Tin Mừng : Thiên Chúa đă cử
Con Một đến
422 (398, 2763) "Khi thời
gian tới hồi viên măn, Thiên Chúa đă sai Con Ḿnh tới,
sinh làm con một người nữ và sống dưới
lề luật, để chuộc những ai sống
dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được
ơn làm nghĩa tử" (Ga 4, 4-5). Đây là "Tin Mừng
Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa" (Mc l, l) :
Thiên Chúa đă viếng thăm dân Người (x. Lc 1, 68).
Người đă thực hiện lời hứa với
Áp-ra-ham và con cháu ông (x. Lc l, 55). Người đă thực hiện
hơn cả điều chúng ta mong ước
: Người đă cử "Con yêu dấu" của
Người đến (Mc l, ll).
423 Chúng tôi tin và tuyên xưng rằng
: Đức Giê-su Na-da-rét, dưới thời Vua Hê-rô-đê
ca<150) và Hoàng đế Xê-da-rê Âu-gut-tô, sinh làm người
Do Thái, con một người con gái của Ít-ra-en, tại
Bê-lem, làm nghề thợ mộc, chết trên thập giá tại
Giê-ru-sa-lem, thời tổng trấn Phông-xi-ô Phi-la-tô, dưới
triều Hoàng đế Ti-bê-ri-ô. Người là Con Vĩnh Cửu
của Thiên Chúa, "bởi Thiên Chúa mà đến" (Ga
l3, 3), "Đấng từ Trời xuống" (Ga 3, l3; 6,
33), "đến trong xác phàm" (l Ga 4, 2); v́ "Ngôi Lời
đă làm người và ở giữa chúng ta, chúng ta đă
được nh́n thấy Vinh Quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy
tràn ân sủng và chân lư (...). Từ nguồn sung măn của
Người, tất cả chúng ta đă lănh nhận hết
ơn này đến ơn khác" (Ga l, l4. l6).
424 (638 552) Nhờ Thánh Thần tác động và nhờ Chúa
Cha lôi kéo, chúng tôi tin và tuyên xưng về Đức Giê-su
như sau : "Thầy là Đức Ki-tô,
Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt l6, l6). Chính trên tảng
đá đức tin này như thánh Phê-rô tuyên xưng, Đức
Ki-tô đă xây dựng Hội Thánh của Người (x. Mt
l6, l8; T. Lê-ô cả, bài giảng 4, 3; 5l, l; 62, 2; 83, 3).
"Loan báo sự phong phú khôn
lường của Đức Ki-tô" (Ep 3, 8)
425 (850, 858) Truyền đạt
đức tin Ki-tô giáo, trước tiên là loan báo Đức
Giê-su Ki-tô, để dẫn đưa mọi người
đến chỗ tin vào Người. Ngay từ đầu,
các môn đệ đầu tiên đă khao khát loan báo Đức
Ki-tô : "C̣n phần chúng tôi, chúng tôi không thể không công bố
những ǵ chúng tôi đă thấy và đă nghe" (Cv 4, 20) và
đă kêu mời con người trong mọi thời đại
vào hưởng niềm vui hiệp thông với Đức Ki-tô
:
"Điều chúng tôi đă được nghe, điều
chính mắt chúng tôi đă được nh́n thấy và chiêm
ngưỡng, điều chính tay chúng tôi đă được
sờ đến, về Lời Sự Sống; quả vậy,
sự sống đă xuất hiện, chúng tôi đă nh́n thấy
và xin làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em Sự Sống
đời đời hằng ở bên cạnh Chúa Cha và nay
đă xuất hiện cho chúng ta; điều chúng tôi đă
được thấy, được nghe, chúng tôi xin loan
báo cho anh em, để cả anh em nữa cũng được
hiệp thông với chúng tôi mà chúng tôi th́ hiệp thông với
Chúa Cha và Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra cho anh em
để niềm vui của chúng tôi được trọn
vẹn"
(lGa l, l-4).
