1020
(1523-1525) V́ kết hợp cái
chết của ḿnh với cái chết của Chúa Giê-su, nên
đối với người Ki-tô hữu, chết là về
với Chúa và bước vào cuộc sống muôn đời.
Khi thay Đức Ki-tô nói lời tha tội lần cuối cùng,
xức dầu ban sức mạnh và trao Ḿnh Thánh Chúa như của
ăn đàng cho người Ki-tô hữu hấp hối, Hội
Thánh dịu dàng trấn an người ấy
:
(2677,
336) Nhân danh Chúa Cha toàn năng,
Đấng tạo thành nên con, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên
Chúa hằng sống, Đấng chịu khổ h́nh v́ con, nhân
danh Chúa Thánh Thần, Đấng được ban xuống
trong con : Hỡi con hăy rời khỏi thế
gian này. Hôm nay, con sẽ vào nơi b́nh an và ở bên Chúa trên
núi thánh Xi-on, cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ
Thiên Chúa, với thánh Giu-se, toàn thể thiên thần và các
thánh của Chúa ... Con trở về cùng Đấng sáng tạo
đă lấy bùn đất dựng nên con. Khi con ĺa bỏ
đời này, xin Đức Trinh Nữ Ma-ri-a,
các thiên thần và toàn thể các thánh ra đón tiếp con...
Xin cho con được nh́n thấy tận mắt Đấng
Cứu Chuộc con... (kinh hối tử).
I. PHÁN XÉT RIÊNG
1021
(1038 679) Cái chết kết thúc
đời sống con người, nghĩa là chấm dứt
thời gian đón nhận hay chối bỏ ân sủng Thiên
Chúa được biểu lộ trong Đức Ki-tô (x. 2 Tm 1,
9-10). Khi đề cập đến phán xét, Tân Ước
chủ yếu nói về cuộc gặp gỡ chung cuộc với Đức Ki-tô trong ngày quang
lâm, nhưng cũng nhiều lần khẳng định có
sự thưởng phạt tức khắc ngay sau khi chết,
tùy theo công việc và đức tin của mỗi người.
Dụ ngôn về người nghèo khó La-gia-rô (x. Lc 16, 22), và
lời Đức Ki-tô trên thập giá nói với người trộm
lành (x. Lc 23, 43), cũng như nhiều đoạn khác của
Tân Ước (x. 2Cr 5, 8; Pl 1, 23; Dt 9, 27;12,
23) nói đến số phận rất khác nhau của từng
người (x. Mt 16, 26).
1022 (393) Ngay khi ĺa khỏi xác,
linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để
được thưởng hay bị phạt đời
đời; tùy theo đời sống của ḿnh trong
tương quan với Đức Ki-tô, linh hồn hoặc phải
trải qua một cuộc thanh luyện (x. Cđ Lyon:DS 857-858;Cđ .
Cđ. Trente:DS 1820) hoặc được hưởng phúc
trên trời (x. Benoit XII:DS 1000-1001;Gio-an XXII:DS 990) hoặc sa
địa ngục vĩnh viễn (x. Benoit XII:DS 1002).
"Khi chết chúng ta sẽ
bị Thiên Chúa xét xử căn cứ trên t́nh yêu" (T. Gio-an Thánh giá, Bài giảng 64).
II. THIÊN ĐÀNG
1023
(954) Những
kẻ chết trong ơn nghĩa Chúa và kẻ đă
được thanh luyện trọn vẹn, sẽ sống
măi với Đức Ki-tô. Muôn đời họ sẽ nên giống
Thiên Chúa, v́ Người thế nào họ sẽ được
"nh́n thấy Người như vậy" diện
đối diện (l Ga 3, 2).
