Phần I - Đoạn II -
Chương 1 - Mục 1 - Tiết 2
Tiết 2: Chúa Cha
I. "NHÂN DANH CHÚA CHA VÀ CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN"
232 (189, 1223) Người Ki-tô hữu
được rửa tội "nhân danhChúa Cha và Chúa Con và
Chúa Thánh Thần" (Mt 28, 19). Trước khi lănh nhận
bí tích, họ phải trả lời 3 lần "Tôi
tin" để đáp lại những câu thẩm vấn
về đức tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
"Đức tin của mọi Kitô hữu đều dựa
trên mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi" (Th. Césaire d'Arles, Tuyên
xưng đức tin).
233 Người Ki-tô hữu được
rửa tội "nhân danh một Thiên Chúa" là Chúa Cha và
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chứ không phải "nhân danh
ba ngôi vị" riêng lẻ (x. Tuyên xưng đức tin của
Giáo hoàng Vigilô năm 552: DS 415). V́ chỉ có một Thiên Chúa
là Cha toàn năng và Con duy nhất Người và Thánh Thần : Đó là Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.
234 (2157 90 1449) Mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của
đức tin và đời sống ki-tô hữu. Đây là mầu
nhiệm về đời sống nội tại của
Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm
khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu
nhiệm ấy. Đây là giáo huấn căn bản nhất và
trọng yếu nhất theo "phẩm
trật các chân lư đức tin" (DCG 43). "Trọn lịch
sử cứu độ chỉ là lịch sử về
đường lối và các phương tiện mà Thiên
Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
dùng để tự mặc khải, để giao ḥa và kết
hợp với Người những ai từ bỏ tội
lỗi" (DCG 47).
235 Tiết này tŕnh bày cách ngắn gọn
: (I) Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm Ba Ngôi; (II) Hội
Thánh tŕnh bày giáo huấn đức tin về mầu nhiệm
đó; (III) Chúa Cha thực hiện "kế hoạch nhân hậu"
của Người là tạo dựng, cứu chuộc và
thánh hóa qua sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
236 (1066 259) Các Giáo phụ phân biệt
Theologia (Thần luận) với Oikonomia (Nhiệm Cục). Thuật ngữ thứ nhất chỉ mầu nhiệm
đời sống nội tại nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thuật ngữ thứ hai chỉ mọi công cuộc Thiên
Chúa dùng để tự mặc khải và thông ban sự sống
của Người. Nhờ Oikonomia mà chúng ta được
biết Theologia, nhưng đối lại, Theologia soi sáng
toàn thể Oikonomia. Các công tŕnh của Thiên Chúa
mặckhải cho ta biết Người, và đối lại,
mầu nhiệm đời sống nội tại của
Thiên Chúa giúp chúng ta hiểu các công tŕnh của Người.
Cũng thế, trong các tương quan nhân loại,
con người biểu lộ ḿnh qua hành động; càng biết
một người, càng hiểu rơ hành động của họ
hơn.
237 (50) Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm
đức tin hiểu theo nghĩa chặt chẽ nhất,
một trong những "mầu nhiệm đượcẩn
giấu trong Thiên Chúa... không ai biết được nếu
ơn trên không mặc khải" (SPF 16). Chắc chắn
Thiên Chúa đă để lại dấu vết của bản
thể Ba Ngôi trong công cuộc tạo dựng và trong ḍng mặc
khải Cựu Ước. Nhưng trước cuộc nhập
thể của Con Thiên Chúa và sứ vụ của Chúa Thánh Thần,
mầu nhiệm Ba Ngôi vẫn là một mầu nhiệm mà
nguyên lư trí của loài người và ngay cả đức
tin của Ít-ra-en xưa cũng không thể vươn tới
được.
II- MẶC
KHẢI VỀ THIÊN CHÚA BA NGÔI
Chúa
Cha được mặc khải qua Chúa Con
238 (2443) Đă có nhiều tôn giáo biết
kêu cầu Thượng Đế với tước hiệu
"Cha". Thượng Đế thường được
coi là "cha của các thần linh và của người phàm".
Trong dân Ít-ra-en, Thiên Chúa được gọi là Cha v́ là Đấng
sáng tạo vũ trụ (x. Đnl 32, 6; Ml 2, 10). Hơn
nữa Thiên Chúa c̣n là Cha v́ đă giao ước và ban lề
luật cho Ít-ra-en, "con đầu ḷng của Người"
(Xh 4, 22). Người cũng được
gọi là Cha của vua It-ra-en (x. 2 Sm 7, 14). Đặc biệt
hơn nữa, Người là "Cha của người
nghèo", của cô nhi, quả phụ là
những kẻ được Người thương yêu
che chở (Tv 68, 6).
