Mục 3
Thánh Kinh
I. ĐỨC KI-TÔ - LỜI DUY NHẤT CỦA THÁNH KINH
101 Để mặc khải chính
ḿnh cho loài người, Thiên Chúa đă đoái thương
dùng ngôn ngữ loài người mà nói với ho <139): "Lời
của Thiên Chúa, diễn đạt bằng ngôn ngữ nhân
loại, trơ<150) nên giống tiếng nói loài người,
cũng như khi xưa Ngôi Lời của Cha hằng hữu
đă trở nên giống như con người khi mặc lấy
xác phàm yếu đuối của chúng ta" ( DV 13).
102 (65, 2763) Qua tất cả các lời ở
trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói có một Lời là Ngôi Lời
duy nhất, trong Người, Thiên Chúa nói hết về ḿnh
cho nhân loại (Dt 1, 1-3) :
(426-429) Anh em hăy nhớ rằng Lời duy
nhất của Thiên Chúa được trải dài trong toàn
bộ Thánh Kinh, chính Ngôi Lời duy nhất vang trên môi miệng
củatất cả các tác giả Thánh Kinh. V́ chính Người,
ngay từ đầu là Thiên Chúa ở bên
Thiên Chúa, chẳng cần đến chữ với lời,
bởi Người không lệ thuộc vào thời gian (
Thánh Âu Tinh, Tv 103, 4, 1).
103 (1100, 1184 1378) V́ lư do đó, Hội
Thánh luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Ḿnh Thánh Chúa. Hội Thánh
không ngừng lấy Bánh ban sự sống từ bàn tiệc
Lời Thiên Chúa và Ḿnh Thánh Chúa
Ki-tô để ban phát cho các tín
hữu ( x. DV 21)
104 Trong Thánh Kinh, Hội
Thánh không ngừng t́m được lương thực và
sức mạnh (x. DV 24), v́ nơi đó, Hội Thánh không chỉ
đón nhận một lời phàm nhân, nhưng thực sự
là Lời của Thiên Chúa( 1Th 2, 13).
"Thật vậy, trong các Sách Thánh, Chúa Cha, Đấng ngự
trên trời, âu yếm đến với con cái của
Người và đối thoại với họ" (DV
21).
II. LINH HỨNG VÀ CHÂN LƯ THÁNH
KINH
105 Thiên Chúa là tác giả
của Thánh Kinh "Những ǵ Thiên Chúa mặc khải mà
Thánh Kinh chứa đựng và tŕnh bày, đều được
viết ra dưới sự linh hứng của Thánh Thần".
"Hội Thánh, Mẹ chúng ta, nhờ đức tin tông
truyền, xác nhận rằng toàn bộ Cựu Ước
cũng như Tân Ước, với tất cả các thành
phần đều là Sách Thánh, và được ghi vào bản
chính lục của Thánh Kinh, bởi lẽ được
viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần
nên tác giả các sách ấy là chính Thiên Chúa và chúng được
lưu truyền cho Hội Thánh với danh nghĩa như vậy"(DV
11).
106 Thiên Chúa đă linh hứng
cho các tác giả nhân loại viết các Sách Thánh. "Để
soạn các Sách Thánh đó, Thiên Chúa đă chọn những
con người và dùng họ với đầy đủ
các khả năng và phương tiện của họ,
để khi chính Người hành động trong họ và
qua họ, họ viết ra như những tác giả
đích thực tất cả những ǵ Chúa muốn, và chỉ
viết những điều đó thôi" (DV 11).
107 (702) Các sách được
linh hứng giảng dạy sự thật. "Vậy bởi
phải xem mọi lời các tác giả được linh
hứng, c̣n gọi là các Thánh Kư viết ra, là những lời
của Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng
Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm,
những chân lư mà Thiên Chúa đă muốn Thánh Kinh ghi lại
để cứu độ chúng ta" (DV 11).