Trọng tâm của huấn
giáo : Đức Ki-tô
426 (1698 513 260) Trọng tâm của
huấn giáo là một Con Người, con người của
Đức Giê-su Na-da-rét, Con Một của Chúa Cha ... đă chịu
khổ h́nh, chịu chết v́ chúng ta và nay sống lại,
sống măi măi với chúng ta ... . Dạy giáo lư ... là giúp
người ta khám phá nơi con ngướ của Đức
Ki-tô tất cả ư định muôn đời của Thiên
Chúa. Đó là t́m hiểu ư nghĩa các hành động
và lời nói của Đức Ki-tô, cùng những dấu chỉ
Người thực hiện" (CT 5). Mục đích
của huấn giáo là "đưa con người đến
hiệp thông với Đức Giê-su Ki-tô : chỉ một ḿnh
Người mới dẫn ta đến t́nh yêu Chúa Cha trong
Chúa Thánh Thần và cho ta thông dự vào sự sống của
Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh" (Ibid)
427 (2146 876) "Trong huấn
giáo, ta giảng dạy về Đức Ki-tô, Ngôi Lời Nhập
Thể và Con Thiên Chúa; tất cả những điều
khác được giảng dạy quy chiếu về
Người; chỉ một ḿnh Đức Ki-tô giảng dạy,
c̣n bất cứ ai giảng dạy đều phải giảng
dạy như phát ngôn viên của Người, để Đức
Ki-tô dạy qua miệng lưỡi họ... mọi giáo lư
viên đều phải áp dụng cho ḿnh lời nói nhiệm
mầu của Đức Giê-su : "Đạo lư tôi dạy không
phải là của tôi, nhưng là của Đấng đă sai
tôi" (Ga 7, l6).
428 Người nào được
mời gọi "giảng dạy về Đức Ki-tô"
trước hết phải t́m "mối lợi tuyệt
vời là được biết Đức Ki-tô"; phải
"mất hết ... để được Đức
Ki-tô và được kết hợp với Người",
và để "biết Người quyền năng thế
nào nhờ đă phục sinh, cùng được thông phần
những đau khổ của Người, để nên
đồng h́nh đồng dạng với Người
trong cái chết của Người, với hy vọng có
ngày cũng được sống lại từ trong cơi chết
" (Pl 3, 8-ll).
429 (851) Việc
nhận biết Đức Ki-tô và tâm t́nh yêu mến sẽ
khơi dậy nơi chúng ta khát vọng loan báo về
Người, phúc âm hóa và giúp mọi người tin vào Đức
Giê-su Ki-tô. Đồng thời, người ta luôn cảm thấy
cần phải đào sâu đức tin này hơn. Nhằm mục
đích đó, theo thứ tự của kinh Tin Kính, trước
hết chúng tôi sẽ tŕnh bày các danh hiệu chính của Đức
Giê-su : Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đức
Chúa (mục 2). Kế đó là các mầu nhiệm chính yếu
của cuộc đời Đức Ki-tô :
Nhập Thể mục 3), Vượt Qua (mục 4 và 5) và
Tôn Vinh
(mục 6 và 7).
Mục 2
"Tôi tin kính Đức Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha,
cùng là Chúa chúng tôi"
I. ĐỨC GIÊ-SU
430 (210 402) Trong
tiếng Hip-ri, danh thánh "Giê-su" có nghĩa là "Thiên
Chúa Cứu Độ". Khi truyền tin, thiên thần
Gáp-ri-en gọi tên Người là Giê-su; danh xưng này vừa
diễn tả căn tính, vừa diễn tả sứ mạng
của Người (x. Lc 1. 31). Bởi v́
"chỉ một ḿnh Thiên Chúa mới có quyền tha tội"
(Mc 2, 7), cho nên chính Thiên Chúa trong Đức Giê-su là Chúa Con Vĩnh
Cửu làm người" sẽ cứu dân Ḿnh khỏi tội"
(Mt l, 2l). Như thế, trong Đức
Giê-su, Thiên Chúa qui tụ tất cả lịch sử cứu
độ nhân loại.