239 (370, 2779) Khi gọi Thiên Chúa là
"Cha", ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn
nêu lên hai khía cạnh : Thiên Chúa là nguồn gốc đầu
tiên của mọisự và là Đấng uy quyền siêu việt,
đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương
chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, t́nh cha con tŕu mến
này cũng có thể diễn tả qua t́nh mẫu tử (x.
Is 66, 13; Tv. 131, 2) . H́nh ảnh
nàylàm rơ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối
thâm t́nh giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được
h́nh thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế,
những người dưới một khía cạnh nào
đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa
nơi con người. Nhưng kinh nghiệm
đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể
sai lệch và bóp méo h́nh ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa
vượt trên sự phân biệt phái tính của người
phàm. Người không là nam mà cũng không
là nữ. Người là Thiên Chúa. V́
Người là nguồn gốc và là chuẩn mực (x. Tv
68, 6) cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn
trổi vượt trên cha mẹ trần thế
: khôngai là cha một cách trọn hảo như Thiên
Chúa.
240 (2780 441 – 445) Đức Giê-su đă mặc khải
cho ta biết Thiên Chúa là "Cha" theo một nghĩa
chưa từng có : Người không chỉ là Cha v́ là Tạo
Hóa, từ muôn thuở Người là Cha trong tương
quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng
chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha : "Không ai
biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai
biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người
Con muốn mặc khải cho" (Mt 11, 27).
241 V́ vậy các
tông đồ tuyên xưng Đức Giê-su là "Ngôi Lời vẫn
có từ lúc khởi đầu bên Thiên Chúa và là Thiên Chúa"
(Ga 1, 1), là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh (Cl 1, 15), là
"phản ánh vẻ huy hoàng, là h́nh ảnh của bản
thể Thiên Chúa" (Dt 1, 3).
242 (465) Tiếp đó, theo truyền thống
các tông đồ để lại, năm 325 tại Công Đồng
chung thứ nhất Ni-xê-a, Hội Thánh tuyên xưng Chúa Con
"đồng bản thể" với Chúa Cha, nghĩa
là một Thiên Chúa duy nhất cùng với Người. Công Đồng
chung thứ hai Con-tan-ti-nô-pô-li năm 381, vẫn giữ lại
thuật ngữđó, được đề ra trong bản
kinh Tin Kính của Ni-xê-a và đă tuyên xưng :
Con Một Thiên Chúa sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn
đời, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên
Chúa thật, được sinh ra mà không phải được
tạo thành, đồng bản thể với Chúa
Cha"(DS 150).
Chúa
Cha và Chúa Con được mặc khải nhờ Thánh Thần
243 (683 2780 687) Trước
lễ Vượt Qua, Đức Giê-su báo tin sẽ cử một
Đấng Bào Chữa khác (Đấng Bảo Vệ), đó là Chúa
Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai
thiên lập địa (x. St 1, 2); Người đă dùng
"các ngôn sứ mà phán dạy" (Kinh Tin Kính Ni-xê-a
Con-tan-ti-nô-pô-li). Nay người sẽ ở với và trong
các môn đệ (x. Ga 14, 17) để dạy bảo (Ga 14,
26)và dẫn đưa họ đến
"sự thật trọn vẹn" (Ga 16, 13). Chúa Thánh Thần được mặc khải
như một ngôi vị Thiên Chúa, khác với Đức Giê-su và
với Chúa Cha.
244 (732) Nguồn gốc vĩnh cửu
của Chúa Thánh Thần được mặc khải trong
sứ mạng trần thế của Người. Thánh Thần
được cử đến với các tông đồ
và Hội Thánh, vừa do Chúa Cha nhân danh Chúa Con, và cũng do
chính Chúa Con, một khi Người trở về bên Chúa Cha
(x. Ga 14, 26; 15, 26; 16, 14). Việc cử Chúa
Thánh Thần đến sau khi Đức Giêsu được
tôn vinh (x. Ga7, 39), mặc khải một cách viên măn mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.