108 Tuy nhiên, đức
tin Ki-tô giáo không phải là "đạo thờ Sách,
"nhưng là đạo do "Lời" Thiên Chúa, "
không phải một lời được viết ra và câm
lặng, nhưng là Ngôi Lời nhập thể và hằng sống"
(Thánh Bê-na-đô, bài giảng về kẻ được
sai đi 4, 11). Để các lời của Sách Thánh không chỉ
là văn tự chết, Đức Ki-tô, Lời vĩnh cửu
của Thiên Chúa hằng sống, nhờ Thánh Thần "mở
trí cho chúng ta hiểu được Thánh Kinh"( Lc 24, 45).
III. CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG
GIẢI NGHĨA THÁNH KINH
109 Trong Thánh Kinh , Thiên Chúa nói với con người theo
cách thức loài người. Vậy để giải nghĩa
Thánh Kinh cho đúng, phải cẩn thận t́m hiểu
điều các thánh kư thật sự có ư tŕnh bày và điều
Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của họ( x. DV 12, 1).
110 Để khám phá ư định
của các Thánh Kư , phải xét đến
thời đại và văn hoá của họ, các "thể
văn" thông dụng thời bấy giờ, cách thức
cảm nghĩ, diễn tả, và tường thuật thịnh
hành thời của họ. "V́ chân lư được tŕnh
bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau
như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi ca... hoặc
những thể loại khác"(DV 12, 2).
111 Thánh Kinh được linh hứng, nên c̣n một
nguyên tắc khác để giải nghĩa cho đúng. Nguyên
tắc này không kém quan trọng so với nguyên tắc trên và
không có nó th́ Thánh Kinh chỉ là văn tự chết
: "Thánh Kinh đă được viết ra bởi
Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc
và giải thích trong Chúa Thánh Thần" (DV 12, 3). Công đồng
Va-ti-ca-nô II đưa ra ba tiêu chuẩn để giải
thích Thánh Kinh theo Thánh Thần, Đấng đă linh hứng (DV
12, 3).
112 (128 368)
1
- Trước hết, phải hết sức chú ư đến
"nội dung và tính thống nhất của toàn bộ
Thánh Kinh " . Các Sách Thánh, dù có khác biệt
nhau mấy đi chăng nữa, vẫn là một do tính duy
nhất của chương tŕnh Thiên Chúa mà Đức Ki-tô
Giê-su là trung tâm điểm và là trái tim, được rộng
mở từ cuộc Vượt Qua của Người (x.
Lc 24, 25-27. 44-46).
Trái tim ( x.
Tv 22, 15)Đức Ki-tô chỉ Thánh Kinh, và Thánh Kinh giúp ta hiểu
rơ trái tim Người. Trước cuộc khổ nạn,
trái tim này c̣n đóng kín, v́ Thánh Kinh c̣n tối
nghĩa. Nhưng sau cuộc khổ nạn, Thánh Kinh đă
được mở ra, v́ từ nay những ai hiểu
được cuộc khổ nạn sẽ biết suy xét
và hiểu được phải giải nghĩa các lời
ngôn sứ như thế nào ( Thánh Tô-ma
Aquinô. Tv 21, 11).
113 (81)
2* Kế
đến, phải đọc Thánh Kinh trong" Truyền
thống sống động của toàn thể Hội
Thánh". Theo một châm ngôn của các giáo phụ Thánh Kinh
pha<150)i được đọc chủ
yếu trong con tim Hội Thánh hơn là trên những vật
liệu dùng để viết Thánh Kinh. Thật vậy, Hội
Thánh giữ trong truyền thống của ḿnh kư ức sống
động của Lời Thiên Chúa, và chính Thánh Thần giải
thích cho Hội Thánh ư nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh
("... theo nghĩa thiêng liêng mà Thánh Thần ban cho Hội
Thánh được hiểu") ( Ô-ri-giê-nê bài giảng ; Lv
5, 5).
114 (90)
3* Phải lưu ư đến
" tính loại suy đức tin" (
x. Rm 12, 6). "Tính loại suy đức
tin" được hiểu là sự liên kết chặt
chẽ giữa các chân lư đức tin với nhau và trong
toàn bộ chương tŕnh mặc khải.
