811 (750 832, 865) "Trong
kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Hội Thánh là duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền" (LG 8). Bốn thuộc tính bất khả phân ly này (DS
2888) cho thấy những nét cốt yếu và sứ mạng
của Hội Thánh. Hội Thánh không tự ḿnh có
được các thuộc tính ấy; chính Chúa Ki-tô, nhờ
Thánh Thần, cho Hội Thánh được duy nhất,
thánh thiện công giáo và tông truyền. Cũng
chính Người mời gọi Hội Thánh thể hiện
các thuộc tính ấy.
812 (l56,
770) Chỉ
có đức tin mới nhận thấy các thuộc tính
của Hội Thánh xuất phát từ nguồn mạch
thần linh. Nhưng những biểu hiện lịch
sử của các thuộc tính ấy là những dấu
chỉ rơ ràng đối với lư trí loài người. Công
Đồng Va-ti-ca-nô I nhắc rằng :
"Căn cứ vào sự thánh thiện, sự duy nhất
mang tính công giáo và sự tồn tại vững bền
của Hội Thánh, Hội Thánh tự ḿnh cũng đă là
lư do mạnh mẽ và thường xuyên để đáng
được tin, là bằng chứng không thể phi bác
được về sứ mạng thần linh của
ḿnh" (DS 30l3).
I. HỘI THÁNH DUY NHẤT
"Mầu nhiệm thánh thiêng
về tính duy nhất của Hội Thánh" (x.
813 (l72
797 766) Căn
cứ vào nguồn gốc, Hội Thánh phải duy nhất :
"Mẫu mực tối cao và nguyên lư của mầu
nhiệm này là sự hiệp nhất trong Ba Ngôi của
một Thiên Chúa duy nhất : Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh
Thần" (x.
"Mầu nhiệm
lạ lùng thay! Vũ
trụ có một Cha duy nhất; một Ngôi Lời duy
nhất và một Thánh Thần duy nhất, đâu
cũng thế chỉ có một người mẹ
đồng trinh duy nhất mà tôi thích gọi là Hội
Thánh" (T. Cờ-lê-men-tê A-lê-xan-ri-a, giáo huấn l, 6).
814 (79l,
873 l202 832) Ngay
từ khởi đầu, Hội Thánh duy nhất này
cũng rất đa dạng. Tính đa dạng này phát
xuất từ những ân huệ khác nhau
của Thiên Chúa cũng như từ số đông
người lănh nhận các ân huệ ấy. Dân
Thiên Chúa duy nhất quy tụ nhiều dân tộc và nhiều
văn hóa khác nhau. Giữa các thành phần của
Hội Thánh vẫn có những ân huệ, những chức
vụ, những hoàn cảnh và những lối sống khác
nhau; "ngay trong sự hiệp thông của Hội Thánh,
cũng có sự hiện diện chính đáng của
những Hội Thánh địa phương, thừa
hưởng những truyền thống riêng" (LG l3). Sự đa dạng làm cho Hội Thánh thêm phong phú
và không nghịch lại sự hiệp nhất. Tuy nhiên tội lỗi và hệ quả nặng
nề của nó không ngừng đe dọa ơn hiệp
nhất. V́ thế thánh Phao-lô đă khuyên
: "Anh em hăy thiết tha duy tŕ sự hiệp
nhất mà Thánh Thần đem lại, bằng cách ăn
ở thuận ḥa gắn bó với nhau" (Ep 4, 3).
815 (l827 830 , 837) Đâu là
những mối dây liên kết tạo sự hiệp
nhất trong Hội Thánh? "Trên hết là
đức ái: mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl
3, l4). Sự hiệp nhất của Hội Thánh
lữ hành c̣n được bảo đảm bằng những
dây liên kết hữu h́nh :
(173)
·
-Tuyên xưng một đức tin duy nhất
nhận được từ các tông đồ
·
-Cử hành chung việc phụng tự dâng lên Thiên
Chúa, nhất là các bí tích;
·
-Kế nhiệm tông đồ qua bí tích Truyền
Chức Thánh để giữ ǵn sự ḥa hợp huynh
đệ của gia đ́nh Thiên Chúa (x.
816 "Hội
Thánh duy nhất của Đức Ki-tô... là Hội Thánh mà
Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi phục sinh, đă
trao phó cho Phê-rô chăn dắt. Người phó thác cho Phê-rô
cũng như cho các tông đồ khác truyền bá, cai
quản ... Như là một xă hội được
thiết lập qui củ trên thế gian, Hội Thánh
ấy được thể hiện nơi Hội Thánh
Công Giáo do vị kế nhiệm Phê-rô và các giám mục
hiệp thông với Ngài điều khiển" (LG 8).
(830) Sắc lệnh về Hiệp
Nhất của Công Đồng Va-ti-ca-nô II nói rơ :
"Chỉ nhờ Hội Thánh Công Giáo của Chúa Ki-tô"
là "phương thế cứu độ chung",
mới có thể đạt được đầy
đủ các phương tiện cứu độ. V́ chúng
tôi tin, Chúa đă ủy thác tất cả sản nghiệp
Tân Ước cho cộng đoàn tông đồ do Phê-rô lănh
đạo, để tạo thành một Thân Thể duy
nhất của Chúa Ki-tô ở trần gian. Tất
cả những ai đă thuộc về Dân Chúa một cách
nào đó, đều phải tháp nhập vào Thân Thể
ấy" (
Sự hiệp nhất bị
tổn thương
817 (2089) Thực ra
"ngay từ buổi sơ khai, trong Hội Thánh
độc nhất và duy nhất của Thiên Chúa, đă
xuất hiện ít nhiều rạn nứt mà thánh Phao-lô
đă nặng lời quở trách như là đáng lên án. Trong các thời đại kế tiếp, phát sinh
nhiều phân rẽ trầm trọng hơn và nhiều công
đoàn đáng kể đă hoàn toàn ly khai khỏi sự
hiệp thông với Hội Thánh Công Giáo, đôi khi tại
lỗi của những người ở cả hai bên"
(x. UR 3). Những đoạn tuyệt làm tổn
thương sự hiệp nhất của Nhiệm Thể
Chúa Ki-tô (lạc giáo, bội giáo và ly giáo) (x. CIC can 75l) đă
do tội lỗi con người gây ra :
"Ở đâu có
tội lỗi, ở đó có chia rẽ, ly giáo, lạc giáo,
có tranh chấp. Trái lại, ở đâu có nhân đức, ở
đó có hiệp nhất, có hoà hợp làm cho tất cả
các tín hữu chỉ c̣n là một thân thể và một linh
hồn" (O-ri-gê-nê, chú giải
đoạn Êdêkien 9, 1).