245 (152 685) Đức tin tông truyền về Chúa
Thánh Thần đă được tuyên xưng tại Công Đồng
chung Con-tan-ti-nô-pô-li năm 381 : "Chúng tôi tin kính Chúa Thánh Thần,
Người là Chúa, và là Đấng ban sự sống; Người
phát xuất từ Chúa Cha" (DS 150). Qua
đó, Hội Thánh nh́n nhận Chúa Cha là "nguồn gốc
và khởi thủy của tất cả thiên tính"
(Cđ. Tô-lê-đô VI - 638: DS 490). Nguồn gốc
vĩnh cửu của Chúa Thánh Thần và của Chúa Con không
phải là không có liên hệ với nhau: "Chúa Thánh Thần
là Ngôi Ba, là Thiên Chúa, là một và đồng hàng với Chúa
Cha và Chúa Con, cùng bản thể và cũng cùng bản tính...
Tuy nhiên, Người không chỉ là Thần Khí của Chúa
Cha mà thôi nhưng là Thần Khí cùng lúc của Chúa Cha và Chúa
Con" (Cđ. Tô-lê-đô năm 675: DS 527). Bản Kinh Tin
Kính Công Đồng Con-tan-ti-no-po-li tuyên xưng :
"Người cùng được phụng thờ và tôn
vinh với Chúa Cha và Chúa Con" (DS 150).
246 Kinh Tin Kính theo
truyền thống La tinh tuyên xưng rằng Chúa Thánh Thần"phát
xuất từ Chúa Cha và Chúa Con (Filioque)". Công Đồng
Flô-ren-xê năm 1438 nêu rơ : "Chúa Thánh Thần lănh nhận bản
tính và hữu thể vừa từ Chúa Cha, vừa từ
Chúa Con. Đời đời Người phát xuất từ
Chúa Cha và Chúa Con như từ cùng một nguyên lư và từ một
nhiệm suy duy nhất... Và bởi v́ tất cả những
ǵ có nơi Chúa Cha, th́ chính Chúa Cha đă ban cho Con Một khi
sinh ra Con, trừ hữu thể là Cha. Ngay cả việc
Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Con, th́ Chúa Con
cũnglănh nhận nơi Chúa Cha từ đời đời,
v́ từ muôn thuở Chúa Cha đă sinh ra Chúa Con" (DS
1300-1301).
247 Lời khẳng định
"và Chúa Con" (Filioque) không có trong kinh Tin Kính năm 381 tại
công đồng Con-tan-ti-no-pô-li, nhưng dựa theo một
truyền thống cổ xưa của trường phái La
tinh và A-le-xan-ri-a, Thánh Lê-ô I Giáo Hoàng đă tuyên xưng điều
này như một tín điều vào năm 447 (DS 284). Trước khi Rô-ma biết kinh Tin Kính của
năm 381 và đón nhận kinh này vào năm 451 tại công
đồng Can-xê-dô-ni-a. Tuy nhiên, việc
sử dụng công thức này (Filioque) trong kinh Tin Kính
được chấp nhận dần dần trong phụng
vụ La tinh từ thế kỷ VIII đến thế kỷ
XI. Tuy nhiên, việc phụng vụ La Tinh đưa
công thức Filioque vào trong Kinh Tin Kính của Công Đồng
Ni-xê-a Con-tan-ti-nô-pô-li c̣n là mối tranh căi cho đến ngày
nay với các Giáo Hội Chính Thống.
248 Truyền thống Đông
Phương muốn nhấn mạnh Chúa Cha là nguồn gốc
tiên khởi của Chúa Thánh Thần. Khi tuyên xưng Chúa Thánh
Thần "phát xuất từ Chúa Cha" (Ga 15, 26), Đông
Phương xác định Chúa Thánh Thần phát xuất từ
Chúa Cha qua Chúa Con (x. AG 2). Truyền thống Tây Phương
muốn nhấn mạnh sự hiệp thông đồng bản
thể giữa Chúa Cha và Chúa Con khi nói rằng Chúa Thánh Thần
phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con (filioque). Tây Phương
nói như vậy là "chính đáng và hợp lư"(Cđ
Flô-ren-sô năm 1439 : DS 1302). V́ theo trật
tự vĩnh cữu giữa các Ngôi vị Thiên Chúa trong sự
hiệp thông đồng bản thể, Chúa Cha là nguồn gốc
tiên khởi tức là "nguyên lưkhông nguyên lư" của
Chúa Thánh Thần (DS 1331) và đồng thời Người
là Cha sinh ra Con duy nhất; nên Chúa Cha và Chúa Con là "nguyên lư
duy nhất xuất phát Chúa Thánh Thần" (Cđ Lyon II
năm1274 : DS 850). Hai truyền thống đều chính
đáng và bổ sung cho nhau. Nếu chúng ta đừng quá nhấn
mạnh về một phía nào, th́ cả hai cùng tin như nhau
về thực tại mầu nhiệm được tuyên
xưng.
