683 (424, 2670, 152) "Nếu
không được Thánh Thần giúp sức cho, không ai có thể
nói rằng : Giê-su là Đức Chúa !" (1Cr 12, 3). "Thiên Chúa đă sai Thánh Thần của
Con ḿnh đến ngự trong ḷng anh em mà kêu lên
: "Ab-ba, Cha ơi!" (Ga 4, 6). Nhận thức đức tin này chỉ có thể
có được trong Thánh Thần. Muốn tiếp xúc với
Đức Ki-tô, trước hết phải được
Thánh Thần cảm hóa. Chính Chúa Thánh Thần đến
gặp gỡ và khơi động đức tin nơi
chúng ta. Nhờ phép Thánh Tẩy là bí tích đức tin đầu
tiên, Sự Sống, bắt nguồn nơi Chúa Cha,
được Chúa Con đem đến, và được
Thánh Thần thông truyền cho chúng ta một cách thâm sâu và cá
vị trong Hội Thánh :
(249) Bí tích Thánh Tẩy
ban cho chúng ta ơn tái sinh trong Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con,
trong Chúa Thánh Thần. V́ những ai mang trong ḷng Thánh Thần
của Thiên Chúa, họ được dẫn đến với
Ngôi Lời, nghĩa là Ngôi Con; Chúa Con dâng họ cho Chúa Cha và
Chúa Cha ban cho họ sự sống bất diệt. Vậy
không có Thánh Thần th́ không thể thấy Con Thiên Chúa; không
có Chúa Con, không ai có thể đến gần Chúa Cha, v́ chỉ
có Chúa Con nhận biết Chúa Cha, và nhận biết Chúa Con
là nhờ Chúa Thánh Thần (T. I-rê-nê, tŕnh bày đức tin
tông truyền 7).
684 (236) Bằng ân sủng,
Chúa Thánh Thần đến trước nhất để
khơi dậy đức tin của chúng ta và khơi nguồn
sự sống mới là "Nhận biết Chúa Cha và Đấng
Cha đă cử đến là Đức Giê-su Ki-tô" (Ga 17, 3).
Tuy nhiên trong Ba Ngôi Chí Thánh, Người lại
được mặc khải sau cùng. Thánh Ghê-gô-ri-ô
Na-di-en, được người đương thời
gọi là "nhà thần học", giải thích tiến
tŕnh mặc khải này bằng đường lối
sư phạm "hạ cố "của Thiên Chúa :
Cựu Ước công bố tỏ tường về
Chúa Cha, chưa rơ nét về Chúa Con. Tân Ước tŕnh bày về
Chúa Con, và cho thoáng thấy thiên tính của Chúa Thánh Thần.
Bây giờ, Chúa Thánh Thần đang ở giữa chúng ta và
giúp chúng ta hiểu rơ hơn về Người. Có thể nói : thật là thiếu khôn ngoan khi chưa
tuyên xưng Chúa Cha là Thiên Chúa, lại công bố rơ ràng về
Chúa Con; khi chưa chấp nhận Chúa Con là Thiên Chúa lại
nói thêm về Chúa Thánh Thần. Ánh sáng của mầu nhiệm
Ba Ngôi ngày càng thêm rạng rỡ nhờ những mặc khải
tiệm tiến "từ vinh quang này đến vinh quang
khác" (T. Ghê-gô-ri-ô Na-di-en l. 5, 26).
685 (236) Như thế
tin kính Chúa Thánh Thần là tuyên xưng : Chúa Thánh Thần là một
trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa
Cha và Chúa Con, "cùng được phụng thờ và tôn
vinh với Chúa Cha và Chúa Con" (Kinh tin kính Ni-xê-a
Con-tan-ti-nô-pô-li). Bởi đă bàn về Mầu nhiệm Chúa
Thánh Thần trong thần học về Ba Ngôi, ở đây
chỉ bàn về Thánh Thần trong "nhiệm cục cứu
độ" thôi.
686 (258)
Chúa Thánh Thần cùng hoạt động với
Chúa Cha và Chúa Con từ khởi đầu cho đến lúc
hoàn tất ư định cứu độ chúng ta. Nhưng
chính trong "thời sau hết", được khai mạc
với cuộc Nhập Thể cứu chuộc của Chúa
Con, Chúa Thánh Thần mới được mặc khải
và thông ban, được nh́n nhận và đón tiếp
như một ngôi vị. Được hoàn tất trong Đức
Ki-tô, "Trưởng Tử" và Đầu của công tŕnh
sáng tạo mới, ư định cứu độ của
Thiên Chúa được thành h́nh cụ thể trong nhân loại
nhờ việc thông ban Chúa Thánh Thần : Hội Thánh, sự
hiệp thông trong dân thánh, ơn tha tội, xác phàm sẽ sống
lại, sự sống đời đời.
Mục 8
"Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần"
687 (243)
"Không ai biết được những ǵ nơi
Thiên Chúa, nếu không phải là Thánh Thần của Thiên
Chúa" (1Cr 2, 11). Thánh Thần mặc khải cho
chúng ta biết Thiên Chúa, biết Đức Ki-tô là Ngôi Lời hằng
sống, nhưng Thánh Thần lại không nói về ḿnh. Thánh Thần đă "dùng các ngôn sứ mà phán dạy",
để giúp chúng ta nghe được lời của Chúa
Cha. Nhưng c̣n chính Người, chúng ta lại không
nghe tiếng Người, chúng ta chỉ nhận biết
Người qua việc Người mặc khải và chuẩn
bị tâm hồn chúng ta đón nhận Ngôi Lời bằng
đức tin. Thánh Thần Chân Lư "vén màn cho ta thấy"
Đức Ki-tô, nhưng "không nói điều ǵ về
ḿnh" (Ga 16, 13). Một kiểu xóa ḿnh như vậy,
đúng là phong cách của Thiên Chúa, giải thích tại sao,
"thế gian không thể đón nhận Người, v́
thế gian không thấy và không biết Người", c̣n
những ai tin vào Đức Ki-tô th́ biết Người v́
Người ở lại với họ (Ga 14, 17).