Chúng
tôi dùng quyền tông đồ định tín rằng (x. 1Cr
12, 13;Kh 22, 4):"Theo sự an bài chung của Thiên Chúa, từ
sau khi Đức Giê-su về trời, linh hồn của tất
cả các thánh ... và của mọi Ki-tô hữu đă chết
sau khi nhận Phép Rửa của Đức Ki-tô, nếu họ
không có ǵ cần thanh luyện hoặc có ǵ cần thanh luyện
nhưng đă thanh luyện xong sau khi chết ... th́ các linh hồn
này đă, đang và sẽ được ở trên trời
trong Nước Trời và trong Thiên Đàng cùng với Đức
Ki-tô, được nhập đoàn các thánh thiên thần,
ngay cả trước khi thân xác họ sống lại vào
ngày phán xét chung. Kể từ cuộc khổ nạn và cái chết
của Chúa Giê-su Ki-tô, các linh hồn này đă và đang
được xem thấy Thiên Chúa trực tiếp, diện
đối diện, không qua trung gian một thụ tạo
nào (x. Benoit XII:DD 1000, x. LG 49).
1024
(260, 326 2734, 1718) "Thiên
Đàng" là cuộc sống viên măn v́ được hiệp
thông trong sự sống và t́nh yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, với các thiên thần và các thánh.
Thiên Đàng là mục đích tối hậu và là sự hiện
thực các nguyện vọng sâu xa nhất của con người,
là t́nh trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung
cuộc.
1025
(1011) "Lên Thiên Đàng" là
"được ở với Đức Ki-tô" (x. Ga 14,
3; Pl 1, 23;1Th 4, 17). Những người
được tuyển chọn "sống trong Người",
nhưng vẫn giữ, hay nói đúng hơn là t́m được
căn tính đích thực của ḿnh, danh xưng riêng của
ḿnh (x. Kh 2, 17).
"V́ sống là
được ở với Đức Ki-tô; và ở đâu có
Đức Ki-tô, nơi đó có sự sống, nơi đó là
Nước Trời" (x. T. Am-rô-xiô chú giải TM-Lc 10,
121).
1026 (793) Nhờ
đă chết và phục sinh, Chúa Giê-su Ki-tô đă "mở"
cửa Thiên Đàng cho chúng ta. Các thánh
được hưởng trọn vẹn hoa quả
ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô. Người cho những ai đă tin vào Người
và trung thành với thánh ư Người được cùng
hưởng vinh quang với Người. Thiên Đàng là cộng đồng vĩnh phúc gồm tất
cả những người đă được tháp nhập
trọn vẹn vào Đức Ki-tô.
1027 (959, 1720) Chúng ta
không đủ khả năng hiểu biết và tŕnh bày mầu
nhiệm hiệp thông vinh phúc với Thiên Chúa và với tất
cả những người ở trong Đức Ki-tô. Khi nói về
mầu nhiệm này, Kinh Thánh dùng những h́nh ảnh như
sự sống, ánh sáng, b́nh an, tiệc cưới, rượu
mới trong Nước Trời, nhà Cha, Thành Giê-ru-sa-lem Thiên
Quốc, Thiên Đàng : "Điều mắt chẳng
hề thấy, điều tai chẳng hề nghe, ḷng
người không hề nghĩ đến, đó là điều
Thiên Chúa đă dọn sẵn cho những ai yêu mến
Người" (1Cr 2, 9).
1028
(1722 163) Thiên Chúa siêu việt,
nên ta chỉ thấy được Người khi chính
Người mặc khải mầu nhiệm cho ta chiêm
ngưỡng và khi Người ban cho ta khả năng
đó. Việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong
vinh quang Thiên Quốc được Hội Thánh gọi là
"phúc kiến".
"Bạn sẽ
được vinh quang và hạnh phúc biết bao: khi bạn
được Thiên Chúa tiếp nhận để thấy
Người, được vinh dự hưởng niềm
vui cứu độ và ánh sáng vĩnh cửu cùng Đức
Ki-tô, Chúa của bạn... Trên Thiên Quốc, bạn
được hưởng niềm vui của sự bất
tử cùng với những người công chính và những
bạn hữu của Thiên Chúa" (x. T.
