I. BỞI PHÉP CHÚA THÁNH THẦN
MÀ NGƯỜI XUỐNG THAI...
484 (461 721)
Biến cố truyền tin cho Đức Ma-ri-a
mở đầu "thời viên măn" (Gl 4, 4), nghĩa
là thời thực hiện những ǵ Thiên Chúa đă hứa
và chuẩn bị từ trước. Đức Ma-ri-a
được mời gọi hoài thai
Đấng mang nơi thân xác ḿnh "tất cả sự viên
măn của thiên tính" (Cl 2, 9). Câu hỏi của Mẹ
"việc ấy sẽ xảy ra cách nào, v́ tôi không
biết đến việc vợ chồng
?" (Lc l, 34) đă được thiên sứ
giải thích bằng quyền năng Thánh Thần
: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà"
(Lc l, 35).
485 (689, 723)
Sứ mạng của Chúa Thánh Thần bao giờ
cũng kết hợp nhịp nhàng với sứ mạng
của Chúa Con (x. Ga l6, l4-l5). Thánh Thần được
cử đến để thánh hoá cung ḷng Đức Trinh
Nữ Ma-ri-a và làm cho Mẹ thụ thai
cách kỳ diệu. Bởi Người là "Chúa và là
Đấng ban sự sống", Người ban cho Mẹ
thụ thai Con hằng hữu của Chúa Cha, trong một
nhân tính bắt nguồn từ nhân tính của Mẹ.
486 (437) Con Một của Chúa
Cha ngay từ khi tượng thai làm người trong cung
ḷng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, đă là "Ki-tô"
nghĩa là Đấng được Thánh Thần xức
dầu (x. Mt l, 20; Lc l, 35), cho dù Người chỉ tỏ
ḿnh từng bước cho các mục đồng (x. Lc 2,
8-20), các đạo sĩ (x. Mt 2, l-l2), cho Gio-an Tẩy
giả (x. Ga l, 3l-34), cho các môn đệ (x. Ga 2, ll). Như
vậy, trọn cuộc đời của Đức Ki-tô
tỏ cho thấy "Thiên Chúa đă dùng Thánh Thần và
quyền năng mà xức dầu tấn phong Người
như thế nào" (Cv l0, 38).
II. SINH BỞI BÀ MA-RI-A ĐỒNG
TRINH
487 (963) Những ǵ Hội Thánh
Công Giáo tin về Đức Ma-ri-a đều đặt
nền tảng trên những ǵ Hội Thánh tin về Đức
Ki-tô, nhưng đồng thời giáo huấn về Đức
Ma-ri-a lại soi sáng thêm cho ḷng tin vào Đức Ki-tô.
Đức
Ma-ri-a được tiền định
488 "Thiên
Chúa đă cử Con ḿnh đến trong thế gian" (Gl 4,
4). Nhưng để "tạo một thân xác" (Dt l0, 5) cho Người, Thiên Chúa đă
muốn có sự tự do cộng tác của một thụ
tạo. Với mục đích ấy, từ trước
muôn đời Thiên Chúa đă chọn một
thiếu nữ Ít-ra-en, một cô gái Do Thái, quê tại
Na-da-rét xứ Ga-li-lê, "một trinh nữ đă đính
hôn với một người tên là Giu-se, thuộc ḍng dơi
Đa-vít, trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a" (Lc 1, 26-27)
để làm mẹ của Con Ḿnh.
Chúa Cha rất nhân từ đă muốn sự ưng
thuận của Đấng đă được tiền
định làm Mẹ phải có trước khi Chúa Con
nhập thể, để như một người
nữ đă hợp tác cho sự chết, th́ cũng một
ngừơi nữ hợp tác cho sự sống (LG 56. x. 6l).
489 (722 410 145 64)
Suốt thời Cựu Ước, sứ
mạng của Đức Ma-ri-a đă được chuẩn
bị trước nơi vai tṛ của các phụ nữ
thánh thiện. Từ lúc khởi đầu, là bà E-và : dù bà bất tuân phục, nhưng bà đă
nhận được lời hứa rằng một
hậu duệ của bà sẽ chiến thắng ma quỉ
(x. St 3, l5) và bà sẽ là mẹ của chúng sinh (x. St 3, 20). V́
lời hứa đó, Sa-ra mang thai một
người con trai, dù đă cao niên (x. St l8, l0-l4; 2l, l-2). Khác
với dự đoán của loài người, Thiên Chúa
đă chọn những ǵ bị coi là bất lực và
yếu đuối (x. l Cr l, 27) để chứng tỏ
Người luôn trung thành với lời đă hứa : Han-na, mẹ của Sa-mu-en (x. l Sm
l.), Đê-bô-ra, Rút, Giu-đi-tha và Ét-te và nhiều phụ nữ
khác. Đức Ma-ri-a "vượt trên tất
cả những người khiêm hạ và khó nghèo của
Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và
được Chúa cứu độ. Với Đức
Ma-ri-a, người thiếu nữ Xi-on tuyệt vời sau
thời mong đợi đằng đẵng chờ Thiên
Chúa thực hiện lời hứa, thời gian đă nên
trọn và nhiệm cục mới được thiết
lập" (LG 55).