688 V́ là sự hiệp
thông sống động trong đức tin các tông đồ
do Hội Thánh lưu truyền, nên Hội Thánh là nơi chúng
ta nhận biết Thánh Thần :
·
trong Thánh Kinh được Người linh hứng;
·
trong Thánh
Truyền, mà các giáo phụ là những chứng nhân cho mọi
thời đại.
·
trong Huấn Quyền được Người
trợ lực
·
trong Phụng
Vụ Bí Tích mà qua các lời nói và biểu tượng, Thánh
Thần giúp chúng ta hiệp thông với Đức Ki-tô.
·
trong kinh nguyện,
lúc Người chuyển cầu cho chúng ta.
·
trong các
đặc sủng và thừa tác vụ xây dựng Hội
Thánh.
·
trong các dấu
chỉ của đời sống tông đồ và thừa
sai.
·
trong chứng
từ của các thánh nơi Người biểu lộ sự
thánh thiện của Người và tiếp tục công tŕnh
cứu độ.
I. SỨ
MẠNG PHỐI HỢP CỦA CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN
689 (245 254 485) Chúa
Cha đă ban Thánh Thần của Con Một Người
đến trong ḷng chúng ta. Thánh Thần (x. Gl
4. 6) thực sự là Thiên Chúa. Đồng bản thể
với Chúa Cha và Chúa Con, Người không tách rời khỏi
Chúa Cha và Chúa Con, trong đời sống thâm sâu của Ba
Ngôi cũng như trong hồng ân yêu thương của Ba
Ngôi dành cho thế giới. Nhưng khi tôn thờ Ba Ngôi Thiên
Chúa ban sự sống, đồng bản thể và không thể
phân ly, Hội Thánh cũng tuyên xưng Ba Ngôi phân biệt
nhau. Khi Chúa Cha cử Lời của Người đến
với chúng ta, Người luôn luôn gởi đến
"Hơi Thở" của Người nữa
: một sứ mạng phối hợp trong đó Chúa
Con và Chúa Thánh Thần phân biệt, nhưng không tách rời
nhau. Chúa Ki-tô xuất hiện, Người là h́nh ảnh hữu
h́nh của Thiên Chúa vô h́nh, nhưng chính Thánh Thần mặc
khải Chúa Ki-tô cho chúng ta.
690 (436 788) Đức
Giê-su là Ki-tô, nghĩa là Đấng được "xức
dầu". Thiên Chúa đă dùng Thánh Thần mà xức dầu
cho Người nên mọi sự xảy đến kể từ
Nhập Thể đều xuất phát từ nguồn mạch
sung măn này (x. Ga 3, 34). Khi cuối cùng được tôn vinh
(x. Ga 7, 39), Đức Ki-tô đến lượt ḿnh, có thể
cử Thánh Thần từ nơi Chúa Cha đến với
những ai tin Người. Người thông
ban cho họ Vinh Quang của ḿnh (x. Ga 17, 22) tức là Thánh Thần,
Đấng tôn vinh Người (x. Ga 16, 14). Từ lúc
đó, sứ mạng phối hợp này sẽ được
triển khai nơi những người được
Chúa Cha đón nhận làm con trong thân thể Con của Người : Sứ mạng của Thánh Thần,
Đấng làm cho con người thành nghĩa tử, là kết
hiệp họ với Đức Ki-tô và làm cho họ sống
trong Người.
(488) Khái niệm về
xức dầu gợi lên không có khoảng cách nào giữa
Ngôi Con và Thánh Thần. Cũng như lư trí và giác quan không nhận
thấy khoảng cách nào giữa da thịt và việc xức
dầu, th́ việc tiếp xúc giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần
cũng trực tiếp như vậy, đến nổi những
kẻ tiếp xúc với Chúa Con bằng đức tin, cần
phải tiếp xúc với Thánh Thần trước đă. Toàn thân Đức Ki-tô được xức bằng
dầu là Thánh Thần. Do đó, ai tuyên xưng Ngôi Con
là Chúa, th́ tuyên xưng trong Thánh Thần, v́ Thánh Thần luôn
đi trước những người muốn tiến
đến gần Đức Ki-tô bằng đức tin (T.
Ghê-gô-ri-ô thành Nít-xê 3, 1) .
II. DANH XƯNG, CÁC CÁCH GỌI
VÀ CÁC BIỂU TƯỢNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Danh xưng Chúa Thánh Thần
691 "Thánh Thần" là
danh xưng của Đấng chúng ta phụng thờ và tôn vinh
cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Hội Thánh đă nhận danh
xưng này từ Chúa Giê-su và tuyên xưng danh này trong bí tích rửa
tội (x. Mt. 28, 19).
Thánh Thần (Ga 3, 5-8). Đàng khác, "Thần" và
"Thánh" là những thuộc tính thần thiêng chung cho Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng khi nối kết
hai từ này với nhau, Thánh Kinh, Phụng Vụ và ngôn ngữ
thần học muốn chỉ ngôi vị khôn tả của
Chúa Thánh Thần, mà không lẫn lộn với các cách sử
dụng khác về các từ "thần" và
"thánh".
Những
cách gọi Chúa Thánh Thần
692 (1433) Khi Đức
Giê-su loan báo và hứa Chúa Thánh Thần sẽ đến,
Người gọi Thánh Thần là Đấng "Bảo Trợ",
theo nguyên ngữ là: "Đấng được gọi
đến kề bên" (Ga 14, 16. 26; 15, 26; 16, 7). "Đấng
Bào Chữa" thường được dịch là
"Đấng An Ủi", v́ Đức Giê-su là Đấng An ủi
trước nhất (x. 1Ga 2, 1). Chính Chúa Giê-su c̣n gọi
Thánh Thần là "Thần Chân Lư" (Ga 16, 13).