Syp-pri-a-nô, thư 56, 10, 1).
1029 (956 668) Trong vinh
quang Thiên Đàng, các thánh vẫn tiếp tục hân hoan thi hành
thánh ư Thiên Chúa đối với những người khác
và toàn thể các thụ tạo. Và các
ngài đă bắt đầu hiển trị với Đức
Ki-tô, cùng với Người, các Ngài "hiển trị
đời đời" (Kh 22, 5) (x. Mt 25, 21. 23).
III. LUYỆN NGỤC : CUỘC THANH LUYỆN CUỐI CÙNG
1030 Những người chết trong
ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện
hoàn toàn, mặc dù chắn chắc được cứu
độ đời đời, c̣n phải chịu thanh
luyện sau khi chết, để đạt được
sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng
phúc Thiên Đàng.
1031
(954, 1472) Hội
Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những
người được chọn là luyện ngục. Điều
này khác hẳn với h́nh phạt đời đời của
kẻ bị chúc dữ: Hội Thánh công bố giáo lư về
luyện ngục cách riêng trong các công đồng Flôrence (x.
DS 1304) và Trentô (x. DS 1820; 1580). Dựa vào một
số đoạn Kinh Thánh (x. 1Cr 3, 15; 1Pr 1, 7), Hội Thánh
nói về lửa thanh luyện.
"Đối với một
số tội nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện. Chúa Giê-su xác nhận : nếu ai nói phạm đến Chúa
Thánh Thần người ấy sẽ chẳng được
tha cả đời này lẫn đời sau (Mt 12, 31). Qua khẳng định này, chúng ta có thể hiểu
là một số tội có thể được tha ở
đời này, nhưng một số tội khác th́ phải
đợi tới đời sau"
(x. T. Ghê-gô-ri-ô cả, đối thoại 4, 39).
1032
(958 1371 1479) Lời
dạy này cũng căn cứ trên tập quán cầu nguyện
cho những người quá cố mà Kinh thánh đă nói: v́ thế
ông Giu-đa Ma-ca-bê-ô "xin dâng lễ đền tội cho
những người chết, để họ được
giải thoát khỏi tội lỗi" (2 Mcb 12, 46). Ngay từ
đầu, Hội Thánh vẫn kính nhớ người quá cố
và cầu nguyện cho họ, đặc biệt trong thánh lễ
(x. DS 856) để một khi được thanh luyện
họ có thể hưởng nhan Thánh Chúa. Hội Thánh khuyên
chúng ta bố thí, làm việc hăm ḿnh và nhường các ân xá
cho những người đă qua đời.
"Chúng ta hăy giúp họ
và hăy nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp
đă được thanh luyện nhờ việc hiến
lễ của cha (G 1, 5), tại sao chúng ta c̣n nghi ngờ là
những lễ tế của chúng dâng lên Thiên Chúa, để
cầu cho người quá cố, lại không đem đến
cho họ một phần an ủi nào? Đừng do dự giúp
đỡ và cầu nguyện cho những người
đă qua đời"(x. T. Gio-an Kim Khẩu, Bài
Giảng về 1Cr 41, 5).
IV. HỎA NGỤC
1033
(1861 393 633) Chúng ta không thể
kết hiệp với Thiên Chúa, nếu không tự nguyện
yêu mến Người. Nhưng chúng ta không thể yêu mến
Người, nếu chúng ta phạm tội trọng phản
nghịch Người, ngược lại lợi ích của
người khác và chính ḿnh : "Kẻ không yêu thương
th́ c̣n ở trong sự chết. Phàm ai ghét anh em ḿnh th́ là kẻ
sát nhân. Và anh em biết : không một kẻ sát nhân nào có sự
sống đời đời ở trong nó" (1Ga 3, 15).
