
(trừ quỉ (x. Mt 12, 24); tha tội (x. Mc 2, 7); chữa
bệnh ngày sa-bát (x. Mc 3, 1-6); giải thích độc đáo
những giới luật thanh sạch (x. Mc 7, 14-23); thân
thiện với những người thu thuế và kẻ
tội lỗi công khai (x. Mc 2, 14-17)), mà nhiều
người có ư xấu nghi ngờ Người bị
quỉ ám (x. Mc 3, 22; Ga 8, 48; 10, 20). Họ buộc tội
Người là kẻ phạm thượng (x. Mc 2, 7; Ga 5,
18; 10, 33)và là ngôn sứ giả (x. Ga 7, 12;
7, 52); đây là những tội thuộc lănh vực tôn giáo
mà theo Luật Mô-sê, phải bị xử tử bằng cách
ném đá (x. Ga 8, 59; 10, 31).
575 (993) Không
phải đa số dân Thiên Chúa (Ga 7, 48-49), nhưng chủ
yếu là các nhà chức trách tôn giáo tại Giê-ru-sa-lem,
những người mà Tin Mừng Thánh Gio-an thường
gọi là "người Do Thái" (x. Ga 1, 19; 2, 18; 5, 10;
7, 13; 9, 22; 18, 12; 19, 38; 20, 19), đă coi nhiều hành
động và lời nói của Đức Giê-su là "dấu
hiệu chống đối" (Lc 2, 34) (x. Ga 7, 48-49).
Giữa Chúa Giê-su với nhóm Pha-ri-sêu không phải chỉ có
luận chiến. Chính những người Pha-ri-sêu đă
báo trước cho Người mối nguy đang đe
dọa Người (x. Lc 13, 31). Đức Giê-su ca tụng
một số Pha-ri-sêu như kinh sư trong Mc 12, 34, và
Người cũng nhiều lần dùng bữa tại nhà
họ. Đức Giê-su chuẩn nhận những giáo huấn
thịnh hành nơi nhóm ưu tú tôn giáo này của dân Chúa:
việc kẻ chết sống lại, những h́nh
thức đạo đức (bố thí, giữ chay và
cầu nguyện), và thói quen gọi Thiên Chúa là cha, tính cách
trọng tâm của giới răn mến Chúa yêu
người.
576 Đối
với nhiều người Ít-ra-en, Đức Giê-su xem ra hành
động nghịch với những định chế
cơ bản của Dân Chúa như :
·
-Việc tuân
phục Lề Luật, gồm tất cả những
giới luật thành văn không trừ luật nào, và theo
nhóm Pha-ri- sêu, gồm cả những lời giải thích
truyền khẩu nữa;
·
-Vị trí trung
tâm của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem như nơi thánh,
nơi Thiên Chúa ngự cách đặc biệt;
·
-Đức tin vào
Thiên Chúa duy nhất mà không ai có thể chia sẻ vinh quang
với Người.
I. ĐỨC GIÊ-SU
VÀ LỀ LUẬT
577 (1965) Trong Bài Giảng Trên
Núi, Đức Giê-su bày tỏ lập trường của ḿnh
đối với Luật Cũ dưới ánh sáng ân
sủng của Luật Mới. Người cảnh giác :
1967 "Anh
em đừng tưởng Thầy đến để băi
bỏ Luật Mô-sê hoặc giáo huấn của các ngôn
sứ. Thầy đến không phải để băi
bỏ, nhưng là để kiện toàn. V́, Thầy bảo
thật anh em, trước khi trời đất qua đi,
và cho đến khi mọi sự được hoàn thành,
th́ một chấm một phết trong sách Luật cũng
không thể bỏ đi được. Vậy ai vi
phạm dù chỉ là một trong những điều
luật nhỏ nhất này, và dạy kẻ khác làm như
thế, th́ sẽ được coi là người nhỏ
nhất trong Nước Trời. C̣n ai tuân giữ, và
dạy kẻ khác làm như thế, th́ sẽ
được coi là người lớn nhất trong
Nước Trời" (Mt 5, 17-19).
