Mục 12
"Tôi tin có sự sống đời đời"

1020 (1523-1525)  V́ kết hợp cái chết của ḿnh với cái chết của Chúa Giê-su, nên đối với người Ki-tô hữu, chết là về với Chúa và bước vào cuộc sống muôn đời. Khi thay Đức Ki-tô nói lời tha tội lần cuối cùng, xức dầu ban sức mạnh và trao Ḿnh Thánh Chúa như của ăn đàng cho người Ki-tô hữu hấp hối, Hội Thánh dịu dàng trấn an người ấy :

(2677, 336)   Nhân danh Chúa Cha toàn năng, Đấng tạo thành nên con, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng chịu khổ h́nh v́ con, nhân danh Chúa Thánh Thần, Đấng được ban xuống trong con : Hỡi con hăy rời khỏi thế gian này. Hôm nay, con sẽ vào nơi b́nh an và ở bên Chúa trên núi thánh Xi-on, cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, với thánh Giu-se, toàn thể thiên thần và các thánh của Chúa ... Con trở về cùng Đấng sáng tạo đă lấy bùn đất dựng nên con. Khi con ĺa bỏ đời này, xin Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, các thiên thần và toàn thể các thánh ra đón tiếp con... Xin cho con được nh́n thấy tận mắt Đấng Cứu Chuộc con... (kinh hối tử).

I. PHÁN XÉT RIÊNG

1021 (1038 679)  Cái chết kết thúc đời sống con người, nghĩa là chấm dứt thời gian đón nhận hay chối bỏ ân sủng Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Ki-tô (x. 2 Tm 1, 9-10). Khi đề cập đến phán xét, Tân Ước chủ yếu nói về cuộc gặp gỡ chung cuộc với Đức Ki-tô trong ngày quang lâm, nhưng cũng nhiều lần khẳng định có sự thưởng phạt tức khắc ngay sau khi chết, tùy theo công việc và đức tin của mỗi người. Dụ ngôn về người nghèo khó La-gia-rô (x. Lc 16, 22), và lời Đức Ki-tô trên thập giá nói với người trộm lành (x. Lc 23, 43), cũng như nhiều đoạn khác của Tân Ước (x. 2Cr 5, 8; Pl 1, 23; Dt 9, 27;12, 23) nói đến số phận rất khác nhau của từng người (x. Mt 16, 26).
 
1022 (393)   Ngay khi ĺa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị phạt đời đời; tùy theo đời sống của ḿnh trong tương quan với Đức Ki-tô, linh hồn hoặc phải trải qua một cuộc thanh luyện (x. Cđ Lyon:DS 857-858;Cđ . Florence:DS 1304-1306;
Cđ. Trente:DS 1820) hoặc được hưởng phúc trên trời (x. Benoit XII:DS 1000-1001;Gio-an XXII:DS 990) hoặc sa địa ngục vĩnh viễn (x. Benoit XII:DS 1002).

"Khi chết chúng ta sẽ bị Thiên Chúa xét xử căn cứ trên t́nh yêu" (T. Gio-an Thánh giá, Bài giảng 64).

II. THIÊN ĐÀNG

1023 (954)  Những kẻ chết trong ơn nghĩa Chúa và kẻ đă được thanh luyện trọn vẹn, sẽ sống măi với Đức Ki-tô. Muôn đời họ sẽ nên giống Thiên Chúa, v́ Người thế nào họ sẽ được "nh́n thấy Người như vậy" diện đối diện (l Ga 3, 2).

Chúng tôi dùng quyền tông đồ định tín rằng (x. 1Cr 12, 13;Kh 22, 4):"Theo sự an bài chung của Thiên Chúa, từ sau khi Đức Giê-su về trời, linh hồn của tất cả các thánh ... và của mọi Ki-tô hữu đă chết sau khi nhận Phép Rửa của Đức Ki-tô, nếu họ không có ǵ cần thanh luyện hoặc có ǵ cần thanh luyện nhưng đă thanh luyện xong sau khi chết ... th́ các linh hồn này đă, đang và sẽ được ở trên trời trong Nước Trời và trong Thiên Đàng cùng với Đức Ki-tô, được nhập đoàn các thánh thiên thần, ngay cả trước khi thân xác họ sống lại vào ngày phán xét chung. Kể từ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giê-su Ki-tô, các linh hồn này đă và đang được xem thấy Thiên Chúa trực tiếp, diện đối diện, không qua trung gian một thụ tạo nào (x. Benoit XII:DD 1000, x. LG 49).