431 (850, 1441 388)
Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa
không chỉ bằng ḷng với việc giải thoát Ít-ra-en
khỏi "nhà nô lệ" (Đnl 5, 6) khi đưa họ ra
khỏi Ai-cập, Người c̣n cứu thoát họ khỏi
tội lỗi nữa. V́ tội luôn là một
xúc phạm đến Thiên Chúa (x. Tv 51, 6), nên chỉ Thiên
Chúa mới có thể tha thứ được (x. Tv 51, 12).
Do đó, dân Ít-ra-en càng nhận thức được tính
phổ quát của tội lỗi, càng thấy chỉ có thể
t́m được cứu độ trong việc cầu khẩn
danh Thiên Chúa cứu chuộc (x. Tv 79, 9).
432 (589, 2666 389 161)
Danh xưng Giê-su cho thấy chính danh thánh Thiên Chúa
hiện diện trong con người Chúa Con (x. Ga 3, 5; Cv 2,
21), Đấng làm người để cứu chuộc mọi
người khỏi tội cách dứt khoát. Danh
xưng Giê-su là danh xưng thần linh, danh xưng duy nhất
mang lại ơn cứu độ. Từ nay mọi
người có thể kêu cầu Danh Giê-su, v́ nhờ mầu
nhiệm Nhập Thể, danh xưng ấy đă liên kết
với tất cả mọi người, đến nỗi
"dưới gầm trời này không danh nào khác đă
được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ
vào Danh đó mà được cứu độ" (Cv 4,
12) (x. Lv 16, 15-16;GV 50, 20; Dt 9, 7).
433 (615) Xưa kia, mỗi
năm một lần, vị Thượng Tế kêu cầu
danh Thiên Chúa Cứu Chuộc để xá tội dân Ít-ra-en,
khi ông rảy máu hy tế lên bàn xá tội trong nơi cực
thánh. Bàn xá tội là nơi Thiên Chúa hiện diện
(x. Xh 25, 22; Lv 16, 2; Ds 7, 89; Dt 9, 5). Khi thánh
Phao-lô nói rằng "Thiên Chúa đă định cho Đức
Giê-su phải đổ máu ḿnh ra làm phương thế xá tội"
(Rm 3, 25), ngài muốn nói rằng qua bản tính nhân loại của
Đức Ki-tô, "chính Thiên Chúa đă ḥa giải nhân loại
với Người"(2 Cr 5, l9).
434 (2812) Sự
sống lại của Đức Giê-su tôn vinh danh Thiên Chúa cứu
độ (x. Ga 12, 28), v́ từ nay chính danh Giê-su bày tỏ trọn
vẹn quyền năng tối thượng của
"Danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu"
(Pl 2, 9-l0). Các thần dữ khiếp sợ
Danh Người (x. Cv 16, 16-18). Nhờ Danh đó các môn
đệ của Đức Giê-su thực hiện các phép lạ
(x. Mc 16, 17), bơ<150)i v́ tất cả
những ǵ họ xin Chúa Cha nhân danh Người, Chúa Cha sẽ
nhận lời (x. Ga l5, l6).
435 (2667- 2668 2676)
Danh xưng Giê-su là trọng tâm của kinh nguyện
Ki-tô giáo. Tất cả các lời nguyện trong phụng vụ
đều kết thúc bằng câu: "Nhờ Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng con". Kinh "Kính Mừng Ma-ri-a" đạt
tới đỉnh cao trong câu "và Giê-su, con ḷng Bà đầy
ơn phúc". Lời tâm nguyện Phương Đông thường
gọi là "Lời cầu khẩn Đức Giê-su : "Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa , xin
thương xót con là kẻ có tội". Như Thánh Gian-Đắc
(Jeanne d'Arc), nhiều Ki-tô hữu chỉ kêu tên
"Giê-su" khi hấp hối.
II. ĐỨC KI-TÔ
436 (690, 695 711-716 783) "Ki-tô" là phiên âm một
từ Hy lạp dịch từ tiếng Hy-pri là
"Mê-si-a" nghĩa là "được xức dầu".