578 (1953) Theo
Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en, người
lớn nhất trong Nước Trời phải chu toàn
Lề Luật bằng cách thi hành trọn vẹn, ngay
cả trong các điều luật nhỏ nhất. Thật
ra, Người là Đấng duy nhất có thể làm
điều này một cách trọn hảo. Chính Người
Do Thái thú nhận không thể chu toàn được Lề
Luật mà không vi phạm điều luật nhỏ nào. V́
thế trong lễ Xá Tội hằng năm, con cái Ít-ra-en xin
lỗi Thiên Chúa về những vi phạm Lề Luật.
Lề Luật họp thành một khối thống
nhất; thánh Gia-cô-bê nhắc nhở, "ai tuân giữ
tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngă về một
điểm thôi, th́ cũng thành người có tội
về hết mọi điểm" (Gcb 2, 10).
579 Nhóm
Pha-ri-sêu tha thiết với nguyên tắc tuân giữ toàn
bộ Lề Luật này, không những sát mặt chữ mà
cả trong tinh thần nữa. Khi nêu nguyên tắc đó cho
Ít-ra-en, họ đă đưa nhiều người Do Thái
thời Đức Giê-su, đến một ḷng đạo
cực đoan. Ḷng đạo này, nếu không biến thành
một thứ luân lư biện luận (Casuistique) "giả
h́nh", th́ có thể chuẩn bị Dân Chúa đón nhận
sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa: Đấng Công
Chính duy nhất sẽ thực hiện Lề Luật cách
trọn hảo thay cho mọi kẻ tội lỗi.
580 (527) Chỉ
có Con Thiên Chúa, Đấng ban hành Lề Luật, sinh làm
người sống dưới Lề Luật mới có
thể chu toàn lề luật cách trọn hảo (x. Gl 4, 4).
Nơi Đức Giê-su, Lề Luật không c̣n được ghi
trên bia đá, nhưng "trong đáy ḷng" (Gr 31, 33)
của Người Tôi Tớ được đặt làm
"giao ước với dân" (Is 42, 6), v́ Người
đă "trung thành làm sáng tỏ công lư" (Is 42, 3). Đức
Giê-su chu toàn Lề Luật đến nổi gánh lấy
"lời nguyền rủa của Lề Luật" (Gl
3, 13) mà những ai "không thi hành tất cả những ǵ
chép trong sách Luật" (Gl 3, 10) đă chuốc lấy.
"Người lấy cái chết của ḿnh mà chuộc
tội lỗi người ta đă phạm trong thời
giao ước cũ" (Dt 9, 15).
581 (2054) Trước
mắt người Do Thái cũng như các nhà lănh
đạo tinh thần của họ, Đức Giê-su xuất
hiện như một vị "Ráp-bi" (x. Ga 11, 28; 3, 2;
Mt 22, 23-24; 34-36). Người thường lư luận trong
khuôn khổ cách giải thích Luật của các Ráp-bi.
Nhưng đồng thời, Đức Giê-su cũng va chạm
đến những luật sĩ v́ Người không
chỉ đưa ra cách giải thích luật của
Người, nhưng "c̣n giảng dạy như một
Đấng có thẩm quyền chớ không như các luật
sĩ" (Mt 7, 28-29). Nơi Người, chính Lời
của Thiên Chúa đă từng vang dội trên núi Xi-nai
để ban hành Lề Luật cho Mô-sê, nay lại vang
dội trên Núi Bát Phúc (x. Mt 5, 1). Lời Thiên Chúa ấy không
băi bỏ, nhưng kiện toàn Lề Luật bằng cách
đưa ra lời giải thích tối hậu của Thiên
Chúa : "Anh em nghe Luật dạy
người xưa rằng ... c̣n Thầy, Thầy bảo
cho anh em biết" (Mt 5, 33-34). Với cùng một thẩm
quyền ấy của Thiên Chúa, Người phủ
nhận một số "truyền thống của
người phàm" (Mc 7, 8) nghĩa là của những
người Pha-ri-sêu "hủy bỏ Lời Thiên Chúa"
(Mc 7, 13).
582 (368
II. ĐỨC
GIÊ-SU VÀ ĐỀN THỜ
583 (529 534) Cũng như các ngôn sứ,
Đức Giê-su, tỏ ra hết ḷng tôn kính Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem. Bốn mươi ngày sau khi sinh (x. Lc 2, 22-39),
Người được thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a đem
dâng trong Đền Thờ. Năm mười hai tuổi,
Người quyết định ở lại trong Đền
Thờ để nhắc cha mẹ nhớ rằng
Người phải ở nhà Cha Người (x. Lc 2, 46-49).