693 Ngoài danh xưng
"Chúa Thánh Thần", được dùng nhiều nhất
trong sách Công Vụ Tông Đồ và các Thánh Thư, ta c̣n thấy
những cách gọi khác nơi thánh Phao-lô: Thần Khí của
Lời hứa (x. Gl 3, 14; Ep 1. 13), Thần Khí làm cho ta nên
nghĩa tử (x. Rm 8, 15; Gl. 4, 6), Thần Khí của Đức
Ki-tô (x. Rm 8, 11), Thần Khí của Đức Chúa (x. 2 Cr 3, 17),
Thần Khí của Thiên Chúa (x. Rm 8, 9. 14; 15, 19; 1 Cr 6, 11; 7,
40); và nơi thánh Phê-rô: "Thần Khí vinh hiển" (1 Pr
4, 14).
Những
biểu tượng về Chúa Thánh Thần
694 (1218 2652) Nước
: trong bí tích Thánh Tẩy, nước là một biểu
tượng đầy ư nghĩa về tác động của
Thánh Thần, v́ sau khi kêu cầu Thánh Thần, nước trở
thành dấu bí tích hữu hiệu của việc tái sinh :
như trong ḷng mẹ, chúng ta được cưu mang trong
nước; nước rửa tội thực sự nói
lên rằng cuộc tái sinh vào đời sống Thiên Chúa
được ban trong Thánh Thần. V́ "đă chịu
phép rửa trong cùng một Thánh Thần", nên chúng ta
"đầy tràn một Thánh Thần duy nhất" (1Cr
12, 13). Chính Thánh Thần là Nước trường sinh chảy
ra từ cạnh sườn Đức Ki-tô chịu đóng
đinh thập giá (x. Ga 19, 34; 1Ga. 5, 8), và chảy thành sự
sống đời đời trong ḷng chúng ta (x. Ga 4, 10. 14;
7, 38; Xh 17, 1-6; Is. 55, 1; Dcr 14, 8; 1Cr 10, 4; Kh 21, 6; 22, 17).
695 (1293
696 (1127 2586 718) Lửa
: Trong khi nước nói đến việc sinh ra và tính phong
phú của Sự Sống được ban trong Thánh Thần,
lửa tượng trưng cho năng lực biến đổi
do tác động của Thánh Thần. Ngôn sứ Ê-li-a,
"xuất hiện như lửa hồng và lời ông
như ngọn đuốc" (Hc 48, 1); bằng lời cầu
nguyện, ông kéo lửa từ trời xuống thiêu cháy hy tế
trên núi Cát-minh (x. 1V 18, 38-39). Đây là h́nh bóng của lửa Thánh
Thần sẽ biến đổi tất cả những ǵ
lửa bén tới. Gio-an Tẩy Giả, "người
đi trước dọn đường cho Chúa, đầy
Thần khí và quyền lực của Ê-li-a" (Lc 1, 17), loan
báo Đức Ki-tô là Đấng "sẽ làm phép rửa trong Thánh
Thần và trong lửa" (Lc 3, 16), Đức Giê-su cũng nói
về Thánh Thần : "Thầy đă đến đem lửa
xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa
ấy bùng cháy lên"(Lc 12, 49). Dưới những h́nh
"giống như lưỡi lửa", Thánh Thần
đậu xuống trên các môn đệ sáng ngày lễ
Ngũ Tuần và họ được tràn đầy Thánh
Thần (Cv 2, 3-4). Truyền thống linh đạo giữ
lại biểu tượng lửa như một trong những
biểu tượng diễn tả đúng nhất về
tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,):
"Anh em đừng dập tắt Thánh Thần" (1Th 5,
19).
697 (484 554) Áng
mây và ánh sáng : Hai biểu tượng này luôn đi
đôi với nhau trong các lần Thánh Thần xuất hiện.
Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước,
áng mây khi chói sáng, khi mờ tối, vừa mặc khải
Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất
vinh quang siêu việt của Người - như lúc Mô-sê trên
núi Xi-nai (x. Xh 24, 15-18), trong lều Hội Ngộ (x. Xh 33,
9-10) và suốt cuộc hành tŕnh trong hoang địa (x. Xh 40,
36-38; 1Cr 10, 1-2); với Xa-lô-môn dịp cung hiến Đền Thờ
(x. 1V 8, 10. 12). Những h́nh bóng này được Đức
Ki-tô thể hiện trong Thánh Thần. Chính Thánh Thần ngự
xuống trên Trinh Nữ Ma-ri-a và "rợp bóng" trên
Người, để Người thụ thai và hạ
sinh Đức Giê-su (Lc 1, 35). Trên núi Hiển Dung, chính Thánh Thần
đến trong "đám mây bao phủ" Đức Giê-su,
Mô-sê và Ê-li-a, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, và "từ đám mây có
tiếng phán rằng : "Đây là Con Ta, Người đă
được Ta tuyển chọn, hăy vâng nghe lời
Người" (Lc 9, 34-35). Cuối cùng, cũng chính đám
mây này "che khuất Đức Giê-su" ngày Thăng Thiên (Cv
1, 9) và sẽ mặc khải Người là Con Người
trong vinh quang ngày tái lâm (x. Lc 21, 27).
698 (1295, 1296 1121) Ấn tín là biểu tượng
gắn liền với biểu tượng xức dầu.
Thật vậy, chính "Thiên Chúa đă đóng ấn xác nhận"
(Ga 6, 27) Đức Ki-tô và cũng đă đóng ấn Thánh Thần
trên chúng ta trong Con của Người (x. 2 Cr 1, 22; Ep 1, 13; 4,
30). H́nh ảnh "ấn tín" đă được dùng
trong một số truyền thống thần học để
diễn tả "ấn tích" không thể xoá được
mà ba bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Truyền Chức Thánh
để lại.
699 (292 1288 1300, 1573 1668)
Bàn tay. Đức Giê-su
đặt tay để chữa lành bệnh nhân (x. Mc 6, 5;
8, 23) và chúc lành cho trẻ nhỏ (x. Mc 10, 16). Nhân danh Người,
các tông đồ cũng làm như vậy (x. Mc 16, 18; Cv 5, 12;
14, 5). Hơn nữa Thánh Thần được thông ban (x.
Cv 8, 17-19; 13, 3; 19, 6) nhờ việc đặt tay của
các tông đồ. Thư Do Thái coi nghi thức đặt tay
vào số "các điều căn bản" của giáo
huấn của ḿnh. Hội Thánh đă giữ lại việc
đặt tay khẩn cầu Thánh Thần trong các bí tích.