818 (127l) "Ngày nay
những người sinh trưởng trong các cộng
đoàn ly khai ấy, và thấm nhuần đức tin
nơi Chúa Ki-tô, không thể bị kết tội chia
rẽ. Hội Thánh Công Giáo kính trọng, yêu thương
họ như anh em ... . Một khi đă
được công chính hóa nhờ đức tin khi chịu
Phép Rửa tội, họ đă được tháp nhập
vào Chúa Ki-tô, và v́ thế có quyền mang danh Ki-tô hữu,
xứng đáng được con cái của Hội Thánh
Công giáo nh́n nhận là anh em trong Chúa" (UR 3).
819 Hơn nữa
có "nhiều yếu tố thánh hóa và chân lư"(x. LG 8)
không nằm trong giới hạn hữu h́nh của Hội
Thánh Công Giáo như : "Lời Chúa ghi chép trong Thánh Kinh,
đời sống trong ơn thánh, đức tin, cậy,
mến, và các ơn nội tâm do Thánh Thần ban, cùng
những yếu tố hữu h́nh khác" (x. UR 3; LG 15).
Thánh Thần của Đức Ki-tô dùng những Giáo Hội và
cộng đoàn ấy như những phương tiện
cứu độ có sức mạnh xuất phát từ
sự sung măn của ân sủng và của
sự thật mà Đức Ki-tô đă giao phó cho Hội Thánh
Công Giáo. Tất cả những điều
thiện hảo đó đều xuất phát từ Đức
Ki-tô và dẫn đến Đức Ki-tô (x.
Tiến đến hiệp
nhất
820 (2748) "Đức
Ki-tô từ ban đầu đă rộng ban cho Hội Thánh
ơn hiệp nhất. Chúng tôi tin rằng
sự hiệp nhất ấy tồn tại măi trong Hội
Thánh Công Giáo và chúng tôi hy vọng sự hiệp nhất ngày
càng phát triển cho đến ngày tận thế" (x.
821 Để đáp
lại lời mời gọi hiệp nhất của Chúa
Thánh Thần, Hội Thánh cần :
·
canh tân
thường xuyên để ngày càng trung thành hơn với
ơn gọi của ḿnh. Sự canh tân này là động
lực của phong trào hiệp nhất (x.
·
(827) -hoán cải nội tâm "để sống
phù hợp hơn với Tin Mừng" (
·
(279) cầu
nguyện chung, v́ "sự hoán cải tâm hồn và
đời sống thánh thiện cùng với những
lời kinh chung hoặc riêng cầu cho sự hiệp
nhất các Ki-tô hữu, phải được coi như là
linh hồn của mọi phong trào đại kết và
xứng đáng mệnh danh là" đại kết thiêng
liêng" (
·
hiểu biết nhau trong t́nh huynh đệ (x.
·
đào tạo các tín hữu, nhất là các linh
mục theo hướng đại kết (x.
·
đối
thoại giữa các nhà thần học, gặp gỡ
giữa các Ki-tô hữu của các Hội Thánh và các cộng
đoàn khác nhau (x.
·
Hợp tác giữa các Ki-tô hữu trong các lănh
vực khác nhau để phục vụ con người (x.
822 Mối bận
tâm tái lập hiệp nhất "liên hệ đến toàn
thể Hội Thánh, tín hữu cũng như mục
tử" (
II.
HỘI THÁNH THÁNH THIỆN
823 (459
796 946) "Chúng
tôi tin Hội Thánh ... măi măi thánh thiện. Thật vậy,
Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh
Thần, được ca tụng là "Đấng Thánh duy
nhất", đă yêu dấu Hội Thánh như Hiền Thê
của ḿnh và đă hiến thân để thánh hóa Hội
Thánh. Người kết hiệp với Hội Thánh như
Thân Thể ḿnh, và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần
để làm vinh danh Thiên Chúa" (x. LG 39). V́ thế Hội
Thánh là "Dân Thánh của Thiên Chúa" (x. LG l2) và các thành
viên của Hội Thánh được gọi là
"thánh" (x Cv 9, l3; 1Cr 6, l;l6, l).
824 (8l6) Nhờ
kết hiệp với Đức Ki-tô, Hội Thánh
được Người thánh hóa. Nhờ Người và trong Người, Hội
Thánh cũng thánh hóa. "Tất cả
các công việc của Hội Thánh đều hướng
về cứu cánh là thánh hóa loài người trong Đức
Ki-tô và tôn vinh Thiên Chúa" (x. SC l0). Hội
Thánh được ủy thác "đầy đu<150)
các phương tiện cứu độ" (x.
825 (670
2013) "Dưới
thế, Hội Thánh được trang điểm
bằng một sự thánh thiện đích thật, tuy
chưa hoàn hảo" (x. LG 48). Nhưng các chi thể
của Hội Thánh c̣n phải phấn đấu
để đạt tới sự thánh thiện hoàn hảo : "Được ban cho những
phương tiện cứu rỗi dồi dào và cao cả
như thế, mọi Ki-tô hữu, dù ở địa
vị nào, bậc sống nào, đều được
Chúa kêu gọi đạt tới sự thánh thiện
trọn hảo như sự trọn hảo của Chúa Cha,
mỗi người trong con đường của ḿnh"
(LG 11).
826 (l827,
2658) Đức
ái là linh hồn của sự thánh thiện mà Thiên Chúa
mời gọi tất cả chúng ta đạt đến :
"Đức ái chi phối mọi phương thế nên
thánh, là linh hồn của chúng và đưa chúng đến
cùng đích" (LG 42).