III.
BA NGÔI CHÍ THÁNH TRONG ĐẠO LƯ ĐỨC TIN
Sự
h́nh thành tín điều Chúa Ba Ngôi
249 (683 189) Chân lư mặc khải về Thiên
Chúa Ba Ngôi, ngay từ buổi sơ khai, là nền tảng
nguyên thủy của đức tin sống động của
Hội Thánh, chủ yếu là qua bí tích Thánh Tẩy. Chân lư
đó đă được diễn tả trong lời tuyên
xưng đức tin khi rửa tội, được
tŕnh bày trong các giảng thuyết, trong huấn giáo và trong
kinh nguyện của Hội Thánh. Người ta gặp những
công thức như vậy trong các văn thư tông đồ,
chẳng hạn lời chào được phụng vụ
Thánh Thể lấy lại: "Nguyện xin ân sủng Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, t́nh yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp
của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị
em" (2Cr 13, 13) (x. 1Cr 12, 4-6; Eph 4, 4-6).
250 (94) Trong những thế kỷ đầu,
Hội Thánh đă cố gắng tŕnh bày minh bạch hơn
đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, vừa để đào sâu
sự hiểu biết của chính ḿnh về đức
tin, vừa để bảo vệ đức tin khỏi
những lệch lạc. Đó là công tŕnh của các công đồng
xưa, qua sự đóng góp của các giáo phụ về thần
học và dựa trên cảm thức đức tin của
dân Thánh.
251 (170) Để tŕnh bày tín điều Thiên
Chúa Ba Ngôi, Hội Thánh triển khai một hệ thống từ
ngữ riêng, dựa vào những khái niệm bắtnguồn
từ triết học như: "bản thể",
"ngôi vị", hoặc "bản vị",
"tương quan" v. v... V́ Hội Thánh không muốn
đức tin lệ thuộc vào một sự khôn ngoan trần
thế nào, nên đăcho các từ ngữ nầy một ư
nghĩa mới để chúng có khả năng diễn
đạt mầu nhiệm khôn tả, "vượt xa
khôn cùng tất cả những ǵ chúng ta có thể mường
tượng được với khả năng của
người phàm" (SPF 2).
252 Hội Thánh sử dụng thuật
ngữ"bản thể" (hay thuật ngữ "yếu
tính" hoặc "bản tính") để chỉ hữu
thể đơn nhất của Thiên Chúa; thuật ngữ
"ngôi vị" hoặc " bản vị" để
chỉ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong sự phân biệt
thật sự giữa Ba Ngôi; thuật ngữ"tương
quan" để chỉ sự khác biệt giữa Ba Ngôi
trong mối liên hệ nội tại.
Tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi
253 (2789 590) Ba Ngôi là Một. Chúng ta không tuyên xưng ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên
Chúa duy nhất có Ba Ngôi : "Ba Ngôi đồng bản thể"
(Cđ Con-tan-ti-nô-pô-li II năm 553; DS 421). Các ngôi vị Thiên
Chúa không chia nhau một thiên tính duy nhất , nhưng mỗi
ngôi vị đều là Thiên Chúa trọn vẹn : Chúa Cha là
ǵ th́ Chúa Con là thế ấy, Chúa Con là ǵ th́ Chúa Chalà thế ấy,
và Chúa Cha và Chúa Con là ǵ th́ Chúa Thánh Thần là thế ấy,
nghĩa là một Thiên Chúa duy nhất theo bản tính. Mỗi
ngôi vị là thực tại đó, nghĩa là bản thể,
yếu tính, bản tính đó".
254 468, 689
Các Ngôi vị Thiên Chúa thực sự
phân biệt với nhau. "Thiên Chúa duy
nhất nhưng không đơn độc" (Fides Damasi
:DS71). "Chúa Cha", "Chúa Con", "Chúa Thánh Thần"
không đơn thuần là những danh từ chỉ cách thức
hiện hữu của hữu thể Thiên Chúa v́ Ba Ngôi thực
sự phân biệt với nhau : "Chúa Con không phải là
Chúa Cha, và Chúa Cha không phải là Chúa Con, và Chúa Thánh Thần
không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con" (Cđ Tô-lê-đô
XI năm 675: DS 530). Ba Ngôi phân biệt nhau do các mối
tương quan về nguồn gốc : "Chúa Cha là Đấng
sinh ra, Chúa Con là Đấng được Chúa Cha sinh ra, Chúa
Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa
Con" (Cđ. La-tran IVnăm 1215: DS 804). "Thiên Chúa duy nhất
trong Ba Ngôi".