700 (2056) Ngón tay. Đức Giê-su "nhờ
ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ" (Lc 11, 20). Nếu ngày
xưa "Thiên Chúa lấy ngón tay" ghi lề luật trên
bia đá (Xh 31, 18), th́ ngày nay Thiên Chúa hằng sống
cũng dùng Thánh Thần, để viết "bức
thư của Đức Ki-tô" được giao phó cho các
tông đồ, "không phải ghi trên những tấm bia bằng
đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức
là ḷng người" (2 Cr 3, 3). Thánh thi : "Veni Creator
Spiritus" khẩn cầu Thánh Thần như là "ngón tay
hữu Chúa Cha".
701 (1219 535) Chim bồ câu : Cuối lụt
hồng thủy (là biểu tượng cho bí tích Thánh Tẩy),
chim bồ câu được ông Nô-ê thả ra, khi trở về
ngậm một nhánh ô-liu xanh tươi, báo cho biết mặt
đất lại có thể ở được (. x. St 8,
8-12). Sau khi Đức Ki-tô nhận Phép Rửa của Gio-an và
lên khỏi nước. Thánh Thần, dưới h́nh chim bồ
câu, đáp xuống và ngự trên Người (x. Mt. 3, 16
par). Thánh Thần cũng xuống và ngự trong tâm hồn
những người lănh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Trong một
số nhà thờ, Thánh Thể được giữ trong một
b́nh bằng kim loại h́nh bồ câu treo bên trên bàn thờ.
Trong các ảnh tượng Ki-tô giáo, h́nh bồ câu là biểu
tượng truyền thống để chỉ Thánh Thần.
II. THÁNH
THẦN VÀ LỜI THIÊN CHÚA TRONG THỜI CỰU ƯỚC
702 (122 107) Từ thuở
ban đầu cho đến khi "thời gian tới hồi
viên măn" (Ga 4, 4), sứ mạng phối hợp của
Ngôi Lời và Thánh Thần của Chúa Cha c̣n bị che khuất
nhưng vẫn luôn hoạt động. Thánh Thần của
Thiên Chúa chuẩn bị cho thời của Đấng Mê-si-a.
Thánh Thần và Đấng Mê-si-a , tuy chưa được mặc
khải trọn vẹn, nhưng đă được hứa
ban để nhân loại chờ đợi và sẵn sàng
đón nhận. V́ vậy, khi đọc Cựu Ước
(x. 2 Cr 3, 14), Hội Thánh t́m hiểu kỹ càng những ǵ
Thánh Thần, "Đấng đă dùng các ngôn sứ mà phán dạy",
muốn nói với chúng ta về Đức Ki-tô.
243 Ngày nay Hội Thánh dùng từ "ngôn sứ"
chỉ chung tất cả những ai được Thánh Thần
linh hứng khi rao giảng hoặc soạn thảo các Sách
Thánh, Cựu Ước cũng như Tân Ước. Truyền
thống Do Thái xếp các tác phẩm thành ba loại : Luật
(năm sách đầu tiên hoặc Ngũ Thư), các Ngôn Sứ
(các sách chúng ta gọi là lịch sử và ngôn sứ) và các
Văn Phẩm (các sách minh triết, đặc biệt là tập
Thánh Vịnh) (x. Lc. 24, 44).
Trong công
tŕnh sáng tạo
703 (292) Lời và
Hơi Thở của Thiên Chúa là nguồn gốc của sự
hiện hữu và sự sống mọi thụ tạo (x.
Tv 33, 6; 104, 30; St 1, 2; 2, 7; Gv 3, 20-21; Xh 37, 10).
(291) Chúa Thánh Thần
ngự trị, thánh hóa và làm cho công tŕnh sáng tạo có sinh
khí, v́ Người là Thiên Chúa đồng bản thể với
Chúa Cha và Chúa Con. Người có quyền trên sự sống,
v́ với tư cách là Thiên Chúa, Người ǵn giữ công
tŕnh sáng tạo trong Chúa Cha nhờ Chúa Con (Phụng vụ
Byzantine. Điệp ca kinh sách các Chúa Nhật tuần 2).
704 (356) "Chính nhờ
đôi tay (là Chúa Con và Chúa Thánh Thần), Thiên Chúa nhào nắn
con người và vẽ chính h́nh dáng của ḿnh trên xác phàm
đă được nắn đúc, để ngay cả những
ǵ hữu h́nh cũng mang nét thiên linh" (T. I-rê-nê, tŕnh bày
đức tin tông truyền).
Thiên Chúa
hứa ban Thánh Thần
705 (410, 2089) Dù bị tội lỗi
và cái chết làm biến dạng, con người vẫn
"là h́nh ảnh Thiên Chúa", là h́nh ảnh Chúa Con,
nhưng "bị tước mất Vinh Quang Thiên Chúa"
(Rm 3, 23), không c̣n "giống Thiên Chúa". Lời hứa với
Áp-ra-ham khai mạc nhiệm cục cứu độ cuối
nhiệm cục này, chính Chúa Con sẽ đảm nhận
"h́nh ảnh" (Ga 1, 14; Pl 2, 7) và tái tạo lại nét
"giống" Chúa Cha bằng cách hoàn trả cho con người
Vinh Quang là Thánh Thần "ban sự sống".
706 (60) Dù Áp-ra-ham không c̣n hy vọng
ǵ, Thiên Chúa vẫn hứa cho ông một miêu duệ, như
là hoa quả của đức tin và quyền năng của
Thánh Thần (x. St. 18, 1-15; Lc 1, 26-38. 54. 55; Ga 1, 12-13; Rm 4,
16-21). Nơi miêu duệ của ông, mọi dân tộc trên mặt
đất sẽ được chúc phúc (x. St 12, 3). Miêu duệ
ấy là Đức Ki-tô (x. Gl. 3, 16). Nơi Người, Thánh Thần
sẽ được ban tràn đầy để quy tụ
"con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một
mối" (x. Ga 11, 52). Qua lời thề hứa với
Áp-ra-ham (x. Lc 1, 73), Thiên Chúa đă cam kết ban Con Chí Ái của
Người (x. St 22, 17-19; Rm 8, 32; Ga 3, 16) và ban "Thánh Thần
của Lời Hứa... Đấng chuẩn bị cho công cuộc
cứu chuộc Dân mà Thiên Chúa đă tạo ra cho ḿnh" (Ep
1, 13-14) (x. Gl 3, 14).