(864) "Tôi hiểu rằng nếu
Hội Thánh có một thân thể gồm nhiều bộ
phận, th́ trái tim là bộ phận
cần thiết nhất, bộ phận cao quư nhất không
thể thiếu được. Tôi hiểu rằng Hội
Thánh có một trái tim và trái tim ấy cháy
lửa yêu mến. Tôi hiểu rằng chỉ có t́nh
thương khiến cho các chi thể Hội Thánh hoạt
động, và nếu thiếu T́nh thương, các tông
đồ sẽ không loan báo Tin Mừng nữa, các vị
Tử đạo sẽ không chịu đổ máu ḿnh
nữa. Tôi hiểu rằng T̀NH THƯƠNG CƯU MANG
TẤT CẢ CÁC ƠN GỌI, T̀NH THƯƠNG LÀ TẤT
CẢ, T̀NH THƯƠNG BAO TRÙM MỌI THỜI ĐẠI VÀ
MỌI NƠI CHỐN(...) TÓM LẠI, T̀NH THƯƠNG LÀ
VĨNH CỬU (T. Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, Tự thuật B
3v).
827 (1425-
1429 821) "Chúa Ki-tô "thánh
thiện, vô tội, tinh tuyền" (x. Dt 7, 26) không hề
phạm tội (x. 2Cr 5, 21), chỉ đến để
đền tội cho dân (x. Dt 2, 17); c̣n Hội Thánh, v́ ôm
ấp trong ḷng những kẻ tội lỗi, nên vừa
thánh thiện vừa phải luôn thanh luyện ḿnh. Do đó,
Hội Thánh luôn nỗ lực sám hối và canh tân" (x. LG
8;
"Dù c̣n mang trong ḿnh những
người tội lỗi, Hội Thánh vẫn thánh
thiện, v́ Hội Thánh không có sự sống nào khác ngoài
sự sống ân sủng : chính khi sống đời
sống của Hội Thánh, các thành viên của Hội Thánh được
thánh hóa; tách khỏi sự sống này, họ rơi vào
tội lỗi và hỗn loạn, ngăn cản Hội
Thánh chiếu tỏa sự thánh thiện cho thế
giới. Dù có quyền giải thoát con cái ḿnh khỏi
tội nhờ Máu Đức Ki-tô và hồng ân của Thánh
Thần, Hội Thánh vẫn phải chịu đau khổ
và đền bù những lỗi phạm ấy (x.
828 (1173 2045) Khi phong thánh cho
một số tín hữu, nghĩa là khi long trọng tuyên
bố họ đă thực hành một cách anh dũng các nhân
đức và đă sống trung thành với ân sủng Chúa,
Hội Thánh nh́n nhận quyền năng của Thần Linh
thánh thiện ngự trị trong Hội Thánh và nâng
đỡ niềm hy vọng của các tín hữu, bằng
cách giới thiệu cho họ những gương mẫu
và người chuyển cầu (x. LG 40;48-5l). "Các thánh
nam nữ luôn là nguồn mạch và là khởi điểm
của sự canh tân trong những thời điểm khó
khăn nhất của lịch sư Hội Thánh" (x. CL
l6, 3). Quả thế, "sự thánh thiện là nguồn
mạch bí ẩn và là khuôn vàng thước ngọc cho
hoạt động tông đồ và sự nhiệt t́nh
truyền giáo của Hội Thánh" (CL l7, 3).
829 (1172
972) "Nơi Đức Trinh
Nữ Ma-ri-a, Hội Thánh đă đạt tới sự
toàn thiện, trở nên không vết nhăn, không t́ ố,
nhưng các Ki-tô hữu c̣n phải cố gắng chiến
thắng tội lỗi, để tiến trên con
đường thánh thiện; v́ thế, họ
ngước nh́n lên Đức Ma-ri-a" (x. LG 65): nơi
Đức Mẹ, Hội Thánh thực sự thánh thiện
rồi.
III. HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Công Giáo là ǵ?
830 "Công Giáo" là "phổ
quát" theo nghĩa "toàn diện" hay "toàn
vẹn". Hội Thánh là Công Giáo theo hai nghĩa:
(795 8l5-
8l6) - Hội Thánh là công giáo v́ Đức Ki-tô hiện diện
trong Hội Thánh "Ở đâu có Đức Ki-tô, ở
đó có Hội Thánh Công Giáo" (x. T I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a 8, 2).
Nơi Hội Thánh hiện hữu Thân Thể Đức Ki-tô trọn
vẹn, kết hợp với Đầu (x. Ep l, 22-23) , v́
tiếp nhận từ Người "trọn vẹn các
phương tiện cứu độ" (x. AG. 6) theo ư
Người muốn : tuyên xưng đức tin chân
thật và đầy đủ, đời sống bí tích
toàn vẹn và thừa tác viên được thụ phong
để liên tục kế nhiệm các tông đồ. Theo
ư nghĩa căn bản này, Hội Thánh là công giáo trong ngày
lễ Ngũ Tuần và măi măi là công giáo cho đến ngày
Chúa quang lâm.
831 (849) Hội Thánh là công giáo v́
được Đức Ki-tô sai đến với toàn
thể nhân loại (x. Mt 28, l9):
(360 5l8) "Mọi người được
mời gọi gia nhập Dân của Thiên Chúa. V́ thế, Dân
mới này, một Dân hiệp nhất và duy nhất, có
bổn phận phải lan rộng khắp thế giới
trải qua mọi thế hệ, hầu hoàn tất kế
hoạch của thánh ư Thiên Chúa, Đấng từ nguyên thủy
đă tạo dựng một bản tính nhân loại duy
nhất, và quyết định sau này tập họp về
một mối tất cả con cái tản mác của
Người... Đặc tính "phổ quát" này, rực
sáng trên Dân Thiên Chúa, là một ân huệ do chính Thiên Chúa ban,
nhờ đó Hội Thánh Công Giáo luôn nỗ lực cách
hữu hiệu qui tụ toàn thể nhân loại cùng
những ǵ tốt lành nơi họ dưới quyền
một thủ lănh là Chúa Ki-tô, trong sự hiệp nhất
của Chúa Thánh Thần (LG l3).