1024 (260, 326 2734, 1718)  "Thiên Đàng" là cuộc sống viên măn v́ được hiệp thông trong sự sống và t́nh yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, với các thiên thần và các thánh. Thiên Đàng là mục đích tối hậu và là sự hiện thực các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là t́nh trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc.

1025 (1011)   "Lên Thiên Đàng" là "được ở với Đức Ki-tô" (x. Ga 14, 3; Pl 1, 23;1Th 4, 17). Những người được tuyển chọn "sống trong Người", nhưng vẫn giữ, hay nói đúng hơn là t́m được căn tính đích thực của ḿnh, danh xưng riêng của ḿnh (x. Kh 2, 17).
 


"V́ sống là được ở với Đức Ki-tô; và ở đâu có Đức Ki-tô, nơi đó có sự sống, nơi đó là Nước Trời" (x. T. Am-rô-xiô chú giải TM-Lc 10, 121).

1026 (793)   Nhờ đă chết và phục sinh, Chúa Giê-su Ki-tô đă "mở" cửa Thiên Đàng cho chúng ta. Các thánh được hưởng trọn vẹn hoa quả ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô. Người cho những ai đă tin vào Người và trung thành với thánh ư Người được cùng hưởng vinh quang với Người. Thiên Đàng là cộng đồng vĩnh phúc gồm tất cả những người đă được tháp nhập trọn vẹn vào Đức Ki-tô.

1027 (959, 1720)   Chúng ta không đủ khả năng hiểu biết và tŕnh bày mầu nhiệm hiệp thông vinh phúc với Thiên Chúa và với tất cả những người ở trong Đức Ki-tô. Khi nói về mầu nhiệm này, Kinh Thánh dùng những h́nh ảnh như sự sống, ánh sáng, b́nh an, tiệc cưới, rượu mới trong Nước Trời, nhà Cha, Thành Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc, Thiên Đàng : "Điều mắt chẳng hề thấy, điều tai chẳng hề nghe, ḷng người không hề nghĩ đến, đó là điều Thiên Chúa đă dọn sẵn cho những ai yêu mến Người" (1Cr 2, 9).

1028 (1722 163)   Thiên Chúa siêu việt, nên ta chỉ thấy được Người khi chính Người mặc khải mầu nhiệm cho ta chiêm ngưỡng và khi Người ban cho ta khả năng đó. Việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong vinh quang Thiên Quốc được Hội Thánh gọi là "phúc kiến".

"Bạn sẽ được vinh quang và hạnh phúc biết bao: khi bạn được Thiên Chúa tiếp nhận để thấy Người, được vinh dự hưởng niềm vui cứu độ và ánh sáng vĩnh cửu cùng Đức Ki-tô, Chúa của bạn... Trên Thiên Quốc, bạn được hưởng niềm vui của sự bất tử cùng với những người công chính và những bạn hữu của Thiên Chúa" (x. T. Syp-pri-a-nô, thư 56, 10, 1).

1029 (956 668)   Trong vinh quang Thiên Đàng, các thánh vẫn tiếp tục hân hoan thi hành thánh ư Thiên Chúa đối với những người khác và toàn thể các thụ tạo. Và các ngài đă bắt đầu hiển trị với Đức Ki-tô, cùng với Người, các Ngài "hiển trị đời đời" (Kh 22, 5) (x. Mt 25, 21. 23).

III. LUYỆN NGỤC : CUỘC THANH LUYỆN CUỐI CÙNG

1030  Những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắn chắc được cứu độ đời đời, c̣n phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc Thiên Đàng.