Trong những
cuộc Thần Hiện và Lề Luật
707 Những cuộc thần hiện (Thiên Chúa hiện
ra) soi sáng tiến tŕnh thực hiện lời hứa, từ
các tổ phụ đến Mô-sê, và Giô-su-ê, đến các thị
kiến mở đầu sứ mạng các ngôn sứ lớn.
Truyền thống Ki-tô giáo luôn nh́n nhận trong các cuộc
thần hiện này, Ngôi Lời của Thiên Chúa tỏ ḿnh
cho ta trông thấy và nghe được, vừa được
mặc khải vừa "bị che khuất" trong áng
mây Thánh Thần.
708 (1961, 1964
Trong thời Các Vua và Lưu Đầy
709 (2579, 544) Lề luật vốn
là dấu chỉ lời hứa và Giao Ước, lẽ ra
phải điều khiển con tim và các thể chế của
Dân phát sinh từ đức tin của Áp-ra-ham. "Nếu
các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao
ước của Ta... Ta sẽ coi các ngươi là một
vương quốc tư tế, một dân thánh dành riêng cho
Ta" (Xh 19, 5-6). Nhưng sau thời Đa-vít, It-ra-en sa chước
cám dỗ và trở thành một vương quốc theo kiểu
các dân tộc khác. Thế mà, vương quốc được
Thiên Chúa ban cho Đa-vít sẽ là công tŕnh của Thánh Thần và
thuộc về những người nghèo theo Thánh Thần.
710 V́ quên lăng Lề
Luật và bất trung với Giao Ước, Ít-ra-en đi
vào cơi chết : bị lưu đày, các lời hứa có vẻ
bị thất bại. Thực ra, Thiên Chúa vẫn trung tín thực
hiện lời hứa một cách mầu nhiệm và khởi
sự một cuộc phục hưng như đă hứa,
nhưng phục hưng theo Thánh Thần. Dân Chúa cần trải
qua cuộc thanh luyện này; lưu đày mang sẵn h́nh
bóng Thập Giá trong ư định của Thiên Chúa, và "số
người nghèo sót lại" từ lưu đày trở
về là một trong những h́nh bóng trong sáng nhất về
Hội Thánh.
Mong
đợi Đấng Mê-si-a và Thánh Thần của Người
711 (64) "Này Ta sắp
làm một việc mới" (Is 43, 19). Trong Cựu Ước,
có hai đừơng hướng ngôn sứ: một bên
căn cứ vào sự mong đợi Đấng Mê-si-a; bên kia
loan báo một Thần Khí mới. Hai đường này
đồng qui vào số sót, vào đám Dân nghèo đang mong
đợi và hy vọng ngày Thiên Chúa "an ủi
It-ra-en" và ngày Thiên Chúa "giải phóng Giê-ru-sa-lem"
(x. Lc 2, 25-38).
Trong đoạn trên, chúng ta thấy cách Đức
Giê-su thực hiện những lời tiên tri về Người.
Ở đây, chúng ta giới hạn về những lời
tiên tri có liên quan rơ rệt giữa Đấng Mê-si-a và Thánh Thần
của Người.
712 (439) Những đường
nét về khuôn mặt của Đấng Mê-si-a bắt đầu
xuất hiện trong "sách Em-ma-nu-en" (Is 6-12) đặc
biệt là đoạn Is 11, 1-2:
Từ gốc tổ Giê-sê sẽ đâm ra một
nhánh nhỏ, Từ cội rễ ấy, sẽ mọc ra một
mầm non Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị
này : Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn. Thần Khí mưu
lược và dũng mănh, Thần Khí hiểu biết và kính
sợ ĐỨC CHÚA.
713 (601) Khuôn mặt
Đấng Mê-si-a được mặc khải nhiều nhất
trong bốn bài ca về người Tôi Tớ của Thiên
Chúa. Những bài ca này tiên báo ư nghĩa cuộc khổ nạn
của Đức Giê-su, và cho thấy cách Người sẽ
đổ tràn Thần Khí cho muôn người được
sống: không phải từ bên ngoài, nhưng bằng cách
"mặc lấy thân phận nô lệ" của chúng ta
(Pl 2, 7). Người có thể thông truyền cho chúng ta chính
Thần Khí ban sự sống của Người v́ Người
mang lấy cái chết của chúng ta.
714 Chính v́ thế, Đức
Ki-tô khởi đầu công cuộc loan báo Tin Mừng bằng
cách tuyên bố đoạn ngôn sứ I-sai-a sau đây nói về
Người (Lc 4, 18-19) :
"Thánh
Thần Chúa ngự trên tôi, v́ Chúa đă xức dầu tấn
phong tôi, sai đi báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó
những tấm ḷng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị
giam cầm trả lại tự do những kẻ bị áp
bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. "
715 (1965) Các bản
văn ngôn sứ trực tiếp nói về việc Thánh Thần
đến, là những lời sấm Thiên Chúa nói với những
tâm hồn của dân, bằng ngôn ngữ lời hứa, với
giọng "thương yêu và thành tín". Sáng ngày lễ
Ngũ Tuần, thánh Phê-rô tuyên bố những lời sấm
này đă được ứng nghiệm. Theo các lời hứa
đó, trong "thời sau hết", Thần Khí Thiên Chúa
sẽ đổi mới ḷng người bằng cách ghi khắc
nơi họ một lề luật mới; Người sẽ
qui tụ và giao ḥa những dân tộc bị phân tán và chia rẽ
Người sẽ biến đổi công tŕnh sáng tạo
cũ và Thiên Chúa sẽ ở đó với loài người
trong cảnh thái b́nh.
716 (368) Thánh Thần
đă âm thầm chuẩn bị suốt thời Cựu
Ước một dân để chờ đón Đức Ki-tô.