Mỗi Giáo Hội địa
phương cũng là "Công Giáo"
832 (814
811) "Hội Thánh Chúa Ki-tô
thực sự hiện diện trong mọi tập thể
tín hữu địa phương hợp pháp. Những
tập thể này, v́ hiệp nhất với các mục
tử nên trong Tân Ước cũng được gọi
là Hội Thánh. Nơi các tập thể đó, tín hữu
được tụ họp lại nhờ sự rao
giảng Tin Mừng Chúa Ki-tô và mầu nhiệm Tiệc Thánh
Chúa được cử hành. Chúa Ki-tô vẫn hiện
diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn
hay tản mác khắp nơi. Và nhờ thần lực
Người, Hội Thánh được duy nhất, thánh
thiện, công giáo và tông truyền" (LG 26).
833 (886) Giáo hội địa
phương - trước hết là giáo phận hay giáo khu -
là một cộng đoàn Ki-tô hữu hiệp thông trong
đức tin và các bí tích với Giám Mục của họ
đă được thụ phong do những vị kế
nhiệm các tông đồ (x. CD. ll; CIC, can 368-369). Các Giáo
Hội địa phương "được thành
lập theo h́nh ảnh Hội Thánh phổ quát; chính nhờ
và trong các Giáo Hội ấy, mà có Hội Thánh công giáo duy
nhất " (LG 23).
834 (882,
1369) Các Giáo Hội địa
phương là công giáo trọn vẹn khi hiệp thông
với Hội Thánh Rô-ma "giữ vai tṛ chủ tọa
trong đức ái" (x. T. I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a thơ Rm l, l).
"V́ nguồn gốc rất cao quư của Giáo Hội ấy,
mọi Giáo Hội, nghĩa là mọi tín hữu ở khắp
mọi nơi (x. T. I-rê-nê, chống lạc giáo 3, 3, 2; cđ
835 (1202) "Hội Thánh phổ quát không
được xem đơn giản là một tổng
hợp hay một liên minh các Hội Thánh địa
phương. Nhưng Hội Thánh phổ quát do ơn
gọi và sứ mạng, v́ đâm rễ trong những
mảnh đất văn hóa, xă hội, dân tộc khác nhau,
trong mỗi miền của trái đất, nên có những
bộ mặt và những cách diễn tả khác nhau" (x.
EN 62). Sự đa dạng rất phong phú về kỷ
luật nghi thức phụng vụ, di sản thần
học và thiêng liêng riêng của các Giáo Hội địa phương,
"khi hướng về sự hiệp nhất, càng minh
chứng đặc tính công giáo của một Hội Thánh
không thể phân chia" (LG 23).
Ai thuộc về Hội Thánh Công
Giáo
836 (831) "Mọi người
đều được mời gọi vào sự hiệp
nhất công giáo của Dân Thiên Chúa... Họ thuộc về
hoặc hướng về sự hiệp nhất đó,
dưới nhiều thể cách khác nhau : hoặc là các tín
hữu công giáo hoặc là những người tin vào
Đức Ki-tô, cuối cùng là tất cả mọi
người không trừ một ai được Thiên Chúa
kêu mời lănh nhận ơn cứu độ " (LG l3).
837 (771
815 882) "Được kể
là gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Hội Thánh
những ai nhận lănh Thánh Thần Chúa Ki-tô, chấp
nhận trọn vẹn tổ chức và các phương
tiện cứu rỗi được thiết lập trong
Hội Thánh; nhờ các mối liên lạc do việc tuyên
xưng đức tin, các bí tích, việc cai trị Hội
Thánh và sự hiệp thông, họ liên kết với Chúa
Ki-tô trong tổ chức hữu h́nh mà Người
điều khiển nhờ Đức Giáo Hoàng và các giám
mục. Dù được tháp nhập vào Hội Thánh,
nhưng nếu không kiên tŕ sống trong đức ái, th́
vẫn không được cứu độ, v́ tuy
"thể xác" họ thuộc về Hội Thánh,
nhưng "tâm hồn" họ không ở trong Hội
Thánh" (LG l4).
838 (818
1271 1399) "Với những
kẻ đă lănh nhận Phép Rửa, mang danh hiệu Ki-tô
hữu, nhưng không tuyên xưng đức tin trọn
vẹn hoặc không hiệp thông với Đấng kế
nhiệm thánh Phê-rô, Hội Thánh vẫn biết ḿnh kết
hiệp với họ v́ nhiều lư do" (x. LG 15).
"Những ai tin Chúa Ki-tô và đă lănh nhận bí tích Thánh
Tẩy thành sự th́ cũng hiệp thông cách nào đó
với Hội Thánh công giáo, tuy không hoàn toàn" (x. UR. 3).
Với các Hội Thánh chính thống, sự hiệp thông này
sâu đậm đến nỗi "chỉ c̣n thiếu
một chút nữa thôi, th́ hai bên có quyền cử hành chung
Thánh Lễ" (x. Paul VI, bài giảng l4-12 l975; x.
Hội Thánh và những
người ngoài Ki-tô giáo
839 (856) "C̣n những ai chưa lănh
nhận Tin Mừng, cũng được an bài bằng
nhiều cách để thuộc về Dân Thiên Chúa"(LG l6)
:
(63 l47) Tương quan giữa Hội
Thánh và Dân Do Thái. Khi t́m hiểu kỹ càng mầu nhiệm
của chính ḿnh, Hội Thánh, Dân Thiên Chúa trong Giao Ước
mới, khám phá ra mối liên hệ giữa ḿnh với dân Do
thái (x.
840 (674
597) Mặt khác, khi nh́n về
tương lai, Dân Thiên Chúa của Cựu Ước và Dân
Mới của Thiên Chúa đều mong chờ Đấng Mê-si-a
(đến hoặc trở lại). Nhưng Hội Thánh
mong chờ sự trở lại của Đấng Mê-si-a
đă chết và phục sinh, được nh́n nhận là
Đức Chúa và là Con Thiên Chúa; c̣n dân Do Thái mong chờ một
Đấng Mê-si-a không rơ nét, sẽ đến vào ngày tận
thế, một sự mong chờ đầy bi thảm v́
không biết và không nhận Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.