255 240 Các
Ngôi vị Thiên Chúa có liên hệ với nhau. Sự phân biệt đích thực giữa các Ngôi Vị
hệ tại những mối tương quan nên không làm mất
đi tính duy nhất của Thiên Chúa. "Các danh xưng nói
lên mối tương quan giữa các Ngôi vị : Chúa Chaqui về
Chúa Con, Chúa Con qui về Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần qui về
hai Ngôi trên; dù có nói tới ba ngôi vị khi chú trọng đến
các tương quan, chúng ta vẫn tin Thiên Chúa có một bản
tính hoặc một bản thể duynhất (Cđ
Tô-lê-đô XI năm 675: DS 528). Quả thật "mọi sự
đều là một (nơi Ba Ngôi) v́ không thể có sự đối
nghịch trong tương quan" (Cđ Flô-ren-sô năm
1442: DS 1330). "V́ sự đơn nhất đó, Chúa Cha
hoàn toàn ở trong Chúa Con, hoàn toàn ở trong Chúa Thánh Thần;
Chúa Con hoàn toàn ở trong Chúa Cha, hoàn toàn ở trong Chúa Thánh
Thần; Chúa Thánh Thần ở hoàn toàn trong Chúa Cha, hoàn toàn
trong Chúa Con" (Cđ Flô-ren-sô 1442: DS 1331).
256 236, 684
Thánh Grê-gô-ri-ô thành Nazianze, được người
đời xưng tụng là " nhà thần học",
trao cho những dự ṭng tại Con-tan-ti-nô-pô-li bản tóm
lược đức tin về Ba Ngôi như sau:
(84) Xin giữ cho tôi kho tàng quư báu này,
mà v́ nó tôi sống và chiến đấu, và c̣n muốn
đem theo khi chết, nhờ nó tôi chấp nhận tất
cả mọi gian khổ và khinh chê mọi lạc thú: tôi muốn
nói đến bản tuyên xưng đức tin vào Chúa Cha và
Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Hôm nay tôi trao gửi anh chị em.
Với lời tuyên xưng này, lát nữa, tôi sẽ d́m anh chị
em xuống nước rồi nâng anh chị em lên. Tôi trao
cho anh chị em bản tuyên xưng đó làm người bạn
đường, người bảo trợ anh chị em suốt
đời. Tôi trao cho anh chị em một Thiên Chúa duy nhất
và quyền năng Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi Vị, phân biệt
nhau. Một thiên tính không có dị biệt trong bản thể
hoặc bản tính, không cấp bậc hơn kém. Cả Ba
Ngôi Vị vô tận, cùng chungmột bản tính vô tận. Mỗi
Ngôi vị tự thân là Thiên Chúa trọn vẹn... Cả Ba
Ngôi kết hợp cũng là Thiên Chúa... Tôi chưa bắt
đầu suy tưởng đến Thiên Chúa duy nhất,
th́ hào quang của Ba Ngôi Thiên Chúa tràn ngập thân tôi. Tôi
chưa bắt đầu suy tưởng đến Ba Ngôi,
th́ Thiên Chúa duy nhất làm tôi sững sờ... (Or. 40, 41).
IV.
CÔNG TR̀NH CỦA THIÊN CHÚA VÀ SỨ MẠNG CỦA BA NGÔI
257 (221 758 292 850) - "Ôi Ba Ngôi ánh sáng diễm phúc.
Ôi Đấng duy nhất nguyên thủy!" (Thánh Thi Kinh chiều
lễ Ba Ngôi). Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự
sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là
t́nh thương : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa
tự ư muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc
của Người. Đó là "kế hoạch yêu
thương" (Ep 1, 9) mà Người đă cưu mang từ
trước khi tạo dựng vũ trụ trong Con yêu dấu
của Người, "Người đă tiền định
cho ta làmnghĩa tử trong Con của Người" (Ep 1,
4-5), nghĩa là "nên đồng h́nh đồng dạngvới
Con của Người" (Rm 8, 29) nhờ "Thần trí
làm nên nghĩa tử"(Rm 8, 15). Kế hoạch này là một
"ân sủng được trao ban từ muôn thuở"(2Tm
1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ t́nh thương
Ba Ngôi. T́nh thương này được trải ra trong
công cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu
độ sau khi nguyên tổ sa ngă, trong sứ mạng của
Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh tiếp
nối (AG 2-9).