Dân này gồm "những người nghèo" (x. Xph. 2, 3;
Tv 22, 27; 34, 13; Is 49, 13; 61, 1; v. v...), những người
khiêm nhu và hiền lành, hoàn toàn phó thác cho ư định mầu
nhiệm của Thiên Chúa, những người mong chờ
công lư không phải của loài người nhưng của Đấng
Mê-si-a. Các thánh vịnh, đă nói lên tâm hồn của họ,
tâm hồn đă được Thánh Thần thanh luyện
và soi sáng. Nơi những người nghèo này, Thánh Thần
chuẩn bị cho Chúa"một dân sẵn sàng" (x. Lc l,
17).
IV. THÁNH
THẦN CỦA ĐỨC KI-TÔ - TRONG THỜI VIÊN MĂN
Gio-an, Vị
Tiền Hô, Ngôn Sứ và Tẩy Giả
717 (523) "Có một
người được Thiên Chúa sai đến, tên là
Gio-an" (Ga 1, 6). Gio-an "được được
đầy Thánh Thần, ngay từ khi c̣n trong ḷng mẹ"
(Lc 1, 15. 41), nhờ chính Đức Ki-tô vừa tượng thai
trong ḷng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a bởi quyền năng
Thánh Thần. Việc "Đức Ma- ri-a viếng thăm bà
Ê-li-sa-bet" đă trở thành việc "Thiên Chúa viếng
thăm dân Người" (Lc 1, 68).
718 (696) Gio-an chính là
"ngôn sứ Ê-li-a phải đến" (Mt 17, 10-13) : ngọn
lửa Thánh Thần ở trong ông và sai ông với tư cách
"tiền hô" dọn đường cho Chúa đến.
Nơi Gio-an Tiền Hô, Thánh Thần hoàn tất việc
"chuẩn bị ḷng dân sẵn sàng đón Chúa" (Lc 1,
17).
719 (2684 536) Gio-an
"c̣n hơn một ngôn sứ nữa" (Lc 7, 26). Nơi
ông, Thánh Thần hoàn tất việc "dùng các ngôn sứ mà
phán dạy". Gio-an kết thúc thời đại các ngôn
sứ của Cựu Ước do Ê-li-a khởi đầu
(x. Mt. 11, 13-14). Ông loan báo Chúa sắp an ủi Ít-ra-en, ông là
"tiếng" của Đấng An Ủi đang đến
(Ga 1, 23) (x. Is 40, 1-3). Tương tự như những
người sau này được Thánh Thần chân lư tác
động, "Gio-an đến như chứng nhân để
làm chứng cho ánh sáng" (Ga 1, 7). Chính Gio-an chứng kiến
Thánh Thần hoàn tất "điều các ngôn sứ t́m kiếm,
và các thiên thần ước mong" (1 Pr 1, 10-12) : "Thánh
Thần hiện xuống và ngự trên ai, th́ người
đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi
đă thấy, nên xin chứng thực rằng chính Người
là Con Thiên Chúa. Đây là "Chiên Thiên Chúa" (Ga 1, 33-36).
720 (535) Cuối cùng,
Thánh Thần dùng Gio-an Tẩy Giả báo trước điều
Người sẽ thực hiện với Đức Ki-tô và
trong Đức Ki-tô là tái tạo con người "nên giống
Thiên Chúa". Phép rửa của Gio-an là phép rửa thống
hối, c̣n phép rửa trong nước và trong Thánh Thần sẽ
là cuộc tái sinh (x. Ga 3, 5).
"Mừng
vui lên, hỡi bà đầy ân phúc"
721 (484) Đức Trinh
Nữ Ma-ri-a, Thánh Mẫu chí thánh của Thiên Chúa, là tuyệt
tác của sứ mạng Ngôi Con và Thánh Thần trong thời
viên măn. Lần đầu tiên trong chương tŕnh cứu
độ, và nhờ Thánh Thần chuẩn bị trước,
Chúa Cha đă t́m được nơi Đức Ma-ri-a "chỗ
ở" để Chúa Con và Chúa Thánh Thần có thể
cư ngụ giữa loài người. Theo ư hướng
đó, truyền thống Hội Thánh thường đọc
những bản văn tuyệt tác về đức Khôn
Ngoan (x. Cn 8, 1-9, 6; Hc 24) trong tương quan với Đức
Ma-ri-a : Mẹ được Phụng Vụ ca ngợi là
"Ṭa Đấng Khôn Ngoan".
Những "điều cao cả của Thiên
Chúa" mà Thánh Thần sắp thực hiện nơi Đức
Ki-tô và trong Hội Thánh, Người đă bắt đầu
nơi Đức Ma-ri-a.
722 (2676) Thánh Thần
đă chuẩn bị Đức Ma-ri-a bằng ân sủng. Mẹ
"đầy ân sủng", v́ là Mẹ của Đấng
" nơi Người tất cả sự Viên Măn của
Thiên Tính hiện diện cách cụ thể" (Cl 2, 9). Chỉ
nhờ ân sủng, Mẹ đă được thụ thai
không hề mắc tội, như là thụ tạo khiêm tốn
nhất, xứng đáng nhất để đón nhận hồng
ân khôn tả của Đấng Toàn Năng. Thiên thần
Gáp-ri-en chào Mẹ bằng tước hiệu cao trọng
"Nữ tử Xi-on": "Mừng vui lên (x. Xph. 3, 14;
Gcr 2, 14)!" Khi cưu mang Ngôi Con Hằng Hữu, dưới
tác động Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đă dâng lên Chúa
Cha lời tạ ơn của toàn thể Dân Chúa là Hội
Thánh.
723 (485 506) Nơi Đức
Ma-ri-a, Thánh Thần thực hiện ư định nhân từ
của Chúa Cha. Chính do Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ
đă thụ thai và sinh hạ Con Thiên Chúa; nhờ quyền
năng của Thánh Thần và đức tin (x. Lc l, 26-38; Rm
4, 18-21; Ga. 4, 26-28), Mẹ sinh con mà vẫn trinh khiết vẹn
tuyền một cách độc nhất vô nhị.