841 Tương quan giữa Hội
Thánh và người Hồi Giáo. "Ư định cứu
độ cũng c̣n bao gồm những ai nhận biết
Đấng Sáng Tạo : trước tiên phải kể
người Hồi Giáo, những người tự
nhận là giữ đức tin của Áp-ra-ham; cùng với
chúng ta, họ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất, nhân
từ, Đấng sẽ phán xét loài người trong ngày sau
hết" (LG l6;
842
(360) Liên hệ giữa
Hội Thánh và các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo trước hết
căn cứ trên liên hệ giữa loài người với
nhau, có cùng một nguồn gốc và một cứu cánh :
"Thật
vậy, mọi dân tộc đều họp thành một
cộng đoàn duy nhất, cùng chung một nguồn
gốc, v́ Thiên Chúa đă cho toàn thể nhân loại sinh
sống trên khắp mặt địa cầu. Họ
lại có cùng một mục đích tối hậu là Thiên
Chúa, Đấng vẫn hằng trải rộng sự quan
pḥng, chứng tích ḷng nhân hậu và ư định cứu
độ cho hết mọi người, cho đến khi
những người được chọn hiệp
nhất với nhau trong Thành Thánh" (
843 (28
856) Hội Thánh nh́n nhận các
tôn giáo khác cũng đang t́m kiếm, "trong bóng tối và
qua các h́nh tượng", Thiên Chúa mà họ không biết
nhưng gần gũi, v́ chính Người ban cho họ
sự sống, hơi thở và tất cả mọi
sự và v́ Người muốn mọi người
đều được cứu độ. Thành thử,
Hội Thánh xem tất cả những ǵ tốt và thật
trong các tôn giáo "như để chuẩn bị họ
lănh nhận Tin Mừng và như một hồng ân mà
Đấng soi sáng mọi người ban cho, để
cuối cùng họ được sống" (LG l6; x.
844 (29) Nhưng trong nếp sống tôn
giáo, con người có những giới hạn và những
sai lầm làm méo mó h́nh ảnh Thiên Chúa :
"Bị
ma quỷ gạt gẫm con người thường phán
đoán sai lạc, đánh đổi chân lư của Thiên Chúa
lấy giả dối khi phụng sự loài thụ tạo
hơn là Đấng Sáng Tạo hoặc liều ḿnh rơi vào
sự thất vọng tột độ, khi sống
chết như không có Thiên Chúa trên đời này" (LG l6).
845 (30
953 1219) Để qui tụ
lại tất cả con cái đă bị tội lỗi làm
tản mác và lạc lối, Chúa Cha muốn tập họp
toàn thể loài người trong Hội Thánh của Chúa Con.
Hội Thánh là nơi loài người t́m lại sự
hiệp nhất và ơn cứu độ. Hội Thánh là
"thế giới đă được ḥa giải"
(x. T. Âu-tinh, bài giảng 96, 7, 9). Hội Thánh là "con tàu
vượt biển trần gian, theo chiều gió của Chúa
Thánh Thần, dưới cánh buồm lộng gió là Thánh Giá
của Đức Chúa" (x. T. Am-bô-rô-si-ô, bàn về
đức trinh khiết l8, ll8). Theo một h́nh ảnh khác
quen thuộc với các giáo phụ, Hội Thánh c̣n
được tượng trưng bằng con tàu của
Nô-e, con tàu duy nhất cứu loài người thoát nạn
Hồng Thủy (x. 1Pr 3, 20-2l).
"Ngoài Hội Thánh không có ơn
cứu độ"
846 Lời khẳng định này
đă được các giáo phụ nhắc đi nhắc
lại, chúng ta phải hiểu thế nào? Lời khẳng
định có nghĩa tích cực là mọi ơn cứu
độ đều phát xuất từ Đức Ki-tô là
Đầu, chảy tràn qua Hội Thánh là Thân Thể của Người
:
(161 1257) "Dựa trên Thánh Kinh và Thánh
Truyền, Công Đồng dạy rằng : Hội Thánh lữ
hành này cần thiết cho ơn cứu độ. Quả
thế, chỉ một ḿnh Đức Ki-tô là trung gian và là
đường cứu độ và Người hiện
diện giữa chúng ta trong Thân Thể Người là
Hội Thánh; chính Người đă minh nhiên công bố
sự cần thiết của đức tin và phép rửa
nên đồng thời Người đă xác nhận sự
cần thiết của Hội Thánh mà mọi người
phải bước vào qua cửa phép rửa. V́ thế,
những ai biết rằng Hội Thánh Công Giáo
được Thiên Chúa thiết lập nhờ Đức
Giê-su Ki-tô, như phương tiện cứu rỗi
cần thiết mà vẫn không muốn gia nhập hoặc
không muốn kiên tŕ sống trong Hội Thánh này th́ không
thể được cứu độ" (LG l4).
847 Lời khẳng định này
không nhắm tới những người, không v́ lỗi
ḿnh mà không biết Đức Ki-tô và Hội Thánh của
Người.
"Thực
thế, những kẻ vô t́nh không nhận biết Tin
Mừng của Chúa Ki-tô và Hội Thánh Người, nhưng
nếu thành tâm t́m kiếm Thiên Chúa, và dưới tác
động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn
Thánh Ư Thiên Chúa trong công việc ḿnh theo sự hướng
dẫn của lương tâm th́ họ có thể
đạt tới ơn cứu độ muôn đời
(LG l6; x. DS 3866-3872).
848 (l260) Dù Thiên Chúa có thể dùng những
đường lối chỉ ḿnh Người biết,
để đưa những kẻ không v́ lỗi ḿnh mà
chưa biết Tin Mừng đến với đức
tin, "v́ không có đức tin th́ không thể làm vui ḷng
Người" (x. Dt 11, 6), nhưng Hội Thánh có bổn
phận và đồng thời có quyền thiêng thánh rao
giảng Tin Mừng"
(x. AG 7) cho tất cả mọi người.
Truyền giáo - Một đ̣i
hỏi của tính công giáo
849 (738,
767) Lệnh truyền giáo.