Các nghĩa được dùng trong Thánh Kinh
115 Theo một truyền thống
cổ xưa, có thể phân biệt hai nghĩa được
dùng trong Thánh Kinh : nghĩa văn
tự và nghĩa thiêng liêng.
Nghĩa thiêng liêng được chia thành
nghĩa ẩn dụ, luân lư và thần bí. Sự ḥa hợp
sâu xa của bốn nghĩa này bảo đảm cho việc
đọc Thánh Kinh cách sống động trong Hội Thánh
được phong phú tối đa:
116 (110-114) Nghĩa văn tự : Đây là nghĩa
mà lời Thánh Kinh nêu lên và được khoa chú giải
khám phá ra khi tuân theo những qui luật để giải
nghĩa đúng. "Tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh
đều dựa vào nghĩa văn tự
" ( Thánh Tô-ma Aquinô. Tổng luận 1,
1, 10, 1. ).
117 (1101) Nghĩa
thiêng liêng : Nhờ sự thống nhất trong ư định
của Thiên Chúa, không những bản văn Thánh Kinh, mà cả
các thực tại và biến cố được bản
văn đề cập đến, đều có thể là
những tiên trưng.
1.
Nghĩa
ẩn dụ : Chúng ta
có thể hiểu thấu đáo hơn các biến cố bằng
cách nhận ra ư nghĩa của nó trong Đức Ki-tô. Ví dụ
cuộc vượt qua Biển Đỏ là tiên trưng cuộc
chiến thắng của Đức Ki-tô, do đó cũng là tiên
trưng của phép Thánh Tẩy ( x. 1Cr 10,
2).
2.
Nghĩa
luân lư : Các biến
cố được Kinh Thánh thuật lại phải dẫn
chúng ta đến một cách ăn ở chính trực. Các biến
cố đó được viết ra "để
răn dạy chúng ta" (1 Cr 10, 11) ( x.
Dt 3-4, 11).
3.
Nghĩa
thần bí : Chúng ta
có thể đọc thấy ư nghĩa vĩnh cửu của
các thực tại và biến cố, khi chúng hướng
chúng ta về Quê Trời. Ví dụ Hội Thánh dưới
đất là dấu chỉ Giê-ru-sa-lem trên trời ( x. Kh 21, 1-22, 5).
118 Hai câu thơ thời trung cổ
tóm tắt ư của bốn nghĩa như sau :
Nghĩa
văn tự dạy về biến cố, Nghĩa ẩn dụ
dạy điều phải tin, Nghĩa luân lư dạy điều
phải làm, Nghĩa thần bí dạy điều phải
vươn tới (Rotulus prigiecaris I : ed A
WALZ : Angelium 6 (1929) Augustin de Dace. ).
119 (94) "Theo các qui tắc ấy,
người chú giải Thánh Kinh có nhiệm vụ nỗ lực
t́m hiểu và tŕnh bày ư nghĩa Thánh Kinh cách sâu rộng
hơn, hầu những nghiên cứu của họ, như một
việc làm chuẩn bị, giúp phán quyết của Hội
Thánh được chín chắn. Thật vậy, mọi
điều liên hệ đến việc giải thích Thánh
Kinh cuối cùng đều phải tùy thuộc vào phán quyết
của Hội Thánh, v́ Hội Thánh được Thiên Chúa
giao cho sứ mạng và chức vụ ǵn giữ và giải
thích lời Chúa"(DV 12, 3).
113 Tôi sẽ không tin vào Tin Mừng,
nếu thẩm quyền của Hội Thánh Công Giáo không thúc
giục tôi (Thánh Âu tinh, Hộ giáo 5, 6).