Chúa Giê-su cảnh cáo : chúng ta sẽ bị tách xa Người,
nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu
khẩn thiết của người nghèo và những người
bé mọn là anh em của Người (x. Mt 10, 28). Chết mà
c̣n mang tội trọng, không hối cải, không đón nhận
t́nh yêu nhân hậu của Chúa có nghĩa là phải xa cách
Người đời đời, v́ chính chúng ta đă tự
do lựa chọn. "Hỏa ngục" chính là t́nh trạng
con người dứt khoát tự loại trừ khỏi sự
hiệp thông với Thiên Chúa và chư thánh.
1034 Chúa Giê-su thường nói về
"hỏa ngục", về "lửa không hề tắt"
(x. Mt 5, 22. 29;13, 42. 50; Mc 9, 43-48), dành cho những ai đến
chết vẫn không tin và không chịu hoán cải. Họ sẽ
mất cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (x. Mt
10, 28). Chúa Giê-su đă nghiêm khắc cảnh cáo: "Con
Người sẽ sai sứ thần của ḿnh tập
trung mọi kẻ gian ác... mà quăng chúng vào ḷ lửa"(Mt
13, 41-42). Người tuyên án : "Quân bị nguyền rủa
kia hăy đi khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời"
(Mt 25, 41).
1035
(393) Hội Thánh dạy rằng
có hỏa ngục và án phạt đời đời. Ngay
sau khi chết, linh hồn kẻ c̣n mắc tội trọng
sẽ xuống hỏa ngục chịu cực h́nh "lửa
đời đời" (x. DS 76; 409; 411; 801; 858; 1002; 1351;
1575;
1036
(1734 1428) Những điều
Kinh Thánh xác quyết và Hội Thánh dạy về hỏa ngục
là lời mời gọi con người phải có trách nhiệm
sử dụng tự do để đạt tới hạnh
phúc đời đời; đồng thời thúc giục
chúng ta ăn năn hối cải : "Hăy qua cửa hẹp
mà vào, v́ cửa rộng và đường rộng th́
đưa tới diệt vong, mà nhiều người lại
đi qua đó; c̣n cửa hẹp và đường hẹp
th́ đưa đến sự sống, nhưng ít người
t́m được lối ấy" (Mt 7, 13-14) :
"V́
không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy,
luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc
nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt,
chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với
Người và được liệt vào số người
được chúc phúc (x. Mt 25, 31-46), chứ không như những
tôi tớ khốn nạn và lười biếng (x. Mt 25, 26)
sẽ bị đẩy vào lửa đời đời
(x. Mt 25, 41), vào chốn tối tăm, nơi khóc lóc và nghiến
răng" (LG 48).
1037
(162 1014-1821) Thiên Chúa không tiền
định cho ai xuống hỏa ngục (x. DS 397; 1567). Ai tự
ư ĺa bỏ Thiên Chúa bằng một tội trọng và chai ĺ
đến cùng, sẽ phải xuống hỏa ngục.
Trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện hằng
ngày của tín hữu, Hội Thánh khẩn cầu Thiên Chúa từ
bi, Đấng "không muốn cho ai phải diệt vong,
nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối
cải" (2 Pr 3, 9) :
"Đây là lễ vật của
chúng con là tôi tớ Cha và cũng là lễ vật của toàn
thể gia đ́nh Cha nữa, cúi xin Cha vui ḷng chấp nhận.
Xin an bài cho chúng con ở đời này được
hưởng b́nh an của Cha. Xin cứu chúng con khỏi án phạt
đời đời và thâu nhận chúng con vào số những
người được Cha tuyển chọn" (Sách lễ
Rô-ma, lễ qui Rô-ma 88).