"Được Thiên Chúa sai đến muôn dân để nên
"bí tích cứu độ phổ quát", Hội Thánh, do
những đ̣i hỏi căn bản của tính công giáo, và
v́ mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập, nhất
quyết loan báo Tin Mừng cho hết mọi
người" (x. AG 7). "Vậy anh em hăy đi
đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân
giữ những điều Thầy đă truyền cho anh
em để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy.
Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế" (Mt 28, l9-20).
850 (257
730) Nguồn gốc và mục
đích của truyền giáo. Lệnh truyền giáo của
Chúa bắt nguồn từ t́nh yêu vĩnh cửu của Ba
Ngôi Chí Thánh : "Tự bản chất, Hội Thánh lữ
hành phải truyền giáo, v́ chính Hội Thánh bắt
nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, theo ư định của Chúa Cha" (x. AG. 2).
Mục đích tối hậu của việc truyền giáo
là làm cho loài người hiệp thông với Chúa Cha và Chúa
Con trong Thánh Thần t́nh yêu (x. Gio-an Phao-lô II, RM. 23) .
851 (221,
429 74, 217 890) Lư do của
truyền giáo. Hội Thánh luôn nhận lấy bổn
phận và nhiệt t́nh truyền giáo từ chính t́nh yêu Thiên
Chúa đối với tất cả mọi người :
"V́ t́nh yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi" (2 Cr 5, l4) (x. AA
6; RM 11). Quả thế, "Thiên Chúa muốn cho mọi
người được cứu độ và đạt
tới sự nhận biết chân lư" (1 Tm 2, 4). Thiên Chúa
muốn tất cả mọi người được
cứu độ nhờ nhận biết chân lư. Trong chân lư
có ơn cứu độ. Những ai để cho Thần
Chân Lư thúc đẩy th́ đă ở trên đường
cứu độ. V́ đă được ủy thác chân lư,
Hội Thánh phải nắm bắt khát vọng của con
người để mang chân lư đến cho họ. V́ tin
vào ư định cứu độ phổ quát của Thiên
Chúa, nên Hội Thánh phải truyền giáo.
852 (2040
2473) Những con
đường truyền giáo. "Chúa Thánh Thần là
người chủ xướng mọi công cuộc
truyền giáo của Hội Thánh" (x. RM. 2l), chính
Người d́u dắt Hội Thánh trên các ne<150)o
đường truyền giáo. "Hội Thánh tiếp
tục và triển khai qua ḍng lịch sử sứ mạng
của chính Chúa Ki-tô, Đấng được cử
đến rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Được Thánh Thần Chúa Ki-tô thúc đẩy, Hội
Thánh cũng phải tiến bước trên chính con
đường Chúa Ki-tô đă đi là nghèo khó, vâng lời,
phục vụ và tự hiến cho đến chết,
để rồi toàn thắng nhờ sự sống
lại của Người" (x. AG 5). Chính như thế
mà "máu các thánh tử đạo là hạt giống
trổ sinh Ki-tô hữu" (Te-tu-li-a-nô, Hộ Giáo 50).
853 (1428
2443) Nhưng trên
đường lữ hành, Hội Thánh cũng kinh
nghiệm rằng "có một khoảng cách giữa
sứ điệp Hội Thánh phải rao giảng và sự
yếu hèn của những con người được
ủy thác Tin Mừng" (x. GS. 43, 6). Chỉ trên con
đường "sám hối và canh tân" (x. LG. 8; x. l5)
và "qua cửa hẹp Thập Giá" (x. AG. l), Dân Thiên
Chúa mới có thể mở rộng Nước Chúa Ki-tô (x.
RM. l2-20). "Cũng như Chúa Ki-tô chỉ thực hiện
công tŕnh cứu chuộc trong nghèo khó và bị bách hại,
Hội Thánh cũng được mời gọi dấn
bước trên con đường ấy, để thông
ban cho loài người những thành quả của ơn
cứu độ" (LG 8).
854 (2105
204) Do chính sứ mạng,
"Hội Thánh đồng hành với toàn thể nhân
loại và cùng chia sẻ số phận với thế
giới. Hội Thánh như men và hồn của xă hội loài
người. Xă hội này được mời gọi
đổi mới trong Đức Ki-tô và trở thành gia đ́nh
của Thiên Chúa" (x. GS. 40, 2). Nỗ lực truyền giáo
đ̣i hỏi sự kiên nhẫn. Nỗ lực đó
bắt đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng
cho các dân tộc và các nhóm người chưa tin vào Chúa Ki-tô
(x. RM. 42-47); tiếp đến là thiết lập những
cộng đoàn Ki-tô hữu thật sự "là dấu
chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trên trần
gian" (x. AG. l5) ; và thành lập những Giáo Hội
địa phương (x. RM. 48-49). Nỗ lực ấy
phải dẫn đến một tiến tŕnh hội
nhập văn hóa, nhằm mục đích làm cho Tin Mừng
nhập thể trong nền văn hóa các dân tộc (x. RM.
52-54); công cuộc này cũng thường gặp thất
bại. "Đối với con người các đoàn
thể hay dân tộc, Hội Thánh chỉ tiếp xúc và thâm
nhập dần dần và như thế đảm nhận
họ vào hưởng sự sung măn công giáo" (AG 6).
855 (82l) Sứ mạng của Hội Thánh
mời gọi các Ki-tô hữu cố gắng tiến
đến sự hiệp nhất (x. RM. 50). "Sự chia
rẽ giữa các Ki-tô hữu ngăn trở Hội Thánh
thực hiện đầy đủ tính công giáo
đặc thù của ḿnh nơi những con cái đă
chịu phép Thánh Tẩy, nhưng c̣n xa cách, chưa hoàn toàn
thông hiệp với Hội Thánh. Hơn nữa, chính Hội
Thánh cũng khó diễn tả đầy đủ tính công
giáo của ḿnh trong đời sống thực tế" (
856 (839
843) Nhiệm vụ truyền
giáo bao hàm một sự đối thoại trân trọng
với những ai chưa chấp nhận Tin Mừng (x. RM.