IV. QUY ĐIỂN CÁC SÁCH THÁNH
120 (117) Chính Truyền Thống các
Tông đồ giúp Hội Thánh phân định những
văn bản nào phải được kể vào danh mục
các Sách Thánh (DV 8, 3). Danh mục đầy đủ này
được gọi là " Quy điển" các Sách
Thánh, gồm 46 bản văn Cựu ước (45, nếu
gom Gr. và Ac. thành một) và 27 bản văn cho Tân Ước
(x. DS 179; 1334-1336; 1501;-1504):
Cựu Ước : Sáng Thế, Xuất
Hành, Lê Vi, Dân Số, Đệ Nhị Luật, Giô-su-ê, Thủ
Lănh, Rút, 1và2 Sa-mu-en, 1và2 Các Vua, 1và 2 Sử Kư, Ê-dơ-ra và
Nơ-khe-mi-a, Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ét-te, 1và2 Ma-ca-bê, Gióp, Thánh Vịnh,
Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca,
I-sa-i-a, Giê-rê-mi-a, Ai-ca, Ba-rúc, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en, Hô-sê, Gio-en, A-mốt,
Ô-va-đi-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai,
Da-ca-ri-a, Ma-la-khi.
Tân Ước: Tin Mừng theo Thánh
Mát-thêu, Thánh Mác-cô, Thánh Lu-ca, Thánh Gio-an, Công vụ Tông đồ,
Thư Rô-ma, Thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Thư Ga-lát, Thư Ê-phê-sô,
Thư Phi-líp-phê, Thư Cô-lô-xê, Thư 1và2 Thê-xa-lô-ni-ca,
Thư 1và 2 Ti-mô-thê, Thư gởi cho Ti-tô, Thư gởi
Phi-lê-mon, Thư Do-thái, Thư Thánh Gia-cô-bê, Thư 1và2 Thánh
Phê-rô, Thư 1, 2 và 3 Thánh Gio-an, Thư Thánh Giu-đa, Khải
Huyền.
Cựu Ước
121 (1093) Cựu Ước là một
phần của Thánh Kinh không thể thiếu được.
Các sách Cựu Ước được Thiên Chúa linh hứng
luôn có giá trị vĩnh cửu (x. DV14) v́ giao ước
cũ không hề bị thu hồi.
122 (702 ,
763 708 2568) "Lư do chính của
nhiệm cục thời Cựu Ước là chuẩn bị
cho ngày xuất hiện của Đức Ki-tô Cứu Thế".
"Dù c̣n chứa đựng những điều bất
toàn và tạm thời", các sách Cựu Ước minh chứng
khoa sư phạm thần diệu của t́nh yêu cứu
độ của Thiên Chúa :"V́ chúng
tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Thiên
Chúa, những tư tưởng khôn ngoan và hữu ích về
đời sống con người, những kho tàng kinh nguyện
tuyệt diệu và sau cùng ẩn chứa mầu nhiệm cứu
độ chúng ta" ( DV 15).
123 Người Ki-tô hữu
tôn kính Cựu Ước như là Lời Thiên Chúa đích thật.
Hội Thánh cực lực chống lại ư
kiến đ̣i gạt bỏ Cựu Ước, viện cớ
Tân Ước đă làm cho Cựu Ước ra lỗi thời
(thuyết Mác-xi-on).
Tân Ứớc
124 "Lời Chúa là sức
mạnh thần thiêng cứu độ mọi tín hữu,
được tŕnh bày và tỏ lộ quyền năng cách
đặc biệt trong các sách Tân Ước" (DV 17). Các sách ấy trao cho chúng ta chân lư tối hậu của
Mặc khải. Trung tâm của Tân Ước là Đức
Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa nhập thể, các hành vi,
lời giảng dạy, cuộc khổ nạn và tôn vinh của
Người, cũng như những bước đầu
của Hội thánh dưới tác động của Chúa
Thánh Thần (DV 20).
125 (515) Các Sách Tin Mừng là trung tâm của
Thánh Kinh "v́ là chứng từ tuyệt hảo về cuộc
đời và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể,
Đấng Cứu Độ chúng ta" (DV 18).
126 Trong việc h́nh thành các
sách Tin Mừng, người ta có thể phân biệt ba giai
đoạn :
1.