Vô nhiễm nguyên tội
490 (2676, 2833 2001)
Để làm Mẹ Đấng Cứu thế, Đức
Ma-ri-a "đă được Chúa ban cho nhiều ơn
xứng với nhiệm vụ cao cả ấy" (x. LG
56). Lúc truyền tin, thiên sứ Gáp-ri-en đă chào
Mẹ "là đấng đầy ơn phúc" (x. Lc l,
28). Thật vậy, Mẹ cần được ân
sủng Chúa nâng đỡ để có thể hoàn toàn
tự do trong đức tin mà đáp lại lời loan báo
ơn gọi của Người.
491 (411) Suốt dọc
chiều dài lịch sử, Hội Thánh đă nhận
thức rằng Đức Ma-ri-a, v́ được Thiên Chúa ban
cho "đầy ơn phúc" (Lc l, 28), nên
được cứu chuộc ngay từ lúc tượng
thai. Đó là nội dung tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội
do Đức Pi-ô IX công bố năm l854.
Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Ma-ri-a, đă được
ǵn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay
từ lúc tượng thai, do ân sủng và t́nh thương
đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công
nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô Đấng Cứu Độ
loài người (DS 2803).
492 (2011 1077)
Mẹ có được "sự thánh thiện
tuyệt vời có một không hai" "ngay từ lúc
tượng thai" (x. LG 56> hoàn toàn là do Đức Ki-tô :
Mẹ đă "được cứu chuộc cách kỳ
diệu nhờ công nghiệp Con Mẹ" (x. LG 53). Hơn
bất cứ thụ tạo nào khác, Chúa Cha đă thi ân giáng phúc, cho Mẹ "hưởng muôn vàn
ân phúc của Thánh Thần, từ cơi trời, trong Đức
Ki-tô" (Ep 1, 3). Người "đă chọn
Mẹ trong Đức Ki-tô, trước cả khi tạo thành
vũ trụ, để trước thánh nhan Người,
trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ t́nh
thương của Người" (x. Ep l, 4).
493 Các Giáo
phụ Đông Phương gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng
Rất Thánh (Panaghia) và tôn vinh Mẹ là "Đấng không
hề vương nhiễm một tội nào, như
một thụ tạo mới do Chúa Thánh Thần nắn
đúc và tác tạo" (x. LG 56). Nhờ ân
sủng Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a suốt đời vẫn
tinh tuyền không hề phạm tội riêng nào.
"Xin Chúa làm cho tôi như
lời thiên sứ nói ... "
494 (2617, 148 968) Khi
được loan báo ḿnh sẽ hạ sinh "Con Đấng
Tối Cao", bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (x.
Lc l, 28-37), dù không sống đời vợ chồng,
Đức Ma-ri-a tin chắc chắn rằng : "đối
với Thiên Chúa, không có ǵ là không thể làm
được"; và với "sự vâng phục trong
đức tin" (Rm 1, 5), Mẹ đă đáp lại :
"Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi
như thiên sứ nói" (Lc l, 37-38). Như
vậy, khi ưng thuận lời Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a
trở thành Mẹ Chúa Giê-su. Không bị bất cứ
tội lỗi nào ràng buộc, Mẹ hết ḷng vâng theo ư
muốn cứu độ của Thiên Chúa, tự hiến
hoàn toàn cho Con của Mẹ và sự nghiệp của
Người, để cùng Người và tùy thuộc vào
Người mà phục vụ cho mầu nhiệm Cứu
Chuộc, nhờ ân sủng của Thiên Chúa (x. LG 56).
726 Thánh
I-rê-nê nói : "Nhờ vâng phục, Mẹ đă trở nên
nguyên nhân cứu độ chính ḿnh và toàn thể nhân
loại". Và cùng với Thánh I-rê-nê, rất nhiều giáo
phụ cũng giảng dạy rằng : "Nút dây do
sự bất tuân của bà E-và thắt lại, nay
được gỡ ra nhờ sự vâng phục của
Đức Ma-ri-a; điều mà trinh nữ E-và đă buộc
lại bởi cứng ḷng tin, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a
đă tháo ra nhờ ḷng tin". So sánh Đức Ma-ri-a với
bà E-và, các ngài gọi Đức Ma-ri-a là "Me <139>chúng
sinh", và thường quả quyết rằng:
"Sự chết đột nhập vào trần gian qua
E-và, th́ sự sống đến với con người
nhờ Đức Ma-ri-a" (LG 56). .
Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa
495 (466, 2677) Trong
các sách Tin Mừng, Đức Ma-ri-a được gọi là
"Mẹ Đức Giê-su" (Ga 2, l; l9, 25) (x. Mt l3, 55). Dưới sự thúc đẩy của Thánh
Thần, Mẹ được xưng tụng là
"Mẹ của Chúa tôi" (Lc 1, 43) ngay cả
trước khi Con Mẹ sinh ra. Qua<150> thế
Đấng mà Mẹ cưu mang làm người bởi Thánh
Thần, Đấng thực sự là con Mẹ theo xác phàm, chính
là Con hằng hữu của Chúa Cha, Ngôi Hai trong Ba Ngôi chí
thánh. V́ vậy, Hội Thánh tuyên xưng
Đức Ma-ri-a thực sự là "Mẹ Thiên Chúa"
(Theotokos) (DS 25l).
Đức Ma-ri-a Đồng Trinh
496 Ngay từ những công
thức đức tin đầu tiên (x. DS. l0-64), Hội
Thánh tuyên xưng Đức Giê-su đă tượng thai trong cung
ḷng Trinh Nữ Ma-ri-a chỉ do quyền năng Thánh
Thần, và cũng như vậy, khẳng định khía
cạnh thể lư của biến cố này : Đức Giê-su
được tượng thai "bởi Chúa Thánh
Thần không cần mầm giống nam nhân" (x. Cđ
La-tran năm 649: DS 503). Các Giáo phụ nhận ra việc
thụ thai đồng trinh là dấu
chỉ chính Con Thiên Chúa đă đến mặc lấy
một nhân tính giống như nhân tính chúng ta.
Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-ki-a (đầu thế kỷ II) dạy : "Anh em đă xác tín rằng Chúa
chúng ta, xét theo xác thịt, đích thực là người
thuộc ḍng dơi Đa-vit (x. Rm. l, 3), là Con Thiên Chúa theo ư
định và quyền năng Thiên Chúa (x. Ga l, 13). Người đă thực sự được
một trinh nữ sinh ra. Người
đă thực sự chịu đóng đinh thân xác v́ chúng
ta, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô. Người
đă thực sự chịu khổ h́nh cũng như
đă thực sự Phục Sinh (Smyrn. l-2).
497 Các tŕnh
thuật Tin Mừng (x. Mt l, l8-25: Lc l, 26-38> xem việc
thụ thai đồng trinh như một công tŕnh của
Thiên Chúa, vượt quá tầm hiểu biết và khả
năng nhân loại (x. Lc l, 34). Thiên thần đă nói với
ông Giu-se về Đức Ma-ri-a, hôn thê của ông
: "Người con bà cưu mang là do quyền năng
Thánh Thần" (Mt l, 20). Hội Thánh nh́n nhận đây là
việc Thiên Chúa thực hiện lời hứa qua miệng
ngôn sứ I-sai-a : "Này đây Trinh
Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai" (Is
7, l4), theo ba<150>n dịch Hy lạp của Mt 1, 23.
498 (50 2717) Đôi
lúc, người ta hơi lúng túng v́ sự im lặng của
Tin Mừng Mac-cô và các thư Tân Ước đối
với việc Đức Ma-ri-a thụ thai đồng trinh.
Người ta tự hỏi không biết đây có phải
là huyền thoại hay chỉ là luận điểm
thần học không chứng cớ lịch sử. Về
vấn đề này, chúng ta phải đáp rằng :
đức tin vào việc Mẹ Ma-ri-a thụ thai Chúa Giê-su
mà c̣n đồng trinh, đă bị những kẻ không tin,
bị người Do Thái và lương dân chống
đối mănh liệt, bị chế diễu, bị xuyên
tạc (x. T. Giút-ti-nô tập đối thoại 99, 7):
Ô-ri-gê-nê. chống lại Celsus l, 32. 69> : đức tin đó không do huyền
thoại lương dân hay mô phỏng các ư tưởng
đương thời tạo ra. Ư nghĩa
của biến cố này chỉ có thể hiểu
được nhờ đức tin, khi đức tin nh́n
sự kiện "trong mối dây liên kết các mầu
nhiệm với nhau" (DS 30l6), trong toàn bộ mầu
nhiệm Đức Ki-tô, từ Nhập Thể cho đến
Vượt Qua. Thánh I-nha-ti-ô thành An-ti-ô-ki-a đă
chứng nhận mối dây này :
"Thủ lănh thế gian này đă không hề biết
sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a, việc Chúa
giáng trần và việc Người chịu chết : Ba
mầu nhiệm vang lừng nhưng đă được
Thiên Chúa âm thầm thực hiện" (l Cr. 2, 8) (Ep l9, l).