1031 (954, 1472)  Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với h́nh phạt đời đời của kẻ bị chúc dữ: Hội Thánh công bố giáo lư về luyện ngục cách riêng trong các công đồng Flôrence (x. DS 1304) và Trentô (x. DS 1820; 1580). Dựa vào một số đoạn Kinh Thánh (x. 1Cr 3, 15; 1Pr 1, 7), Hội Thánh nói về lửa thanh luyện.

"Đối với một số tội nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện. Chúa Giê-su xác nhận : nếu ai nói phạm đến Chúa Thánh Thần người ấy sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau (Mt 12, 31). Qua khẳng định này, chúng ta có thể hiểu là một số tội có thể được tha ở đời này, nhưng một số tội khác th́ phải đợi tới đời sau" (x. T. Ghê-gô-ri-ô cả, đối thoại 4, 39).

1032 (958 1371 1479)  Lời dạy này cũng căn cứ trên tập quán cầu nguyện cho những người quá cố mà Kinh thánh đă nói: v́ thế ông Giu-đa Ma-ca-bê-ô "xin dâng lễ đền tội cho những người chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi" (2 Mcb 12, 46). Ngay từ đầu, Hội Thánh vẫn kính nhớ người quá cố và cầu nguyện cho họ, đặc biệt trong thánh lễ (x. DS 856) để một khi được thanh luyện họ có thể hưởng nhan Thánh Chúa. Hội Thánh khuyên chúng ta bố thí, làm việc hăm ḿnh và nhường các ân xá cho những người đă qua đời.

"Chúng ta hăy giúp họ và hăy nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp đă được thanh luyện nhờ việc hiến lễ của cha (G 1, 5), tại sao chúng ta c̣n nghi ngờ là những lễ tế của chúng dâng lên Thiên Chúa, để cầu cho người quá cố, lại không đem đến cho họ một phần an ủi nào? Đừng do dự giúp đỡ và cầu nguyện cho những người đă qua đời"(x. T. Gio-an Kim Khẩu, Bài Giảng về 1Cr 41, 5).

IV. HỎA NGỤC

1033 (1861 393 633)   Chúng ta không thể kết hiệp với Thiên Chúa, nếu không tự nguyện yêu mến Người. Nhưng chúng ta không thể yêu mến Người, nếu chúng ta phạm tội trọng phản nghịch Người, ngược lại lợi ích của người khác và chính ḿnh : "Kẻ không yêu thương th́ c̣n ở trong sự chết. Phàm ai ghét anh em ḿnh th́ là kẻ sát nhân. Và anh em biết : không một kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở trong nó" (1Ga 3, 15). Chúa Giê-su cảnh cáo : chúng ta sẽ bị tách xa Người, nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết của người nghèo và những người bé mọn là anh em của Người (x. Mt 10, 28). Chết mà c̣n mang tội trọng, không hối cải, không đón nhận t́nh yêu nhân hậu của Chúa có nghĩa là phải xa cách Người đời đời, v́ chính chúng ta đă tự do lựa chọn. "Hỏa ngục" chính là t́nh trạng con người dứt khoát tự loại trừ khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và chư thánh.

1034  Chúa Giê-su thường nói về "hỏa ngục", về "lửa không hề tắt" (x. Mt 5, 22. 29;13, 42. 50; Mc 9, 43-48), dành cho những ai đến chết vẫn không tin và không chịu hoán cải. Họ sẽ mất cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (x. Mt 10, 28). Chúa Giê-su đă nghiêm khắc cảnh cáo: "Con Người sẽ sai sứ thần của ḿnh tập trung mọi kẻ gian ác... mà quăng chúng vào ḷ lửa"(Mt 13, 41-42). Người tuyên án : "Quân bị nguyền rủa kia hăy đi khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời" (Mt 25, 41).

1035 (393)   Hội Thánh dạy rằng có hỏa ngục và án phạt đời đời. Ngay sau khi chết, linh hồn kẻ c̣n mắc tội trọng sẽ xuống hỏa ngục chịu cực h́nh "lửa đời đời" (x. DS 76; 409; 411; 801; 858; 1002; 1351; 1575; SPF 12). V́ chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới t́m được sự sống và hạnh phúc hằng khao khát, nên cực h́nh chính của hỏa ngục là đời đời bị tách khỏi Thiên Chúa.