(678-679)
V. PHÁN XÉT CHUNG
1038
(1001, 998) Phán xét chung sẽ diễn
ra ngay sau khi mọi người đă chết được
sống lại, "người công chính cũng như kẻ
có tội" (Cv 24, 15) sống lại. Đó sẽ là "giờ
các kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng Người
Con và sẽ ra khỏi đó : ai đă làm điều lành th́
sẽ sống lại để được sống, ai
đă làm điều dữ th́ sẽ sống lại để
bị kết án" (Ga 5, 28-29). Khi Con Người "vinh
hiển quang lâm, có toàn thể thiên sứ theo hầu... Các
dân thiên hạ sẽ tập hợp trước mặt
Người, và Người sẽ tách biệt họ
như mục tử tách biệt chiên với dê. Chiên th́
đặt bên phải, dê th́ đặt bên trái... Thế là bọn
này sẽ phải ra đi vào chốn cực h́nh muôn kiếp,
c̣n những người công chính sẽ được lên
hưởng phúc trường sinh" (x. Mt 25, 31. 32. 46).
1039
(678) Khi đối diện với
Đức Ki-tô Đấng là Chân Lư, quan hệ của từng
người với Thiên Chúa sẽ được phơi
bày rơ ràng (x. Ga 12, 49). Phán xét chung sẽ cho thấy rơ những
việc lành mỗi người đă làm hoặc đă bỏ
qua khi c̣n sống ở trần gian, cả đến những
hậu quả sâu xa của chúng :
"Những việc xấu kẻ dữ đă làm đều
bị ghi nhận, dù họ không hay biết. Ngày đó
"Thiên Chúa sẽ không c̣n làm thinh nữa" (Tv 50, 3) ...
Người quay sang kẻ dữ và nói với họ :
"V́ các ngươi, Ta đă đặt trên trần gian những
người nghèo hèn yếu đuối. Ta là Đầu của
họ, đang ngự trị bên hữu Cha Ta trên Trời,
nhưng dưới đất các chi thể của Ta phải
đói khổ. Nếu các ngươi đă cho các chi thể
của Ta, th́ cái các ngươi cho, đă lên đến tận
trên Đầu. Khi Ta đặt những người nghèo khó
dưới đất là để làm tùy phái mang những
việc tốt lành của các ngươi vào kho của Ta:
v́ các ngươi đă không cho họ ǵ cả, nên các
ngươi không có ǵ trong nhà Ta" (x. T. Âu-tinh, bài giảng
18, 4, 4).
1040
(637 314) Phán xét chung sẽ diễn
ra khi Đức Ki-tô quang lâm. Chỉ có Chúa Cha mới biết
ngày giờ chỉ một ḿnh Người quyết định
khi nào sự kiện này sẽ xảy ra. Người sẽ
dùng Chúa Con là Đức Giê-su Ki-tô để ra phán quyết chung
thẩm về toàn bộ lịch sử. Bấy giờ
chúng ta sẽ thông hiểu ư nghĩa tối hậu của
toàn bộ công tŕnh sáng tạo, mầu nhiệm cứu độ
và những con đường kỳ diệu Thiên Chúa Quan
Pḥng dẫn dắt mọi sự đến mục đích
tối hậu của chúng. Phán xét chung cho ta thấy Chúa công
chính sẽ chiến thắng mọi bất chính của thụ
tạo và t́nh yêu của Người mạnh hơn sự
chết (Dc 8, 6).
1041
(1432 2854) Sứ điệp về
phán xét chung mời gọi con người sám hối, trong
khi Thiên Chúa c̣n cho "thời gian thi ân, thời gian cứu
độ" (2 Cr 6, 2). Sứ điệp này nhắc nhở
chúng ta kính sợ Thiên Chúa, khuyến khích ta dấn thân cho sự
công chính của Nước Trời, loan báo "niềm hy vọng
hồng phúc" (Tt 2, 13), ngày Đức Giê-su ngự đến
"để được tôn vinh giữa Dân Thánh của
người và được ngưỡng mộ giữa
mọi kẻ đă tin" (2 Tx 1, 10).
VI. HY VỌNG TRỜI MỚI
ĐẤT MỚI
1042
(769 670) Nước Thiên Chúa sẽ
viên măn trong ngày tận thế. Sau phán xét chung, những
người công chính, được vinh thăng cả hồn
lẫn xác để hiển trị muôn đời với
Đức Ki-tô và toàn thể vũ trụ sẽ được
đổi mới:
Bấy
giờ, Hội Thánh "kết thúc trong vinh quang trên trời,
khi toàn thể vũ trụ cùng với loài người
được canh tân và đạt tới viên măn trong Chúa
Ki-tô" (LG 48).