Danh xưng này trở thành tên riêng của Đức Giê-su v́
Người đă chu toàn tuyệt hảo
sứ mạng thần linh bao hàm trong danh xưng đó. Quả thế, trong Ít-ra-en, những người
được thánh hiến để thi hành một sứ
mạng Thiên Chúa giao phó đều được xức dầu
nhân danh Thiên Chúa. Đó là trường hợp
của các vua (x. l V 1, 39), các tư tế (x. Xh 29, 7; Lv 8, 12)
và đôi khi cả các ngôn sứ nữa (x. 1V 19, 16). Vậy
càng đúng hơn cho trường hợp của Đấng
Mê-si-a do Thiên Chúa cử đến để thiết lập
dứt khoát Vương Quốc của Người (x. Tv 2,
2; Cv 4, 26-27). Đấng Mê-si-a phải được
Thánh Thần Chúa xức dầu (x Is 11, 2), vừa để
làm Vua và tư tế (x. Gcr 4, 14; 6, 13), vừa để làm
ngôn sứ nữa (x. Is 61, 1; Lc 4, 16-21). Đức Giê-su
đă thực hiện niềm hy vọng về Đấng
Mê-si-a của Ít-ra-en qua ba sứ vụ tư tế, ngôn sứ
và vương đế .
437 (525, 486) Thiên thần đă
loan báo cho các mục đồng việc Đức Giê-su ra
đời như Đấng Mê-si-a đă được hứa
ban cho Ít-ra-en : "Hôm nay, Đấng Cứu Độ anh em đă
ra đời trong thành Vua Đa-vit, Người là Đấng Ki-tô,
là Đức Chúa" (Lc 2, ll). Ngay từ khởi
đầu, Chúa Giê-su là "Đấng Chúa Cha đă hiến
thánh và cử xuống thế gian" (Ga l0, 36), được
cưu mang như "Đấng Thánh" (Lc l, 35) trong ḷng dạ
trinh khiết của Đức Ma-ri-a. Thánh Giu-se được
Thiên Chúa kêu gọi "đón vợ ông là bà Ma-ri-a về
nhà, v́ con Bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần"
(Mt l, 20), để Đức Giê-su "mà người ta gọi
là Đức Ki-tô", được bạn trăm năm của
thánh Giu-se sinh ra trong ḍng dơi Đa-vit, ḍng dơi Thiên Chúa đă hứa
ban Đấng Mê-si-a (Mt l, l6) (x. Rm l, 3; 2Tm. 2, 8; Kh 22, l6).
438 (727 535) Việc Đức
Giê-su được hiến thánh làm Đấng Mê-si-a bày tỏ
sứ mạng thần linh của Người. "Chính tên
của Người chỉ rơ điều đó, v́ danh hiệu
"Ki-tô" ám chỉ Đấng xức dầu, Đấng
được xức dầu, và chính việc xức dầu:
Đấng xức dầu là Chúa Cha, Đấng được xức
dầu là Chúa Con và Chúa Con được xức dầu
trong Chúa Thánh Thần, và Chúa Thánh Thần là sự xức dầu"
(x. T. I-rê-nê, chống lạc giáo 3, l8, 3). Việc Đức
Giê-su được hiến thánh để làm Đấng
Mê-si-a từ muôn đời được mặc khải
trong cuộc đời trần thế của Người,
khi chịu phép rửa của ông Gio-an, lúc "Thiên Chúa
đă dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn
phong Người" (Cv l0, 38) "để Người
xuất hiện trước Ít-ra-en" (Ga l, 3l) như Đấng
Mê-si-a. Những việc Người làm và những lời
Người nói, giúp cho chúng ta nhận biết Người
là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mt l, 24; Ga 6, 69; Cv 3,
l4).
439 (528-529 547) Nhiều người Do Thái, kể cả
một số người ngoại cùng chia sẻ niềm
hy vọng của ít-ra-en, đă nhận ra nơi Đức
Giê-su những nét cơ bản của "Con vua Đa-vít"
là Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa đă hứa ban cho Ít-ra-en (x. Mt
2, 2; 9, 27, l2, 23; l5, 22; 20, 30; 2l, 9. l5). Đức Giê-su đă chấp
nhận danh hiệu Mê-si-a mà Người có quyền lănh nhận
(x. Ga 4, 25-26; ll, 27;), nhưng một cách dè dặt v́ danh hiệu
này bị một số người đương thời
hiểu theo một quan niệm trần tục (x. Mt. 22,
4l-46) nặng phần chính trị (x. Ga 6, l5; Lc. 24, 2l).