1036 (1734 1428)  Những điều Kinh Thánh xác quyết và Hội Thánh dạy về hỏa ngục là lời mời gọi con người phải có trách nhiệm sử dụng tự do để đạt tới hạnh phúc đời đời; đồng thời thúc giục chúng ta ăn năn hối cải : "Hăy qua cửa hẹp mà vào, v́ cửa rộng và đường rộng th́ đưa tới diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó; c̣n cửa hẹp và đường hẹp th́ đưa đến sự sống, nhưng ít người t́m được lối ấy" (Mt 7, 13-14) :

"V́ không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được liệt vào số người được chúc phúc (x. Mt 25, 31-46), chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng (x. Mt 25, 26) sẽ bị đẩy vào lửa đời đời (x. Mt 25, 41), vào chốn tối tăm, nơi khóc lóc và nghiến răng" (LG 48).

1037 (162 1014-1821)   Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống hỏa ngục (x. DS 397; 1567). Ai tự ư ĺa bỏ Thiên Chúa bằng một tội trọng và chai ĺ đến cùng, sẽ phải xuống hỏa ngục. Trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện hằng ngày của tín hữu, Hội Thánh khẩn cầu Thiên Chúa từ bi, Đấng "không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải" (2 Pr 3, 9) :

"Đây là lễ vật của chúng con là tôi tớ Cha và cũng là lễ vật của toàn thể gia đ́nh Cha nữa, cúi xin Cha vui ḷng chấp nhận. Xin an bài cho chúng con ở đời này được hưởng b́nh an của Cha. Xin cứu chúng con khỏi án phạt đời đời và thâu nhận chúng con vào số những người được Cha tuyển chọn" (Sách lễ Rô-ma, lễ qui Rô-ma 88).

(678-679)

V. PHÁN XÉT CHUNG

1038 (1001, 998)   Phán xét chung sẽ diễn ra ngay sau khi mọi người đă chết được sống lại, "người công chính cũng như kẻ có tội" (Cv 24, 15) sống lại. Đó sẽ là "giờ các kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng Người Con và sẽ ra khỏi đó : ai đă làm điều lành th́ sẽ sống lại để được sống, ai đă làm điều dữ th́ sẽ sống lại để bị kết án" (Ga 5, 28-29). Khi Con Người "vinh hiển quang lâm, có toàn thể thiên sứ theo hầu... Các dân thiên hạ sẽ tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Chiên th́ đặt bên phải, dê th́ đặt bên trái... Thế là bọn này sẽ phải ra đi vào chốn cực h́nh muôn kiếp, c̣n những người công chính sẽ được lên hưởng phúc trường sinh" (x. Mt 25, 31. 32. 46).

1039 (678)   Khi đối diện với Đức Ki-tô Đấng là Chân Lư, quan hệ của từng người với Thiên Chúa sẽ được phơi bày rơ ràng (x. Ga 12, 49). Phán xét chung sẽ cho thấy rơ những việc lành mỗi người đă làm hoặc đă bỏ qua khi c̣n sống ở trần gian, cả đến những hậu quả sâu xa của chúng :
 
"Những việc xấu kẻ dữ đă làm đều bị ghi nhận, dù họ không hay biết. Ngày đó "Thiên Chúa sẽ không c̣n làm thinh nữa" (Tv 50, 3) ... Người quay sang kẻ dữ và nói với họ : "V́ các ngươi, Ta đă đặt trên trần gian những người nghèo hèn yếu đuối. Ta là Đầu của họ, đang ngự trị bên hữu Cha Ta trên Trời, nhưng dưới đất các chi thể của Ta phải đói khổ. Nếu các ngươi đă cho các chi thể của Ta, th́ cái các ngươi cho, đă lên đến tận trên Đầu. Khi Ta đặt những người nghèo khó dưới đất là để làm tùy phái mang những việc tốt lành của các ngươi vào kho của Ta: v́ các ngươi đă không cho họ ǵ cả, nên các ngươi không có ǵ trong nhà Ta" (x. T. Âu-tinh, bài giảng 18, 4, 4).