Cuộc đời và Giáo Huấn của Đức
Giê-su. "Hội Thánh luôn khẳng định lịch sử
tính của bốn sách Tin Mừng, cũng như mạnh mẽ
và liên tục xác nhận bốn sách Tin Mừng trung thành ghi
lại những ǵ Đức Giê-su Con Thiên Chúa khi sống giữa
loài người, thực sự đă làm và đă dạy v́
ơn cứu độ đời đời của họ,
cho tới ngày Người lên trời".
2.
(76) Truyền khẩu . "Những ǵ Chúa đă
nói và làm, th́ sau cuộc thăng thiên của Nguời, các tông
đồ truyền lại cho thính giả, với sự hiểu
biết đầy đủ hơn mà chính các ông có
được nhờ học ở những biến cố
vinh hiển của Đức Ki-tô và nhờ được
Thánh Thần chân lư soi sáng".
3.
(76) Các sách Tin Mừng . "Các thánh kư đă soạn
bốn sách Tin Mừng, bằng cách chọn một số
trong nhiều yếu tố đă được truyền
miệng hoặc sao chép, tóm lược những yếu tố
khác hay tùy theo hoàn cảnh của các giáo đoàn mà giải
thích thêm, nhưng vẫn giữ h́nh thức của bài giảng
thuyết. Và như vậyluôn chân thành truyền đạt
cho chúng ta những điều chân thật về Đức
Giê-su. " ( DV 19)
127 (1154) Trong Hội Thánh, bốn sách Tin Mừng
chiếm địa vị có một không hai : bằng chứng
là phụng vụ luôn tôn kính và các thánh trong mọi thời
đều say mê.
Không có giáo lư nào tốt
hơn, quí hơn và sáng chói hơn bản văn Tin Mừng.
Hăy xem và ghi nhớ những ǵ Đức Ki-tô, là Chúa và là Thầy
của chúng ta, đă dạy qua các lời nói và thực hiện
qua các hành động của Người (Thánh Césaria la
Jeune).
(2705) Trên hết mọi sự, chính Tin
Mừng bổ dưỡng tôi trong các giờ cầu nguyện;
nơi đó, tôi t́m thấy tất cả những ǵ cần
thiết cho linh hồn đáng thương của tôi.
Nơi đó tôi luôn khám phá những ánh sáng mới mẻ, những
ư nghĩa ẩn giấu và mầu nhiệm (Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng
Giê-su).
Tính thống nhất giữa Cựu và Tân Ước
128 (1094 489) Ngay từ thời các tông
đồ ( x. 1Cr 10, 6. 11; Dt 10, 1; 1Pr 3, 21) và trong suốt truyền
thống của ḿnh, Hội Thánh đă soi sáng tính thống
nhất của ư định Thiên Chúa trong cả hai Giao
Ước, nhờ khoatiên trưng. Khoa này nhận ra, trong
các công tŕnh của Thiên Chúa dưới thời Cựu ước,
những "h́nh ảnh báo trước" điều
Thiên Chúa sẽ hoàn thành trong thời viên măn, nơi Ngôi Lời
nhập thể .
129 (651 2055 1968) Vậy các ki-tô hữu phải
đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Đức
Ki-tô chết và sống lại. Cách đọc tiên trưng
này làm tỏ hiện nội dung vô tận của Cựu
Ước. Nhưng không được quên rằng Cựu
Ước vẫn có giá trị mặc khải riêng, mà chính
Chúa Giê-su đă tái khẳng định ( x. Mc 12, 29-31). Đàng
khác, Tân Ước đ̣i hỏi cũng phải được
đọc dưới ánh sáng Cựu Ước. Việc huấn
giáo của Hội Thánh thời sơ khai luôn làm như vậy
( x. 1Cr 5, 6-8; 10, 1-11). Theo một ngạn ngữ cổ
xưa, Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước, Cựu
Ước tỏ lộ trong Tân Ước "Novum in Vetere
latet et in Novo Vetus patet" ( Th. Âu Tinh thất thư 2, 73; x.