55). Các tín hữu có thể tiếp nhận nhiều
điều bổ ích cho ḿnh từ cuộc đối
thoại này nhờ học biết thêm "tất cả
những ǵ là chân lư và ân sủng đă có nơi các dân
tộc như một sự hiện diện thầm kín
của Thiên Chúa" (x. AG. 9). Các tín hữu rao giảng Tin
Mừng cho những ai chưa biết, là để củng
cố, bổ túc, nâng cao sự thật và sự thiện mà
Thiên Chúa đă loan truyền giữa loài người,
giữa các dân tộc, cũng là để thanh luyện họ
khỏi sự lầm lạc và sự dữ
"để Thiên Chúa được vinh danh, quỷ
dữ phải hổ thẹn, và loài người
được hạnh phúc" (AG 9).
IV. HỘI THÁNH TÔNG
857 (75) Hội Thánh tông truyền v́
được xây trên nền tảng các tông đồ, theo
3 nghĩa:
·
Hội Thánh đă và đang được xây
dựng trên "nền móng các tông đồ" (x. Ep. 2,
20; Kh. 2l, l4), là những chứng nhân đă được
chính Đức Ki-tô tuyển chọn và sai đi (x. Mt 28, l6-20;
Cv l, 8; ICr 9, l; l5, 7-8; Gl l, l etc...);
·
(l7l) -Hội Thánh
với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần ở trong
Hội Thánh, ǵn giữ và lưu truyền giáo huấn (x. Cv
2, 42), kho tàng quí báu, những lời lành mạnh do các tông đồ
giảng dạy (x. 2 Tim l, l3-l4);
88O, l575
·
Hội Thánh tiếp tục được các tông
đồ giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn
cho đến khi Đức Ki-tô trở lại - nhờ
những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ
mục tử : giám mục đoàn , "với sự
trợ giúp của các linh mục, hiệp nhất với Đấng
kế nhiệm thánh Phê-rô là mục tử tối cao của
Hội Thánh" (AG. 5).
"Lạy Cha
hằng hữu, Cha không bỏ rơi đoàn chiên của
Cha, nhưng nhờ các tông đồ, Cha vẫn luôn giữ
ǵn che chở. Cha c̣n hướng dẫn đoàn chiên đó nhờ
các ngài là những vị lănh đạo Cha đă đặt
làm mục tử thay thế Con Cha" (x. MR lời
tiền tụng các tông đồ I).
Sứ mạng của các tông
đồ
858 (551
425 1086) Đức Giê-su là
Đấng Chúa Cha cử đến với nhân loại. Ngay
từ đầu sứ vụ, Người "kêu gọi
những kẻ Người muốn chọn, và thành lập
nhóm Mười Hai để các ngài ở với
Người và để Người sai đi rao
giảng" (x. Mc 3, l3-l4). Từ đó, các ngài là
"những người được sai đi"
(đó là ư nghĩa của từ Hy Lạp Apostoloi). Qua các
ngài, Đức Ki-tô tiếp tục sứ mạng của
Người : "Như Chúa Cha đă sai Thầy, Thầy
cũng sai anh em" (Ga 20, 2l) (x. l3, 20; l7-l8). Như vậy,
thừa tác vụ của các ngài "nối tiếp sứ
mạng của Đức Ki-tô". Chúa phán với nhóm
Mười Hai : "Ai đón tiếp anh em, là đón
tiếp Thầy" (Mt l0, 40) (x. Lc l0, l6).
859 (876) Đức Giê-su liên kết các tông
đồ với sứ mạng Người nhận
từ Chúa Cha : cũng như "Chúa Con không thể tự
ḿnh làm ǵ" (x. Ga 5, l9. 30), nhưng đón nhận tất
cả từ Chúa Cha, Đấng đă cử Người
đến, th́ những người Đức Giê-su sai đi
cũng không thể làm ǵ được nếu không có
Người (x. Ga l5, 5), Đấng đă truyền lệnh và
ban cho họ quyền năng để thực hiện
sứ mạng. V́ thế, các tông đồ của Đức
Ki-tô biết rằng họ đă được Thiên Chúa
"ban cho làm thừa tác viên Giao Ước mới" (x.
2Cr 3, 6), "thừa tác viên của Thiên Chúa" (x. 2Cr 6, 4),
"là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô" (x. 2Cr 5, 20)
" là tôi tớ của Đức Ki-tô, là người ban phát
các mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cr 4, l).
860 (642
765 l536) Trong nhiệm vụ
các tông đồ, có một điều không thể
truyền lại được : các ngài là chứng nhân
được tuyển chọn cho cuộc Phục Sinh
của Đức Giê-su và là nền móng của Hội Thánh.
Nhưng cũng có một điều trường tồn:
Đức Ki-tô đă hứa ở với các ngài cho đến
tận thế (x. Mt 28, 20). "Sứ mạng của Thiên
Chúa được Đức Ki-tô trao phó cho các tông đồ
sẽ tồn tại cho đến tận thế, bởi
v́ Tin Mừng các ngài có nhiệm vụ rao truyền phải
là lẽ sống của Hội Thánh cho đến trọn
đời, cho đến tận cùng thời gian. V́ thế
các tông đồ đă lo lắng đặt những
người kế nhiệm ḿnh" (LG 20).
Các giám mục kế nhiệm các
tông đồ
861 (77 1087) "Để sứ mạng đă
được ủy thác cho các ngài vẫn được
tiếp tục sau khi các ngài qua đời, các tông
đồ ủy thác, như một di chúc, cho các cộng
sự viên trực tiếp của ḿnh, phải hoàn tất
nhiệm vụ và củng cố công tŕnh các ngài đă
khởi sự, khi khuyên nhủ họ coi sóc đoàn chiên,
trong đó Chúa Thánh Thần đă đặt họ chăn
dắt Hội Thánh Thiên Chúa. Bởi vậy, các ngài
đặt những người như thế rồi ban
quyền cho họ, hầu khi họ qua đời, đă có
những người xứng đáng tiếp nhận
thừa tác vụ của họ" (LG 20; x. T.
Cơ-lê-men-tê I, Giáo hoàng, chú giải thư Cô-rin-tô 42;44).