1040 (637 314)   Phán xét chung sẽ diễn ra khi Đức Ki-tô quang lâm. Chỉ có Chúa Cha mới biết ngày giờ chỉ một ḿnh Người quyết định khi nào sự kiện này sẽ xảy ra. Người sẽ dùng Chúa Con là Đức Giê-su Ki-tô để ra phán quyết chung thẩm về toàn bộ lịch sử. Bấy giờ chúng ta sẽ thông hiểu ư nghĩa tối hậu của toàn bộ công tŕnh sáng tạo, mầu nhiệm cứu độ và những con đường kỳ diệu Thiên Chúa Quan Pḥng dẫn dắt mọi sự đến mục đích tối hậu của chúng. Phán xét chung cho ta thấy Chúa công chính sẽ chiến thắng mọi bất chính của thụ tạo và t́nh yêu của Người mạnh hơn sự chết (Dc 8, 6).

1041 (1432 2854)  Sứ điệp về phán xét chung mời gọi con người sám hối, trong khi Thiên Chúa c̣n cho "thời gian thi ân, thời gian cứu độ" (2 Cr 6, 2). Sứ điệp này nhắc nhở chúng ta kính sợ Thiên Chúa, khuyến khích ta dấn thân cho sự công chính của Nước Trời, loan báo "niềm hy vọng hồng phúc" (Tt 2, 13), ngày Đức Giê-su ngự đến "để được tôn vinh giữa Dân Thánh của người và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đă tin" (2 Tx 1, 10).

VI. HY VỌNG TRỜI MỚI ĐẤT MỚI

1042 (769 670)  Nước Thiên Chúa sẽ viên măn trong ngày tận thế. Sau phán xét chung, những người công chính, được vinh thăng cả hồn lẫn xác để hiển trị muôn đời với Đức Ki-tô và toàn thể vũ trụ sẽ được đổi mới:

Bấy giờ, Hội Thánh "kết thúc trong vinh quang trên trời, khi toàn thể vũ trụ cùng với loài người được canh tân và đạt tới viên măn trong Chúa Ki-tô" (LG 48).

1043 (671 280 518)   Kinh Thánh gọi nhân loại và thế giới được canh tân cách huyền diệu này là "Trời Mới và Đất Mới" (2 Pr 3, 13) (x. Kh 21, 1). Khi ấy ư định "qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lănh là Đức Ki-tô" (Ep 1, 10) của Thiên Chúa sẽ được thành tựu.

1044  Thiên Chúa sẽ ngự giữa loài người trong "vũ trụ mới" này (Kh 21, 5) tức là thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc. "Người sẽ lau sạch nước mắt họ : sẽ không c̣n sự chết, cũng chẳng c̣n tang tóc, kêu than và đau khổ, v́ những điều cũ đă biến mất" (Kh 21, 4) (x. Kh 21, 27).  

1045 (775 1404)   Về phần con người, đó là lúc nhân loại hoàn toàn hiệp nhất như Thiên Chúa đă định từ tạo thiên lập địa, mà Hội Thánh lữ hành là "bí tích", sẽ được thực hiện trong cuộc viên măn này (x. LG 1). Những kẻ được kết hợp với Đức Ki-tô tạo thành cộng đoàn những người được cứu chuộc, Thành Thánh của Thiên Chúa (Kh 21, 2), "Hiền Thê của Con Chiên" (Kh 21, 9). Cộng đoàn này sẽ không c̣n mang thương tích của tội lỗi nhơ bẩn (x. Kh 21, 27), ích kỷ từng hủy diệt hoặc gây tổn thương cho cộng đồng nhân loại dưới thế. Việc hưởng nhan thánh Chúa sẽ là nguồn hạnh phúc, b́nh an và hiệp thông bất tận cho những người được tuyển chọn, v́ Thiên Chúa tự ban trọn vẹn cho họ.

1046  Về phần vũ trụ, Mặc Khải xác nhận nhân loại và thế giới vật chất có chung một vận mệnh :

(349)
 
"Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người ... hy vọng có ngày ḿnh cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, ... Thật vậy, chúng ta biết rằng : cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong ḷng : chúng ta đă lănh nhận Thánh Thần như ân huệ mở đầu, nhưng c̣n trông đợi Thiên Chúa cứu chuộc thân xác chúng ta"
(Rm 8, 19-23).