DV 16)
130 Khoa tiên trưng cho thấy
sức năng động của kế hoạch Thiên Chúa
đang tiến đến lúc hoàn thành khi "Thiên Chúa có toàn
quyền trên muôn loài" (1Cr 15, 28). Chẳng hạn việc
kêu gọi các tổ phụ và cuộc xuất hành khỏi
Ai cập, không phải v́ chúng là những giai đoạn
trung gian mà mất đi giá trị riêng của ḿnh trong kế
hoạch của Thiên Chúa.
V. KINH THÁNH TRONG ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
131 "Lời Chúa c̣n có sức
mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và
tăng cường Hội Thánh, ban sức mạnh đức
tin, là lương thực linh hồn, nguồn sống
thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Hội
Thánh"( DV 21). Cần phải "mở rộng
đường cho các Ki-tô hữu đến với Thánh
Kinh"( DV 22).
132 (94) "Nghiên cứu
Thánh Kinh phải là hồn của khoa thần học thánh.
Thừa tác vụ Lời Chúa - gồm có là việc rao giảng
thuộc mục vụ, dạy giáo lư và mọi huấn dụ
Ki-tô giáo, trong đó bài giảng phụng vụ phải chiếm
một chỗ quan trọng-phải được nuôi
dưỡng và gia tăng sinh lực cách lành mạnh, nhờ
lời Thánh Kinh (DV 24)".
133 (2653 1792) Hội Thánh "tha thiết và
đặc biệt khuyến khích mọi Ki-tô hữu
"hăy năng đọc Thánh Kinh để học biết
khoa học siêu việt của Đức Giê-su Ki-tô (Pl 3, 8).
"V́ không biết Thánh Kinh là không biết Đức Ki-tô"
(Thánh Giê-rô-ni-mô) (DV 25).
TÓM LƯỢC
134 "Toàn bộ Thánh Kinh chỉ là một
cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy nhất ấy
chính là Đức Ki-tô, v́ toàn bộ Thánh Kinh nói về Đức
Ki-tô và được hoàn tất trong Đức Ki-tô" (
Hugues de Saint Dearen, Nô-ê 2, 8 PL 176, x. ibid 2, 9).
135 "Các sách Thánh Kinh chứa đựng
Lời Thiên Chúa và v́ được linh hứng, nên thực
sự là Lời Chúa" (DV 24).
136 Thiên Chúa là tác giả của Thánh
Kinh theo nghĩa Người là Đấng linh hứng các tác giả
nhân loại: Người tác động nơi họ và qua
họ. Như thế, Người bảo đảm các tác
phẩm của họ giảng dạy không sai lầm chân lư
cứu độ (x. DV 11).
137 Muốn giải
nghĩa các Sách Thánh đă được Thiên Chúa linh hứng,
trước hết phải chú tâm đến điều
Thiên Chúa muốn mặc khải qua các thánh kư, để cứu
độ chúng ta. "Điều ǵ phát sinh từ Thánh Thần
chỉ hiểu được trọn vẹn nhờ Thánh
Thần"( Ô-ri-giê-nê, bài giảng Xh 4, 5 PL 176, 642; 643).
138 Hội Thánh đón nhận
và tôn kính 46 sách của Cựu Ước và 27 sách của Tân
Ước như là những sách được Thiên Chúa
linh hứng .
139 Bốn quyển Tin Mừng chiếm
địa vị trung tâm của toàn bộ Thánh Kinh, v́ Đức
Ki-tô là trung tâm của Tin Mừng.
140 V́ Thiên Chúa chỉ có một ư định
cứu độ nhân loại và chỉ có một mặc khải
duy nhất, nên cả hai giao ước thống nhất với
nhau: Cựu Ước chuẩn bị cho Tân ước, Tân
Ước hoàn tất Cựu ước, cả hai soi sáng
cho nhau, cả hai đều thật sự là Lời Thiên
Chúa.
141 "Hội
Thánh vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh như từng tôn kính chính
Ḿnh Thánh Chúa ( x. DV 21)": cả hai nuôi dưỡng và chi phối
toàn diện đời sống Ki-tô hữu. "Lời Ngài
là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ
đường con đi" (Tv 119, 105) ( x. Is 50, 4).