440 (552 550 443) Khi thánh Phê-rô tuyên
xưng Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a, Người chấp
nhận và liền đó tiên báo cuộc khổ nạn của
Con Người. (x.
III. CON MỘT ĐỨC CHÚA CHA
441 Trong Cựu Ước
"Con Thiên Chúa" là danh hiệu ban cho các thiên thần (x.
Đnl (LXX) 32, 8; G l, 6), dân được tuyển chọn (x.
Xh 4, 22; Hs ll, l; Gr 3, l9; GV 36, ll; Kn l8, l3), con cái Ít-ra-en (x. Đnl
l4, l; Hs 2, l) và các vị vua của họ (x. 2Sm 7, l4; Tv 82,
6). Trong những trường hợp ấy, danh hiệu nầy
nói lên quan hệ nghĩa tử. Quan hệ này tạo ra những
mối liên hệ thân t́nh đặc biệt giữa Thiên
Chúa và thụ tạo. Khi được gọi là Con Thiên
Chúa (x. 1Sbn 17, 13; Tv 2, 7), vị Vua Mê-si-a của lời hứa
không nhất thiết pha<150)i trổi vượt hơn
phàm nhân, nếu theo sát nghĩa đen của các bản
văn. Những người coi Đức Giê-su như Đấng
Mê-si-a của Ít-ra-en (x. Mt 27, 54) có lẽ cũng không muốn
nói ǵ hơn (x. Lc. 23, 47).
442 (552 424) Trường hợp
thánh Phê-rô th́ khác, v́ khi ông tuyên xưng Đức Giê-su là "Đấng
Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 6, l6), Đức Giê-su
đă long trọng trả lời : "Phàm nhân không tài nào mặc
khải cho anh điều đó được, nhưng
chính là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời đă
mặc khải cho anh" (Mt l6, l7). Cũng thế, thánh
Phao-lô khi đề cập đến việc ngài hoán cải
trên đường đi Đa-mát đă nói : "Thiên Chúa
đă chọn tôi từ khi tôi c̣n trong ḷng mẹ, đă kêu gọi
tôi, Người đă thương mặc khải Con của
Người cho tôi, để tôi loan báo về Con của
Người cho các dân ngoại... " (Gl l, l5-l6). "Lập
tức, ông bắt đầu rao giảng trong các hội
đường rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa" (Cv
9, 20). Điều này ngay từ đầu đă trở thành trọng
tâm của đức tin tông truyền (x. Ga 20, 3l) do chính
thánh Phê-rô là người tuyên xưng đầu tiên với
tư cách là nền tảng Hội Thánh (x. Mt l6, l8).
443 (2786) Nếu thánh Phê-rô có thể
nhận ra Đức Giê-su Mê-si-a là Con Thiên Chúa trong tính chất
siêu việt th́ rơ ràng là nhờ Chúa đă giúp cho ông hiểu
như thế. Trước công nghị khi những kẻ
buộc tội hỏi : "Vậy Ông là Con Thiên Chúa sao?
" Đức Giê-su trả lời : "Đúng như các ông nói
đó, Tôi là Con Thiên Chúa" (Lc 22, 70) (x. Mt 26, 64; Mc. l4, 6l).
Trước đó, Người tự xưng ḿnh là
"Con" biết rơ Cha (x. Mt. ll, 27; 2l, 37-38); Người
phân biệt ḿnh với các "tôi tớ" khác mà trước
kia Thiên Chúa đă sai đến với dân; Người (x.
Mt. 2l, 34-36) vượt trên cả các thiên thần (x. Mt. 24,
36). Người cho thấy tư cách là "Con" của
Ḿnh khác với các môn đệ v́ không bao giờ Người
gọi "Cha chúng ta", trừ lúc ra lệnh : "Anh em
phải cầu nguyện như thế này : "Lạy Cha
chúng con" (x. Mt. 5, 48; 6, 8; 7, 2l; Lc. ll, l3) (Mt 6, 9). Và Người
nhấn mạnh sự khác biệt đó : "Cha của Thầy
và Cha của anh em" (Ga 20, 17).