Đức Ma-ri-a "trọn
đời đồng trinh"
499 Khi đào sâu đức tin
về Đức Mẹ đồng trinh, Hội Thánh đi
đến chỗ tuyên xưng Đức Ma-ri-a thật sự
và trọn đời đồng trinh (DS 427), ngay cả khi
sinh Con Thiên Chúa làm người (x. DS. 29l, 294, 443, 503, 57l,
l880). Thật vậy, việc hạ sinh
Đức Ki-tô "không làm suy giảm nhưng thánh hiến
sự trinh khiết vẹn toàn" của Mẹ (x. LG 57).
Phụng vụ của Hội Thánh luôn tôn vinh
Mẹ là Đấng "trọn đời đồng
trinh" (LG 52).
500 Để phản bác
điều này, đôi khi người ta lư luận rằng
Kinh Thánh có nói đến anh chị em của Đức Giê-su
(x. Mc 3, 3l-35 ; 6, 3; l Cr 9, 5; Gl l, l9). Xưa nay Hội Thánh
vẫn hiểu những đoạn này như sau : chúng không
hề ám chỉ những người con khác của Đức
Trih nữ Ma-ri-a. Gia-cô-bê và Giu-se được gọi là
"anh em của Đức Giê-su" (Mt l3, 55), họ là con
của một môn đệ Đức Giê-su (x. Mt 27, 56> tên là
Ma-ri-a. Bà này được nhắc đến cách cẩn
thận để phân biệt là "Bà Ma-ri-a khác" (Mt 28,
l). Theo lối nói thông dụng trong Cựu Ước,
"anh em" chỉ những người bà con thân
thuộc của Đức Giê-su (x. St l3. 8; l4, l6; 29, l5 vv...).
501 (969 970) Chúa Giê-su là Con một của
Đức Ma-ri-a. Nhưng Đức Ma-ri-a c̣n là mẹ thiêng liêng
(x. Ga l9, 26-27: Kh. l2, l7> của tất cả loài
người được Đức Giê-su cứu độ.
"Người con mà Mẹ sinh ra, Thiên Chúa đă
đặt " làm trưởng tử giữa một
đàn em đông đúc", (Rm 8, 29), nghĩa là các tín
hữu mà Mẹ đă cộng tác vào việc sinh hạ và
giáo dục bằng t́nh thương của một
người mẹ" (LG 63).
Chức năng làm mẹ đồng
trinh của Đức Ma-ri-a trong ư định của Thiên Chúa
502 (90) Khi nh́n toàn bộ
mặc khải với đôi mắt đức tin, chúng ta
có thể khám phá những lư do nhiệm mầu khiến Thiên
Chúa trong ư định cứu độ của Người,
đă muốn rằng Con của Người sinh ra bởi
một trinh nữ. Những lư do này liên hệ đến
con người và sứ mạng cứu chuộc của
Đức Ki-tô, cũng như đến việc Đức Ma-ri-a
đón nhận sứ<151> mạng này cho tất cả
loài người :
503 (422) Sự đồng trinh
của Đức Ma-ri-a cho thấy mầu nhiệm Nhập
Thể hoàn toàn do Thiên Chúa khởi xướng. Đức Giê-su
chỉ có Thiên Chúa là Cha (x. Lc 2, 48-49). "Nhân tính mà
Người đă đảm nhận không hề tách
Người khỏi Chúa Cha. Người là Con của Chúa Cha
theo thiên tính, là con của Mẹ Ma-ri-a theo nhân tính, nhưng
là Con của Thiên Chúa theo hai bản tính" (x. Cđ. Fri-un
năm 796: DS 6l9).
504 (359) Đức Giê-su nhập
thể trong ḷng Trinh Nữ Ma-ri-a bởi phép Chúa Thánh
Thần v́ Người là A-đam mới (x. l Cr. l5, 45>
khởi đầu cho sáng tạo mới : "Người
thứ nhất bởi đất mà ra th́ thuộc về
đất; người thứ hai tự trời mà
đến" (l Cr l5, (47). Ngay từ lúc nhập thể,
nhân tính Đức Ki-tô đă tràn đầy Thánh Thần, v́
Thiên Chúa "ban Thánh Thần cho Người vô ngần vô
hạn" (Ga 3, 34). Chính từ "nguồn sung măn"
của Người, là đầu của nhân loại
được cứu chuộc mà "chúng ta đă lănh
nhận hết ơn này đến ơn khác" (Ga l, l6).