1047  Thiên Chúa đă tiền định vũ trụ hữu h́nh cũng phải biến đổi "để cho thế giới khôi phục lại t́nh trạng ban đầu, không gây bất kỳ trở ngại nào để phục vụ người công chính", và vũ trụ này cùng được vinh quang với họ trong Đức Giê-su Phục Sinh (T. I-rê-nê, chống lạc giáo 5, 32, 1).

1048 (673)   "Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi của vũ trụ. Chắc chắn h́nh ảnh của một thế giới lệch lạc v́ tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đă dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa măn và vượt quá mọi ước vọng an b́nh trào dâng trong ḷng con người" (GS 39, 1).

1049 (2820)  "Sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà thân thể gia đ́nh nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài h́nh ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rơ rệt những tiến bộ trần thế với sự mở rộng Vương Triều Chúa Ki-tô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xă hội loài người cho tốt đẹp hơn" (GS 39, 2).

1050 (1709 260)   "Bởi v́ tất cả những thành quả tuyệt hảo của bản chất và tài năng chúng ta, mà chúng ta đă tạo nên khắp địa cầu theo mệnh lệnh của Chúa và trong Thánh Thần Người, chúng ta sẽ nhận chúng lại sau này nhưng chúng đă được thanh luyện khỏi mọi t́ ố, được chiếu sáng và biến đổi, khi Chúa Ki-tô trao lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng" (x. GS 39, 3; LG 2). Trong cuộc sống vĩnh cửu, Thiên Chúa "có toàn quyền trên muôn loài" (1Cr 15, 28) :

Chúa Cha là sự sống đích thực và trường tồn. Qua Chúa Con và trong Thánh Thần, Người đă ban những hồng ân thiên quốc cho vạn vật. Do ḷng nhân từ, Người cũng hứa ban không sai chạy cho chúng ta đời sống vĩnh cửu (x. T. Si-ren-lô thành Giêrusalem, minh hoạ giáo lư 18, 29).

TÓM LƯỢC
 
1051  Ngay sau khi qua đời, mỗi người nhận lănh phần thưởng phạt đời đời, trong một cuộc phán xét riêng do Đức Ki-tô, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết.

1052  "Chúng tôi tin là linh hồn của tất cả những ai đă chết trong ơn nghĩa của Đức Ki-tô ... đều thuộc về Dân Thiên Chúa. Cái chết sẽ hoàn toàn bị đánh bại, trong ngày Phục Sinh, ngày linh hồn tái hợp với thân xác "(SPF 28).  

1053   "Chúng tôi tin rằng đông đảo các linh hồn tụ tập chung quanh Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a trên thiên đàng, họp thành Hội Thánh trên trời. Ở đó trong hạnh phúc đời đời, họ được diện kiến Thiên Chúa. Ở đó theo cấp độ khác nhau, họ được nhập đoàn các thiên thần, cùng hiển trị với Đức Ki-tô trong vinh quang, nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta và chuyển cầu cho chúng ta trong t́nh huynh đệ" (SPF 29).

1054   Những ai chết trong ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù đă chắc chắn được ơn cứu độ muôn đời, c̣n phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết trước khi vào hưởng niềm vui của Thiên Chúa.

1055   Do mầu nhiệm "Các Thánh Hiệp Thông", Hội Thánh phó thác người quá cố cho Thiên Chúa từ bi và cầu nguyện cho họ, đặc biệt trong Thánh Lễ.

1056  Theo gương Đức Ki-tô, Hội Thánh luôn nhắc nhở tín hữu về "thực tế u buồn và bi thảm của cái chết đời đời" (x. DCG 69) c̣n gọi là "hỏa ngục".

1057  H́nh phạt chính của hỏa ngục là đời đời bị tách khỏi Thiên Chúa; v́ chỉ nơi Thiên Chúa con người mới t́m được sự sống và hạnh phúc, là cùng đích và khát vọng của ḿnh.