862 (880
l556) "Cũng như
nhiệm vụ mà Chúa đă đích thân trao phó cho Phê-rô,
thủ lănh các tông đồ và tiên liệu để
truyền lại cho các vị kế nhiệm ông, nhiệm vụ
đó phải thường tồn; th́ cũng thế,
nhiệm vụ trao cho các tông đồ chăn dắt
Hội Thánh cũng phải thường tồn và được
thi hành liên tục do thánh chức giám mục". V́ thế,
Hội Thánh dạy rằng : "Chính Chúa đă lập các
Giám mục kế nhiệm các tông đồ làm mục tử
Hội Thánh. Bởi vậy ai nghe các ngài là nghe Chúa Ki-tô, c̣n
ai khinh dễ các ngài là khinh dễ Chúa Ki-tô và Đấng đă cử
Chúa Ki-tô đến" (LG 20).
Việc
tông đồ
863 (900
2472) Toàn thể Hội Thánh có
tính tông truyền v́ hiệp thông trong đức tin và sự
sống với nguồn cội của ḿnh nhờ các
vị kế nhiệm thánh Phê-rô và các tông đồ. Hội
Thánh c̣n mang tính tông truyền v́ "được sai
đi" khắp thế gian; tất cả các phần
tử của Hội Thánh mỗi người một cách
đều được sai đi. "Ơn gọi Ki-tô
hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông
đồ". Mọi hoạt động của Nhiệm
Thể nhằm "làm cho Nước Đức Ki-tô rộng
mở trên khắp hoàn cầu" được gọi là
"việc tông đồ" (AA 2).
864 (828
824 1324) "V́ Chúa Ki-tô,
Đấng được Chúa Cha cử đến, là
nguồn mạch và là nguyên ủy của mọi việc
tông đồ trong Hội Thánh", nên kết quả phong
phú của việc tông đồ, do các thừa tác viên có
chức thánh cũng như của giáo dân, tùy thuộc vào
sự kết hợp sống động của chính
họ với Chúa Ki-tô (x. Ga l5, 5; AA. 4). Việc tông
đồ thật đa dạng tuỳ theo các ơn
gọi, các nhu cầu thời đại, các ân huệ khác
nhau của Chúa Thánh Thần. Nhưng đức ái
được nuôi dưỡng đặt biệt nhờ
bí tích Thánh Thể, luôn được xem là "linh hồn
của mọi việc tông đồ" (x. AA 3).
865 (811,
541) Hội Thánh duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền trong căn tính sâu xa và
tối hậu của ḿnh, v́ nơi Hội Thánh,
Nước Trời đă hiện hữu và sẽ hoàn tất
trong ngày tận thế. "Nước Trời" chính là
"Triều Đại của Thiên Chúa" (x. Kh l9, 6), đă
xuất hiện trong bản thân của Đức Ki-tô và
đang lớn lên cách mầu nhiệm trong ḷng của
những ai được tháp nhập vào Người, cho
đến khi Người được hiển linh
trọn vẹn trong ngày sau hết. Lúc đó, tất cả
mọi người đă được Người
cứu chuộc, đă được "thánh hóa và
trở nên tinh tuyền trước tôn nhan Thiên Chúa trong t́nh
yêu" (x. Ep l, 4), sẽ được quy tụ thành Dân
duy nhất của Thiên Chúa, "Hiền Thê của Con
Chiên" (x. Kh 2l, 9), "Thành Thánh tự trời, từ
nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa"
(x. Kh 2l, l0-ll); và "tường thành xây trên mười hai
nền móng, trên đó có tên mười hai tông đồ
của Con Chiên" (Kh 21, 14).
TÓM LƯỢC
866 Hội Thánh duy nhất : Hội
Thánh chỉ có một Chúa, tuyên xưng một đức
tin, sinh bởi một Phép Rửa, họp thành một Thân
Thể được Thánh Thần duy nhất làm sinh
động, nhắm đến một niềm hy vọng
duy nhất (x. Ep 4, 3-5) sẽ kết thúc trong sự chấm
dứt mọi chia rẽ.
867 Hội Thánh thánh thiện : Thiên
Chúa chí thánh là Đấng sáng lập Hội Thánh; Đức Ki-tô,
Phu Quân của Hội Thánh đă hiến ḿnh để thánh
hóa Hội Thánh; Thánh Thần ban cho Hội Thánh sự
sống thánh thiện. Dù bao gồm những người
tội lỗi, Hội Thánh vẫn là "cộng đoàn
không tội lỗi của những người tội
lỗi ". Nơi chư thánh, Hội Thánh chiếu
tỏa sự thánh thiện của ḿnh. Nơi Đức
Ma-ri-a, Hội Thánh đạt được "sự
toàn thiện".
868 Hội Thánh công giáo : Hội Thánh
rao giảng đức tin trọn vẹn, tiếp nhận
và quản lư đầy đủ các phương tiện
cứu độ Hội Thánh được sai đến
với mọi dân tộc; Hội Thánh ngỏ lời
với tất cả mọi người; Hội Thánh
bền vững trong mọi thời đại; "tự
bản chất, Hội Thánh phải truyền giáo" (x.
AG. 2).
869 Hội Thánh tông truyền : Hội
Thánh được xây dựng trên nền móng vững
chắc là "mười hai tông đồ của Con
Chiên" (Kh 21, 14); Hội Thánh bất diệt; Hội Thánh
được ǵn giữ không sai lầm trong chân lư: (x. Mt
l6, l8) Đức Ki-tô điều khiển Hội Thánh nhờ
thánh Phê-rô và các tông đồ khác mà những người kế
nhiệm các ngài là Đức Giáo Hoàng và giám mục đoàn.
870 "Hội Thánh duy nhất
của Chúa Ki-tô mà trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng, là duy
nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (...) Hội
Thánh này được thể hiện nơi Hội Thánh
Công Giáo, do vị kế nhiệm Phê-rô và các giám mục
hiệp thông với ngài điều khiển, dù bên ngoài
cơ cấu Hội Thánh cũng có nhiều yếu tố
thánh hóa và chân lư" (LG 8).