1043
(671 280 518) Kinh Thánh gọi nhân
loại và thế giới được canh tân cách huyền
diệu này là "Trời Mới và Đất Mới" (2 Pr
3, 13) (x. Kh 21, 1). Khi ấy ư định "qui tụ muôn
loài trong trời đất dưới quyền một thủ
lănh là Đức Ki-tô" (Ep 1, 10) của Thiên Chúa sẽ
được thành tựu.
1044 Thiên Chúa sẽ ngự giữa loài
người trong "vũ trụ mới" này (Kh 21, 5) tức
là thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc. "Người sẽ lau sạch
nước mắt họ : sẽ không c̣n sự chết,
cũng chẳng c̣n tang tóc, kêu than và đau khổ, v́ những
điều cũ đă biến mất" (Kh 21, 4) (x. Kh
21, 27).
1045
(775 1404) Về phần con
người, đó là lúc nhân loại hoàn toàn hiệp nhất
như Thiên Chúa đă định từ tạo thiên lập
địa, mà Hội Thánh lữ hành là "bí tích", sẽ
được thực hiện trong cuộc viên măn này (x. LG
1). Những kẻ được kết hợp với Đức
Ki-tô tạo thành cộng đoàn những người
được cứu chuộc, Thành Thánh của Thiên Chúa
(Kh 21, 2), "Hiền Thê của Con Chiên" (Kh 21, 9). Cộng
đoàn này sẽ không c̣n mang thương tích của tội
lỗi nhơ bẩn (x. Kh 21, 27), ích kỷ từng hủy
diệt hoặc gây tổn thương cho cộng đồng
nhân loại dưới thế. Việc hưởng nhan
thánh Chúa sẽ là nguồn hạnh phúc, b́nh an và hiệp thông
bất tận cho những người được tuyển
chọn, v́ Thiên Chúa tự ban trọn vẹn cho họ.
1046 Về phần vũ trụ, Mặc
Khải xác nhận nhân loại và thế giới vật chất
có chung một vận mệnh :
(349)
"Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ
ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người
... hy vọng có ngày ḿnh cũng sẽ được giải
thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, ... Thật
vậy, chúng ta biết rằng : cho đến bây giờ,
muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại
như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả
chúng ta cũng rên siết trong ḷng : chúng ta đă lănh nhận
Thánh Thần như ân huệ mở đầu, nhưng c̣n
trông đợi Thiên Chúa cứu chuộc thân xác chúng ta"
(Rm 8, 19-23).
1047 Thiên Chúa đă tiền định
vũ trụ hữu h́nh cũng phải biến đổi
"để cho thế giới khôi phục lại t́nh trạng
ban đầu, không gây bất kỳ trở ngại nào
để phục vụ người công chính", và vũ
trụ này cùng được vinh quang với họ trong Đức
Giê-su Phục Sinh (T. I-rê-nê, chống lạc giáo 5, 32, 1).
1048
(673) "Chúng ta không biết
được thời gian hoàn tất của trái đất
và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức
biến đổi của vũ trụ. Chắc chắn
h́nh ảnh của một thế giới lệch lạc v́
tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được
biết Thiên Chúa đă dọn sẵn một chỗ ở mới
và một đất mới, nơi công bằng ngự trị.
Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa măn và vượt
quá mọi ước vọng an b́nh trào dâng trong ḷng con
người" (GS 39, 1).
1049
(2820) "Sự trông đợi
đất mới không được làm suy giảm, trái lại
phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất
này, nơi mà thân thể gia đ́nh nhân loại mới đang
tăng trưởng và tiên báo một vài h́nh ảnh của
thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân
biệt rơ rệt những tiến bộ trần thế với
sự mở rộng Vương Triều Chúa Ki-tô, nhưng
những tiến bộ này trở thành quan trọng đối
với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có
thể góp phần vào việc tổ chức xă hội loài
người cho tốt đẹp hơn" (GS 39, 2).