724
725 (963) Cuối cùng,
nhờ Đức Ma-ri-a, Thánh Thần bắt đầu làm cho
"loài người Chúa thương" (Lc 2, 14) được
hiệp thông với Đức Ki-tô. Những kẻ khiêm nhu bao
giờ cũng là kẻ đầu tiên đón nhận
Người : các mục đồng, các đạo sĩ,
Xi-mê-on và An-na, đôi tân hôn ở Ca-na và các môn đệ
đầu tiên.
726 (494, 2618) Sau những
công tŕnh kỳ diệu Chúa Thánh Thần đă thực hiện
nơi Mẹ, Đức Ma-ri-a trở nên "Người Nữ",
E-và mới, "mẹ chúng sinh", Mẹ của "Đức
Ki-tô toàn diện" (x. Ga 19, 25-27). Chính với tư cách
này, Mẹ hiện diện với nhóm Mười Hai,
"đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện"
(Cv 1, 14), khi Thánh Thần khai mở "thời đại
cuối cùng", với việc giới thiệu Hội
Thánh vào sáng ngày lễ Ngũ Tuần.
Đức Ki-tô Giê-su
727 (438, 695 536) Tất
cả sứ mạng của Chúa Con và Thánh Thần trong thời
viên măn có thể thu gọn trong việc Chúa Con là Đức
Ki-tô, là Đấng Mê-si-a, Đấng được Thánh Thần
của Chúa Cha xức dầu từ khi nhập thể.
Chúng ta phải đọc trọn tín điều
hai của Kinh Tin Kính dưới ánh sáng này. Tất cả
công tŕnh của Đức Ki-tô là sứ mạng phối hợp
của Chúa Con và Thánh Thần. Ở đây, chúng ta chỉ
đề cập đến lời Đức Ki-tô hứa ban
Thánh Thần và việc Người thực hiện lời
hứa đó sau khi được tôn vinh.
728 (2615) Đức
Giê-su chưa mặc khải trọn vẹn Thánh Thần,
bao lâu Người chưa được tôn vinh nhờ cuộc
Khổ Nạn và Phục Sinh. Tuy nhiên, Người đă dần
dần gợi ư về Thánh Thần khi giảng dạy dân
chúng : Thịt của Người sẽ là "của
ăn cho thế gian được sống" (x. Ga 6, 27,
51. 62-63). Người giải thích hoạt động của
Thánh Thần cho ông Ni-cô-đê-mô (Ga 3, 5-8), cho thiếu phụ
Sa-ma-ri-a (x. Ga 4, 10. 14. 23-24) và những người tham dự
Lễ Lều (x. Ga 7, 37-39). Đối với các môn đệ,
Người đă dạy rơ ràng về Thánh Thần khi nói
đến cầu nguyện và việc họ phải làm
nhân chứng cho Người (x. Lc ll, 13).
729
730 (850) Cuối cùng,
"Giờ" của Đức Giê-su đă đến (x Ga
13, 1; 17, 1): Đức Giê-su trao Thần Khí của Người
vào tay Chúa Cha (x. Lc 23, 46; Ga 19, 30), ngay lúc Người toàn thắng
sự chết bằng cái chết của ḿnh; cho nên ngay khi
"sống lại từ cơi chết nhờ quyền
năng vinh hiển Chúa Cha" (Rm 6, 4), Người thổi
hơi "ban Thánh Thần cho các môn đệ" (x. Ga 20,
22). Từ Giờ đó, sứ mạng của Chúa Ki-tô và của
Chúa Thánh Thần trở thành sứ mạng của Hội
Thánh : "Như Chúa Cha đă sai Thầy, th́ bây giờ Thầy
cũng sai anh em" (Ga 20, 21) (x. Mt 28, 19; Lc 24, 47-48; Cv 1, 8).
V. THÁNH
THẦN VÀ HỘI THÁNH - TRONG THỜI ĐẠI CUỐI CÙNG
Chúa Thánh
Thần hiện xuống
731( 2623,
732 (244 672) Trong ngày lễ
Ngũ Tuần, mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh được
mặc khải trọn vẹn. Kể từ ngày đó, Vương
Quốc được Đức Ki-tô loan báo, mở ra cho những
ai tin nơi Người. Dù phận hèn yếu đuối,
các tín hữu được hiệp thông với Ba Ngôi Chí
Thánh trong đức tin. Thánh Thần đă đến và
không ngừng đến để đưa thế giới
vào "thời đại cuối cùng", thời đại
của Hội Thánh : Vương Quốc đă được
thừa hưởng nhưng chưa hoàn tất.
Chúng con đă trông thấy Ánh Sáng thật, chúng con
đă nhận lănh Thánh Thần, chúng con đă t́m thấy Đức
Tin chân thật : chúng con tôn thờ Ba Ngôi Thiên Chúa bất khả
phân ly, v́ chính Ba Ngôi đă cứu chúng con (Phụng vụ
byzantine. Điệp ca kinh chiều lễ Hiện xuống,
thánh ca hiệp lễ.).
Thánh Thần
- Hồng Ân Thiên Chúa
733 (218) "Thiên Chúa
là T́nh Yêu" (1Ga 4, 8. 16) và T́nh Yêu là hồng ân tuyệt diệu
chứa đựng tất cả các ơn khác. T́nh yêu này
"Thiên Chúa đă đổ vào ḷng chúng ta, nhờ Thánh Thần
mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5, 5).
734 (1987) Bởi v́ tội
đă làm cho chúng ta phải chết hoặc ít nữa là bị
tổn thương, nên hiệu quả đầu tiên của
hồng ân T́nh Yêu là ơn tha tội. Chính ơn hiệp thông
của Thánh Thần (2 Cr 13, 13) trong Hội Thánh, làm cho những
người lănh nhận Bí tích Thánh Tẩy lại được
nên "giống Thiên Chúa", điều họ đă mất
v́ tội.