444 (536, 554) Vào hai thời
điểm quan trọng, Phép Rửa và Hiển Dung của Đức
Ki-tô, các sách Tin Mừng ghi lại tiếng Chúa Cha gọi Đức
Giê-su là "Con yêu dấu" (x. Mt. 3, l7; l7, 5) của
Người. Chính Đức Giê-su cũng tự xưng là
"Con Một của Thiên Chúa" (Ga 3, l6) và qua danh hiệu
đó, xác nhận Ḿnh tiền hữu từ muôn thuở (x.
Ga l0, 36). Người đ̣i phải tin vào "danh Con Một
Thiên Chúa" (Ga 3, l8). Lời tuyên xưng này của Ki-tô giáo
đă xuất hiện ngay từ trong tiếng kêu của
viên đại đội trưởng đứng đối
diện với Đức Giê-su trên Thập Giá : "Quả thật
ông này là Con Thiên Chúa" (Mc l5, 39). Chỉ trong mầu nhiệm
Phục Sinh, người tín hữu mới hiểu
được đầy đủ danh hiệu "Con
Thiên Chúa".
445 (653) Sau Phục sinh, bản
tính Con Thiên Chúa của Đức Ki-tô mới tỏ rạng
trong quyền năng nhân tính được tôn vinh. "Xét
như Đấng đă được Thánh Thần thánh hóa, do
việc Người từ cơi chết sống lại,
Người đă được đặt làm Con Thiên Chúa
với tất cả quyền năng" (Rm l, 4) (x. Cv l3,
33). Các tông đồ có thể tuyên xưng : "Chúng tôi
đă được nh́n thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy
tràn ân sủng và chân lư"
(Ga l, l4).
IV. ĐỨC CHÚA
446 (209) Trong bản dịch các
sách Cựu ước ra tiếng Hy lạp, danh xưng khôn
tả (YHWH) mà Thiên Chúa mặc khải cho Mô-sê, được
dịch là "Kyrios" (Đức Chúa). Từ đó, "Đức
Chúa" trở thành danh xưng thông dụng nhất để
chỉ chính thiên tính của Thiên Chúa Ít-ra-en. Tân Ước
không những dùng nghĩa mạnh của danh xưng "Đức
Chúa" để nói về Chúa Cha, nhưng thêm điều
mới là dùng cả cho Đức Giê-su, được nh́n nhận
là Đức Chúa như chính Thiên Chúa vậy (x. 1Cr 2, 8).
447 (548) Chính Đức Giê-su
cũng tự nhận danh hiệu ấy một cách kín
đáo khi tranh luận với các người Pha-ri-sêu về
ư nghĩa thánh vịnh ll0 (x. Mt 22, 41-46; Cv 2, 34-36; Dt 1, 13) và một
cách rơ rệt khi nói chuyện với các Tông đồ. Trong
suốt thời công khai, Đức Giê-su thực hiện những
hành vi đầy quyền năng trên thiên nhiên, bệnh tật,
ma quỷ, sự chết và tội lỗi; điều này
cho thấy Người có quyền tối thượng của
Thiên Chúa.
448 (208, 683 641) Trong
các sách Tin Mừng, người ta thường gọi Đức
Giê-su là "Chúa". Danh hiệu này chứng tỏ rằng
những kẻ đến gần Người đều
tôn trọng và tin tưởng vào Người, mong đợi
Người cứu giúp và chữa lành (x. Mt 8, 2; 14, 30;15, 22).
Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, khi tuyên
xưng như vậy, người ta cũng nh́n nhận Đức
Giê-su là Thiên Chúa (x. Lc 1, 43; 2, 11). Sau khi Đức Giê-su Phục
sinh, cách tuyên xưng này diễn tả tâm t́nh thờ lạy
: "Lạy Chúa của con! lạy Thiên Chúa của con!"