1050
(1709 260) "Bởi v́ tất
cả những thành quả tuyệt hảo của bản
chất và tài năng chúng ta, mà chúng ta đă tạo nên khắp
địa cầu theo mệnh lệnh của Chúa và trong
Thánh Thần Người, chúng ta sẽ nhận chúng lại
sau này nhưng chúng đă được thanh luyện khỏi
mọi t́ ố, được chiếu sáng và biến
đổi, khi Chúa Ki-tô trao lại Chúa Cha vương quốc
vĩnh cửu và đại đồng" (x. GS 39, 3; LG
2). Trong cuộc sống vĩnh cửu, Thiên Chúa "có toàn
quyền trên muôn loài" (1Cr 15, 28) :
Chúa
Cha là sự sống đích thực và trường tồn.
Qua Chúa Con và trong Thánh Thần, Người đă ban những
hồng ân thiên quốc cho vạn vật. Do ḷng nhân từ,
Người cũng hứa ban không sai chạy cho chúng ta
đời sống vĩnh cửu (x. T. Si-ren-lô thành
Giêrusalem, minh hoạ giáo lư 18, 29).
TÓM LƯỢC
1051 Ngay sau khi qua đời, mỗi
người nhận lănh phần thưởng phạt đời
đời, trong một cuộc phán xét riêng do Đức Ki-tô, Đấng
phán xét kẻ sống và kẻ chết.
1052 "Chúng tôi tin là linh hồn của
tất cả những ai đă chết trong ơn nghĩa của
Đức Ki-tô ... đều thuộc về Dân Thiên Chúa. Cái chết
sẽ hoàn toàn bị đánh bại, trong ngày Phục Sinh,
ngày linh hồn tái hợp với thân xác "(
1053 "Chúng tôi tin rằng đông
đảo các linh hồn tụ tập chung quanh Chúa Giê-su và
Mẹ Ma-ri-a trên thiên đàng, họp thành Hội Thánh trên trời.
Ở đó trong hạnh phúc đời đời, họ
được diện kiến Thiên Chúa. Ở đó theo cấp
độ khác nhau, họ được nhập đoàn các
thiên thần, cùng hiển trị với Đức Ki-tô trong
vinh quang, nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta và
chuyển cầu cho chúng ta trong t́nh huynh đệ" (
1054 Những ai chết trong ơn
nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện
hoàn toàn, mặc dù đă chắc chắn được
ơn cứu độ muôn đời, c̣n phải chịu
thanh luyện sau khi chết, để đạt được
sự thánh thiện cần thiết trước khi vào
hưởng niềm vui của Thiên Chúa.
1055 Do mầu nhiệm "Các Thánh Hiệp
Thông", Hội Thánh phó thác người quá cố cho Thiên
Chúa từ bi và cầu nguyện cho họ, đặc biệt
trong Thánh Lễ.
1056 Theo gương Đức Ki-tô, Hội
Thánh luôn nhắc nhở tín hữu về "thực tế
u buồn và bi thảm của cái chết đời đời"
(x. DCG 69) c̣n gọi là "hỏa ngục".
1057 H́nh phạt chính của hỏa ngục
là đời đời bị tách khỏi Thiên Chúa; v́ chỉ
nơi Thiên Chúa con người mới t́m được sự
sống và hạnh phúc, là cùng đích và khát vọng của
ḿnh.
1058 Hội Thánh cầu nguyện để
không ai bị hư mất : "Lạy Chúa, xin đừng
bao giờ để con ĺa xa Chúa". Thực ra không ai có thể
tự cứu lấy ḿnh được, nhưng "Thiên
Chúa muốn mọi người được cứu
độ" (1 Tm 2, 4) và đối với Người
"mọi sự đều có thể được"
(Mt 19, 26).