Trong thời ẩn dật, Người lên Đền Thờ
hằng năm ít nhất là trong lễ Vượt Qua (x. Lc
2, 41). Sứ vụ công khai của Người cũng
nhịp theo những cuộc hành hương của
Người lên Giê- ru-sa-lem vào những ngày lễ lớn
của đạo Do Thái (x Ga 2, 13-14; 5, 1, 14; 7, 1, 10, 14; 8, 2;
10, 22-23).
584 (2599) Đức
Giê-su lên Đền Thờ, nơi ưu biệt để
gặp gỡ Thiên Chúa. Đối với Người, Đền
Thờ là nhà của Cha Người, nhà cầu nguyện.
Người phẫn nộ v́ tiền đường
Đền Thờ đă trở thành nơi buôn bán (x. Mt 21, 13).
V́ yêu Cha tha thiết, Người xua đuổi con buôn
khỏi Đền Thờ : "Đừng
biến nhà Cha tôi thành chợ búa". Các môn đệ
của Người nhớ lại lời đă chép trong
Thánh Kinh: "Ḷng nhiệt thành lo việc nhà Chúa, sẽ thiêu
đốt tôi (Tv 69, 10)" (Ga 2, 16-17). Sau khi Người
phục sinh, các tông đồ vẫn một ḷng tôn kính
Đền Thờ (x. Cv 2, 46; 3, 1; 5, 20, 21:vv...).
585 Trước
khi chịu nạn, Đức Giê-su đă loan báo Đền Thờ
sẽ bị tàn phá và không c̣n ḥn đá nào nằm trên ḥn
đá nào (x. Mt 24, 1-2). Đây là dấu chỉ tiên báo thời
cánh chung sẽ khởi đầu với cuộc
Vượt Qua của Người (x. Mt 24, 3, Lc 13, 35).
Những lời tiên báo đó đă bị những kẻ
chứng gian bóp méo, khi vị Thượng Tế thẩm
vấn Đức Giê-su, và sau đó, người ta lại dùng
để nhục mạ Người khi Người
bị đóng đinh trên cây thập giá (x. Mt 27, 39-40).
586
III. ĐỨC
GIÊ-SU VÀ ĐỨC
587 Nếu
Lề Luật và Đền thờ Giê-ru-sa-lem là cơ hội
để các nhà chức trách "chống báng Chúa Giê-su"
(x. Lc 2, 34), th́ thật ra vai tṛ cứu chuộc khỏi
tội lỗi của Người, công tŕnh tuyệt
hảo của Thiên Chúa, mới chính là ḥn đá vấp ngă
cho họ (x. Lc 20, 17-18; Tv. 118, 22).
588 (545) Đức
Giê-su làm cho nhóm Pha-ri-sêu bất b́nh, khi thân mật dùng
bữa với người thu thuế và tội lỗi (x.
Lc 5, 30), y như đă thân mật dùng bữa với họ
(x. Lc 7, 36; 11, 37; 14, 1). Với những người "tự
đắc cho ḿnh là công chính mà khinh chê người khác"
(Lc 18, 9) (x. Ga 7, 49; 9, 34), Đức Giê-su khẳng định : "Tôi đến không phải
để kêu gọi người công chính, nhưng
để kêu gọi người tội lỗi sám hối
ăn năn" (Lc 5, 32). Người c̣n đi xa hơn
nữa, khi tuyên bố trước mặt nhóm Pha-ri-sêu
rằng, mọi người đều có tội (x. Ga 8,
33-36), cho nên ai tự cho ḿnh không cần được
cứu độ thật là đui mù về chính bản thân
(x. Ga 9, 40-41).
589 (431, 1441 432)
Đức Giê-su làm cho người Do Thái bất b́nh
nhất là v́ đă đồng hóa cách xử sự nhân
từ của Người với kẻ tội lỗi là
thái độ của chính Thiên Chúa (x. Mt 9, 13; Hs. 6, 6).
Thậm chí Người c̣n muốn cho họ thấy
rằng khi đồng bàn với kẻ tội lỗi (x.