735 (1822) Thánh Thần
ban cho chúng ta "bảo chứng" hoặc "ân huệ
mở đầu" của Gia Sản (x. Rm 8, 23; 2Cr 1, 21)
là chính sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh. Sự sống
này là yêu thương "như Thiên Chúa đă thương
yêu chúng ta" (x. 1Ga 4, 11-12). T́nh yêu này (Đức Ái của 1 Cr
13) là nguyên lư đời sống mới trong Đức Ki-tô.
Chúng ta có thể sống được như thế, v́
chúng ta đă "nhận được sức mạnh của
Thánh Thần" (Cv 1, 8).
736 (1832) Nhờ quyền
năng của Thánh Thần, con cái Thiên Chúa có thể làm
được những viêc tốt lành. Đấng đă tháp
chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ giúp chúng ta trổ sinh
"hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, b́nh
an, quảng đại, nhân từ, lương thiện,
trung tín, hiền ḥa, tiết độ" (Gl 5, 22-23).
"Thánh Thần là sự sống của chúng ta"; chúng
ta càng từ bỏ ư riêng (x. Mt 16, 24-26), "Thánh Thần
càng hướng dẫn đời ta"(Gl 5, 25) :
Nhờ hiệp thông với Thánh Thần, chúng ta trở
nên người của Thánh Thần, được
đưa trở lại Địa Đàng, được dẫn
vào Nước Trời và t́nh nghĩa tử, được
ban cho ḷng tin tưởng để gọi Thiên Chúa là Cha,
để thông phần vào ân sủng của Đức Ki-tô,
để được gọi là con cái sự sáng và dự
phần vào vinh quang đời đời (T. Baxiliô, bàn về
Chúa Thánh Thần).
Thánh Thần
và Hội Thánh
737 (787,
738 (850, 777) Như vậy,
sứ mạng Hội Thánh không phải là bổ túc cho sứ
mạng của Đức Ki-tô và của Thánh Thần, nhưng
là "bí tích" của sứ mạng này. Theo bản chất,
toàn thể và từng chi thể của Hội Thánh
được sai đi để rao giảng và làm chứng,
hiện tại hóa và lan tỏa mầu nhiệm hiệp
thông của Ba Ngôi Chí Thánh (đây sẽ là nội dung của
mục kế tiếp) :
Tất cả chúng ta đă lănh nhận cùng một
Thần Khí duy nhất là Thánh Thần, chúng ta hiệp nhất
với nhau và với Thiên Chúa. V́ chúng ta tuy nhiều người,
nhưng Đức Ki-tô đă cho Thánh Thần của Chúa Cha và của
Người cư ngụ trong mỗi người chúng ta.
Thần Khí duy nhất và không thể phân chia này, quy tụ lại
trong Người những con người riêng rẽ và làm
cho mọi người nên một trong Người. Cũng
như quyền năng của nhân tính Đức Ki-tô làm cho những
ai chia se<150) nhân tính đó hợp thành một thân thể
duy nhất; cũng vậy tôi nghĩ rằng, Chúa Thánh Thần
duy nhất và không thể phân chia, Đấng ngự trong mọi
người, cũng đưa mọi người đến
sự hiệp nhất thiêng liêng (T. Syrilô Giám mục Alexanri,
Jo 12).
739 (1076) V́ Thiên Chúa
dùng Thánh Thần xức dầu Đức Giê-su, nên với tư
cách là Đầu của Thân Thể, Đức Ki-tô thông ban Thánh Thần
cho các chi thể để nuôi dưỡng, chữa lành, cắt
đặt họ vào các chức vụ hỗ tương,
làm cho họ được sống, sai họ đi làm chứng,
liên kết họ với Người trong hiến lễ
dâng lên Chúa Cha và trong lời chuyển cầu cho toàn thế
giới. Nhờ các bí tích của Hội Thánh, Đức Ki-tô
thông truyền cho các chi thể Thánh Thần của Người,
vừa là Đấng Thánh vừa là Đấng Thánh Hóa (đây sẽ
là nội dung phần hai của sách Giáo Lư này).
740 "Những hồng
ân cao cả" Thiên Chúa ban cho tín hữu qua các bí tích, sẽ
sinh hoa kết quả nơi đời sống mới trong
Đức Ki-tô theo Thánh Thần (đây sẽ là nội dung của
phần ba của sách Giáo Lư).
741 "Thánh Thần
giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn. Chúng ta
không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nên Thánh
Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng
rên siết khôn tả" (Rm 8, 26). Thánh Thần, tác giả
những kỳ công của Thiên Chúa, là Thầy dạy cầu
nguyện (đây sẽ là nội dung phần bốn của
sách Giáo Lư).
TÓM
LƯỢC
742 "Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa
đă cử Thánh Thần của Con Ḿnh đến ngự
trong ḷng anh em mà kêu lên : Áp-ba, Cha ơi!" (x. Gl 4, 6).
743 Từ nguyên thủy đến
tận thế, khi Thiên Chúa cử Chúa Con đến với
loài người, bao giờ Người cũng cử Chúa
Thánh Thần đi cùng. Sứ mạng của hai ngôi liên kết
với nhau và không thể tách rời.
744 Khi thời gian đến hồi
viên măn, Thánh Thần hoàn tất nơi Đức Ma-ri-a mọi
công cuộc chuẩn bị để Đức Ki-tô đến
giữa Dân Chúa. Nơi Đức Ma-ri-a, Chúa Cha nhờ tác động
của Thánh Thần ban cho thế giới Đấng Em-ma-nu-en
nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt l, 23).
745 Khi nhập thể, Chúa Con
được Thiên Chúa xức dầu bằng Thánh Thần
để phong làm Đấng Ki-tô (Mêsia) (x. Tv 2, 6-7).
746 Phục
Sinh, Đức Giê-su được Thiên Chúa đặt "làm
Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô" trong vinh quang (Cv 2, 36). Từ
nguồn sung măn của Ḿnh, Người ban tràn đầy
Thánh Thần cho các tông đồ và Hội Thánh.
747 V́ là Đầu của Thân Thể, Đức Ki-tô thông ban tràn đầy Thánh Thần cho các chi thể, để Thánh Thần xây dựng, linh hoạt và thánh hóa Hội Thánh. Hội Thánh là bí tích của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Chí Thánh và loài người.