1059 "Hội Thánh Rô-ma tin và tuyên
xưng vững vàng rằng, đến ngày phán xét chung, tất
cả mọi người sẽ tŕnh diện với chính
thân xác ḿnh trước ṭa Đức Ki-tô, để trả lẽ
về những hành vi của ḿnh" (DS 859; x. DS 1549).
1060 Nước Thiên Chúa sẽ viên măn
trong ngày tận thế. Sau phán xét chung, những người
công chính được vinh thăng cả hồn lẫn
xác để hiển trị muôn đời với Đức
Ki-tô, và toàn thể vũ trụ sẽ được đổi
mới. Trong cuộc sống vĩnh cửu, Thiên Chúa có
"toàn quyền trên muôn loài" (1 Cr 15, 28).
1061
(2856) Kinh Tin Kính, cũng
như quyển cuối cùng của Thánh Kinh (x. Kh 22, 21), kết
thúc với từ Híp-ri "A-men". Chúng ta thường gặp
từ này ở cuối các kinh nguyện của Tân Ước.
Hội Thánh cũng chấm dứt các kinh nguyện của
ḿnh bằng "A-men
1062
(214) Trong tiếng Hipri, từ
A-men có cùng gốc với từ "tin", biểu thị
sự vững bền, sự tin cậy được, sự
trung tín. V́ thế, từ "A-men" có thể nói về sự
trung tín của Thiên Chúa đối với chúng ta và sự
tin cậy của chúng ta đối với Người.
1063 (215 156) Trong sách ngôn sứ
I-sai-a, chúng ta thấy có thuật ngữ "Thiên Chúa chân lư,
" dịch sát chữ là "Thiên Chúa của A-men",
nghĩa là Thiên Chúa trung tín với lời hứa : "Trên
trần gian, ai muốn được chúc phúc, th́ cũng muốn
được Thiên Chúa của A-men chúc phúc" (Is 65, 16).
Chúa Giê-su thường dùng từ "A-men" (x. Mt 6, 2. 5.
16), đôi khi lặp lại thành hai lần để nhấn
mạnh (x. Ga 5, 19) điều Người dạy là
đáng tin, thẩm quyền của Người dựa trên
sự chân thật của Thiên Chúa.
1064
(179, 2101) Từ "A-men" ở
cuối kinh Tin Kính lặp lại và xác nhận hai chữ
đầu : "Tôi tin". Tin là thưa "A-men" đối
với lời Chúa, lời hứa, giới răn của
Thiên Chúa, cũng là phó thác trọn vẹn vào Đấng là
"A-men" của t́nh yêu vô tận và của sự trung
tín tuyệt hảo. Như thế, đời sống hằng
ngày của Ki-tô hữu là tiếng thưa "A-men" cho
câu tuyên xưng "Tôi tin" khi nhận bí tích Thánh Tẩy
:
Con phải coi kinh Tin kính
là gương soi. Hăy ngắm nh́n con trong đó: để
xem con có thực sự tin tất cả những ǵ con tuyên
xưng không. Hằng ngày hăy vui mừng v́ con đă tin (x. T.
Âu-tinh bài giảng 58, 11, 13).
1065 Chính Chúa Giê-su Ki-tô là "A-men"
(Kh 3, 14). Người là "A-men" chung cuộc của
t́nh yêu Chúa Cha đối với chúng ta; Người thay
chúng ta và cùng chúng ta thưa "A-men" với Chúa Cha :
"Quả thật, Chúa Ki-tô là "A-men" của mọi
lời Thiên Chúa hứa. V́ thế cũng nhờ Người
mà chúng ta hô lên "A-men" để tôn vinh Thiên Chúa (2 Cr 1,
20) :
Chính nhờ Đức Ki-tô,
cùng với Đức Ki-tô
và trong Đức Ki-tô
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,
mọi vinh quang và danh dự đều
thuộc về Cha
là Thiên Chúa toàn năng đến
muôn thuở muôn đời.
A-MEN.