Lc 15, 1-2), Người đón nhận những người
ấy vào bàn tiệc thời Mê-si-a (x. Lc 15, 23-32). Đặc
biệt khi tha tội, Đức Giê-su dồn các nhà chức
trách của Ít-ra-en vào thế tiến thoái lưỡng nan.
Trong cơn hoảng hốt, họ có lư
khi nêu vấn nạn : "Ngoài một
ḿnh Thiên Chúa ra, ai có quyền tha tội" (Mc 2, 7)? Hoặc
là Đức Giê-su phạm thượng khi tha tội v́ là
người mà dám coi ḿnh ngang hàng với Thiên Chúa (x. Ga 5, 18;
10, 33), hoặc là Người nói đúng, và như vậy,
chính nơi Người, Thiên Chúa hiện diện và mặc
khải danh Thiên Chúa ra (x. Ga 17, 6, 26).
590 (253) Chỉ
với căn tính là Thiên Chúa, Đức Giê-su mới có
quyền đưa ra đ̣i hỏi tuyệt đối :
"Ai không theo tôi, là chống lại tôi" (Mt 12, 30); hay
tuyên bố : "ở đây có người c̣n hơn ông
Giô-na nữa, ... c̣n hơn vua Xa-lô-mon nữa" (Mt 12,
41-42), "hơn cả Đền Thờ nữa" (Mt 12, 6);
cũng như khi nhắc lại lời Đa-vít đă gọi
Đấng Mê-si-a là Chúa của ông (x. Mt 12, 36-37); Người
khẳng định : "Trước khi có tổ phụ
Áp-ra-ham, vẫn có tôi " (Ga 8, 58); thậm chí Người
c̣n nói : "Tôi và Chúa Cha là một" (Ga 10, 30).
591 (526 574)
Đức Giê-su đ̣i buộc các nhà chức trách tôn giáo
của Giê-ru-sa-lem phải tin vào Người v́ Người
đă chu toàn những công việc của Chúa Cha (x. Ga 10,
36-38). Muốn tin như vậy, phải chết đối
với bản thân, để được "sinh ra
từ trời cao" (Ga 3, 7) dưới tác động
của ơn thánh (x. Ga 6, 44). Một đ̣i hỏi hoán
cải quá gay gắt như vậy đối diện
với việc thực hiện các lời hứa cách
lạ lùng (x. Is 53, 1) giúp chúng ta có thể hiểu
được sự sai lầm bi đát của Công
Nghị Do Thái (Sanhédrim) khi phán quyết Chúa Giê-su đáng
chết v́ phạm thượng (x. Mc 3, 6; Mt 26, 64-66). Họ
hành động như vậy v́ "không biết việc
họ làm" (x. Lc 23, 34; Cv 3, 17-18) và v́ "ḷng chai
đá" (Mc 3, 5; Rm 11, 25) mà "cứng tin" (Rm 11, 20).
TÓM LƯỢC
592 Đức
Giê-su không hủy bỏ Lề Luật núi Xi-nai, nhưng
đă kiện toàn (x. Mt 5, 17-19) cách tuyệt hảo (x. Ga 8,
46): Người mặc khải ư nghĩa tối hậu (x.
Mt 5, 33) của Lề Luật và chuộc tội lỗi
người ta đă phạm đối với Lề
Luật (x. Dt 9, 15).
593 Đức
Giê-su tôn kính Đền Thờ : Người
lên Đền Thờ vào những dịp lễ hành hương
của Do Thái và Người yêu nơi Thiên Chúa cư ngụ
giữa loài người này với một t́nh yêu tha thiết.
Đền Thờ báo trước mầu nhiệm của
Người. Người loan báo Đền Thờ bị phá
hủy là để tỏ cho biết chính Người
sẽ bị giết và lịch sử cứu độ
bước vào thời đại mới, trong đó Thân Thể
Người sẽ là Đền Thờ vĩnh viễn.
594 Đức
Giê-su có những hành vi như việc tha tội tỏ ra
Người là chính Thiên Chúa Cứu Độ (x. Ga 5, 16-18). Một
số người Do Thái không nh́n nhận Người là
Thiên Chúa Làm Người, chỉ thấy Người "là
một phàm nhân mà lại tự cho ḿnh là Thiên Chúa" (Ga 10,
33), nên đă kết tội Người là phạm
thượng.