(Ga 20, 28). Và c̣n mang thêm sắc thái yêu thương tŕu mến
là nét riêng của truyền thống Ki-tô giáo, như khi Gio-an
nói nhỏ với Phê-rô: "Chúa đó" (Ga 2l, 7).
449 (461 653) Khi dành cho
Đức Giê-su danh hiệu thần linh là Đức Chúa, những
lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh xác nhận
ngay từ đầu (x. Cv 2, 34-36) rằng quyền năng,
danh dự và vinh quang của Chúa Cha cũng thuộc về
Chúa Giê- su (x . Rm 9, 5; Tt 2, 13; Kh 5, 13), v́ Người có
"địa vị ngang hàng với Thiên Chúa" (Pl 2, 6),
và Chúa Cha đă bày tỏ quyền tối thượng của
Đức Giê-su khi cho Người sống lại từ cơi chết
và biểu dương Người trong vinh quang (x. 1Cr 12, 3;
Pl 2, 9-11; Rm 10, 9).
450 (668, 672 2242) Ngay từ
đầu lịch sử Ki-tô giáo, khi xác nhận quyền
Chúa tể của Đức Giê-su trên trần thế và trên lịch
sử (x. Kh 11, 15), Ki-tô Giáo khẳng định rằng :
con người không được dùng tự do cá nhân để
tùng phục bất cứ quyền bính trần thế nào
cách tuyệt đối, mà chỉ tùng phục Thiên Chúa Cha và
Chúa Giê-su Ki-tô : Xê-da-rê không phải là "Đức Chúa" (x.
Mc 12, 17; Cv 5, 29). "Hội Thánh tin rằng... . ch́a khóa trung
tâm và cứu cánh của mọi lịch sử con người
chỉ t́m thấy trong Chúa và Thầy của ḿnh" (x. GS
10, 2; 45, 2).
451 (2664- 2665 2817) Kinh nguyện
Ki-tô giáo đầy những lời kêu cầu danh hiệu
"Chúa", như khi mời gọi cầu nguyện :
"Chúa ở cùng anh chị em", hay khi kết thúc lời
nguyện "nhờ Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng con", hoặc
trong tiếng kêu đầy tín thác và hy vọng "Ma-ran
a-tha" ("Chúa đến!") hay"Ma-ra-na tha"
("Lạy Chúa, xin Chúa đến") (l Cr l6, 22); "A-men,
lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến" (Kh 22, 20).
TÓM
LƯỢC
452 Danh xưng "Giê-su" có
nghĩa là "Thiên Chúa Cứu Độ". Hài nhi sinh làm con Đức
Trinh Nữ Ma-ri-a được gọi là " Giê-su",
"v́ chính Người sẽ cứu thoát Dân Người
khỏi tội lỗi" (Mt 1, 21). "Dưới gầm
trời này, không có một danh nào khác đă được
ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh
đó mới được cứu độ" (Cv 4,
l2).
453 Danh xưng "Ki-tô" có
nghĩa là "được xức dầu", "Đấng
Mê-si-a ". Đức Giê-su là Đấng Ki-tô v́ "đă
được Thiên Chúa xức dầu bằng Thánh Thần
và quyền năng" (Cv l0, 38). Người là "Đấng
phải đến" (Lc 7, l9), là đối tượng
của "niềm hy vọng của Ít-ra-en"
(Cv 28, 2O).
454 Danh xưng "Con Thiên
Chúa" nói lên mối tương quan duy nhất và hằng
hữu giữa Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa Cha của
Người: Người là Con Một của Chúa Cha (x. Ga
1, 14. 18; 3, 16. 18) và là chính Thiên Chúa (x. Ga 1, 1). Để trở
nên<F35400) Ki-tô hữu, chúng ta phải tin Đức Giê-su Ki-tô
là Con Thiên Chúa (x. Cv 8, 37; 1Ga 2, 23).
455 Danh xưng "Chúa" nói lên quyền tối thượng
của Thiên Chúa. Tuyên xưng hay kêu cầu Đức Giê-su là
Chúa có nghĩa là tin vào thiên tính của Người. Nếu
không được Thánh Thần giúp sức, không ai có thể
nói "Giê-su là Đức Chúa"
(l Cr l2, 3).