1058  Hội Thánh cầu nguyện để không ai bị hư mất : "Lạy Chúa, xin đừng bao giờ để con ĺa xa Chúa". Thực ra không ai có thể tự cứu lấy ḿnh được, nhưng "Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ" (1 Tm 2, 4) và đối với Người "mọi sự đều có thể được" (Mt 19, 26).

1059   "Hội Thánh Rô-ma tin và tuyên xưng vững vàng rằng, đến ngày phán xét chung, tất cả mọi người sẽ tŕnh diện với chính thân xác ḿnh trước ṭa Đức Ki-tô, để trả lẽ về những hành vi của ḿnh" (DS 859; x. DS 1549).

1060  Nước Thiên Chúa sẽ viên măn trong ngày tận thế. Sau phán xét chung, những người công chính được vinh thăng cả hồn lẫn xác để hiển trị muôn đời với Đức Ki-tô, và toàn thể vũ trụ sẽ được đổi mới. Trong cuộc sống vĩnh cửu, Thiên Chúa có "toàn quyền trên muôn loài" (1 Cr 15, 28).
 

 

"A-MEN"

1061 (2856)   Kinh Tin Kính, cũng như quyển cuối cùng của Thánh Kinh (x. Kh 22, 21), kết thúc với từ Híp-ri "A-men". Chúng ta thường gặp từ này ở cuối các kinh nguyện của Tân Ước. Hội Thánh cũng chấm dứt các kinh nguyện của ḿnh bằng "A-men

1062 (214)   Trong tiếng Hipri, từ A-men có cùng gốc với từ "tin", biểu thị sự vững bền, sự tin cậy được, sự trung tín. V́ thế, từ "A-men" có thể nói về sự trung tín của Thiên Chúa đối với chúng ta và sự tin cậy của chúng ta đối với Người.
 
1063 (215 156)   Trong sách ngôn sứ I-sai-a, chúng ta thấy có thuật ngữ "Thiên Chúa chân lư, " dịch sát chữ là "Thiên Chúa của A-men", nghĩa là Thiên Chúa trung tín với lời hứa : "Trên trần gian, ai muốn được chúc phúc, th́ cũng muốn được Thiên Chúa của A-men chúc phúc" (Is 65, 16). Chúa Giê-su thường dùng từ "A-men" (x. Mt 6, 2. 5. 16), đôi khi lặp lại thành hai lần để nhấn mạnh (x. Ga 5, 19) điều Người dạy là đáng tin, thẩm quyền của Người dựa trên sự chân thật của Thiên Chúa.

1064 (179, 2101)  Từ "A-men" ở cuối kinh Tin Kính lặp lại và xác nhận hai chữ đầu : "Tôi tin". Tin là thưa "A-men" đối với lời Chúa, lời hứa, giới răn của Thiên Chúa, cũng là phó thác trọn vẹn vào Đấng là "A-men" của t́nh yêu vô tận và của sự trung tín tuyệt hảo. Như thế, đời sống hằng ngày của Ki-tô hữu là tiếng thưa "A-men" cho câu tuyên xưng "Tôi tin" khi nhận bí tích Thánh Tẩy :

Con phải coi kinh Tin kính là gương soi. Hăy ngắm nh́n con trong đó: để xem con có thực sự tin tất cả những ǵ con tuyên xưng không. Hằng ngày hăy vui mừng v́ con đă tin (x. T. Âu-tinh bài giảng 58, 11, 13).

1065  Chính Chúa Giê-su Ki-tô là "A-men" (Kh 3, 14). Người là "A-men" chung cuộc của t́nh yêu Chúa Cha đối với chúng ta; Người thay chúng ta và cùng chúng ta thưa "A-men" với Chúa Cha : "Quả thật, Chúa Ki-tô là "A-men" của mọi lời Thiên Chúa hứa. V́ thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên "A-men" để tôn vinh Thiên Chúa (2 Cr 1, 20) :

Chính nhờ Đức Ki-tô,

cùng với Đức Ki-tô

và trong Đức Ki-tô

hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,

mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Cha

là Thiên Chúa toàn năng đến muôn thuở muôn đời.

A-MEN.