505 (1265) Khi nhập thể
trong ḷng Đức Trinh Nữ, Đức Giê-su, A-đam mới,
đă khởi đầu cuộc sinh hạ mới
những người con được nhận làm nghĩa
tử trong Thánh Thần nhờ đức tin. "Việc
ấy xa<150>y ra cách nào ?" (Lc l, 34) (x. Ga 3, 9). Việc
thông phần vào sự sống Thiên Chúa không phải "do
khí huyết, cũng chẳng phải do ư muốn của xác
thịt, hay ư muốn nam nhân, nhưng do chính Thiên Chúa" (Ga
l, l3). Sự sống mới này được đón
nhận cách trinh khiết, bởi nó hoàn toàn do Thánh Thần
tặng ban cho nhân loại. Con người được
mời gọi kết hiệp với Thiên Chúa như trong
mọi giao ước hôn nhân; ơn gọi này, đă
được thực hiện viên măn nơi Đức Ma-ri-a
làm Mẹ mà vẫn đồng trinh (x. 2 Cr ll, 2).
506 (148, 1814) Đức Mẹ
đồng trinh, v́ sự đồng trinh của Đức
Ma-ri-a là<BI> dấu chỉ đức tin của Mẹ,
một đức tin "không bị mối nghi ngờ nào
làm phai nhạt (LG 63)" và là dấu chỉ tận hiến
trọn vẹn để chu toàn ư định của Thiên
Chúa (x. l Cr 7, 34-35). Chính nhờ đức tin mà Đức
Ma-ri-a trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế :
"Đức Ma-ri-a thật là diễm phúc v́ mẹ đă tin
vào Đức Ki-tô hơn là v́ Mẹ đă cưu mang thân xác
Ngài" (x. T. Âu-tinh, tiểu luật về Đức Trinh
Nữ 3.).
507 (967 149) Đức Ma-ri-a,
vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ, v́ vừa là h́nh
ảnh vừa là sự thể hiện trọn vẹn
của Hội Thánh (x. LG 63). "Hội Thánh, v́ tin
tưởng đón nhận lời Thiên Chúa, nên cũng
được làm Mẹ. Thực vậy, nhờ việc
rao giảng và ban phép rửa, Hội Thánh sinh hạ
những người con được thụ thai bởi
Thánh Thần. Họ được Thiên Chúa sinh ra
để lănh nhận đời sống mới bất
diệt. Hội Thánh cũng là Trinh Nữ, bởi đă
giữ ǵn toàn vẹn và tinh tuyền ḷng trung nghĩa
đối với Phu Quân" (LG 64).
TÓM LƯỢC
508 Trong ḍng dơi bà E-và, Thiên Chúa
đă chọn Đức Trinh Nữ Ma-ri-a làm Mẹ của Con
Ngài. "Mẹ đầy ơn phúc", là "hoa trái
tuyệt vời nhất của công tŕnh cứu
chuộc" (SC l03). Ngay từ giây phút đầu tiên khi
tượng thai, Mẹ đă được hoàn toàn ǵn
giữ khỏi tỳ ố nguyên tội và suốt cả
đời, Mẹ vẫn luôn tinh tuyền không phạm
tội riêng nào.
509 Đức Ma-ri-a thực
sự là "Mẹ Thiên Chúa" v́ là Mẹ của Con Thiên
Chúa làm người, người Con hằng hữu ấy
cũng chính là Thiên Chúa.
5l0 "Dù khi thụ thai hay khi
sinh hạ, khi cưu mang hay khi nuôi con, Đức Ma-ri-a vẫn
đồng trinh, trọn đời đồng trinh"
(x. T. Âu-tinh, bài giảng l86, l). Mẹ trọn vẹn là
"nữ tỳ của Chúa" (Lc l, 38).
5ll Đức Trinh nữ Ma-ri-a
đă "cộng tác vào việc cứu độ nhân
loại, nhờ ḷng tự do tin và tự do vâng phục
" (LG 56). Mẹ đă nói lên lời Xin Vâng "nhân danh
toàn nhân loại" (x. T. Tô-ma A-qui-nô. tổng luận
thần học 3, 30, l). Nhờ vâng phục, Mẹ đă
trở thành E-và mới, mẹ của chúng sinh.