258 (686) Toàn bộ nhiệm cục của
Thiên Chúa là công tŕnh chung của Ba Ngôi Thiên Chúa. V́, cũng
như Ba Ngôi chỉ cómột bản tính, Ba Ngôi cũng chỉ
có cùng một hoạt động (x. Cđ Constantinople II
năm 553: DS 421). "Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không
phải là ba nguyên lư của thụ tạo mà là một nguyên
lư duy nhất" (x. Cđ Florence năm 1442:DS 1331). Nhưng
mỗi Ngôi Vị thực hiện công tŕnh chung theo đặc
tính riêng. Cho nên, dựa vào Tân Ứơc (x. 1Cr 8, 6), Hội
Thánh tuyên xưng "Một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo
thành mọi sự, một Chúa Giê-su Ki-tô, cùng đích của
mọi sự, và một Chúa Thánh Thần, trong Người
muôn vật được hiện hữu" (x. Cđ.
Constantinople II :DS 421). Đặc biệt các sứ mạng của
Thiên Chúa nơi mầu nhiệm nhập thể của Chúa
Con và trong việc trao ban Chúa Thánh Thần, tỏ lộ nét
đặc thù của từng Ngôi Vị.
259 (236) Vừa là công tŕnh chung, vừa là
công tŕnh của mỗi ngôi vị, nên toàn bộ nhiệm cục
của Thiên Chúa vừa cho thấy đặc tính của từng
ngôi vị vừa cho thấy bản tính duy nhất của
Ba Ngôi. V́ thế, người Ki-tô hữu có hiệp thông với
một Ngôi Vị, th́ cũng không mảy may tách rời Ba
Ngôi. Ai tôn vinh Chúa Cha, th́ tôn vinh nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần;
ai bước theo Chúa Ki-tô là do Chúa Cha lôi kéo (x. Ga 6, 44) và Chúa
Thánh thần thúc đẩy (Rm 8, 14)
260 (1050, 1721 1997) Cùng
đích của toàn bộ nhiệm cục của Thiên Chúa là
đưa các thụ tạo vào sự kết hợp trọn
vẹn với Ba Ngôi diễm phúc (Ga 17, 21-23). Nhưng ngay từ
bây giờ, chúng ta được mời gọi trở nên
nơi cư ngụ của Ba Ngôi Chí Thánh : "Chúa nói : ai
yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy
sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy
sẽ đến và ở nơi người ấy" (Ga
14, 23)
2565 Ôi Thiên Chúa của con, con thờ lạy
Ba Ngôi, xin giúp con quên hẳn ḿnh đi để ở trong
Chúa, bất động và b́nh an như thể hồn con
đang sống trong vĩnh hằng; xin đừng để
điều ǵ quấy phá sự b́nh an của con, và làm con phải
ra khỏi Chúa, ôi Đấng Bất Biến của con,
nhưng xin cho mỗi phút đem con vào sâu hơn trong mầu
nhiệm của Chúa ! Xin cho tâm hồn con được
b́nh an và trở thành thiên đường của Chúa, nơi
cư ngụ Chúa yêu thích, nơi Chúa nghỉ ngơi. Xin cho
con đừng bao giờ để Chúa một ḿnh, nhưng
luôn có mặt , trọn vẹn, tỉnh thức trong đức
tin, hết ḷng thờ kính, hiến dâng trọn vẹn để
Chúa tác tạo (lời nguyện của chân phúc Ê-li-sa-beth Ba
Ngôi).
TÓM LƯỢC
261 Mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh là mầu
nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống
Ki-tô hữu. Chỉ một ḿnh Thiên Chúa mới cho ta biết
được mầu nhiệm ấy khi tự mặc khải
là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
262 Việc
nhập thể của Con Thiên Chúa mặc khải rằng
Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở, và Chúa Con đồng bản
thể với Chúa Cha, nghĩa là Chúa Con ở trong Chúa Cha và
cùng với Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất.
263 Sứ mạng của Chúa
Thánh thần, Đấng Chúa Cha cử đến nhân danh Chúa
Con (x. Ga 14, 26) và được Chúa Con gửi đến
"từ nơi Chúa Cha" (Ga 15, 26) mặc khải rằng
Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên
Chúa duy nhất. "Người cùng được phụng
thờ và tôn vinh với Chúa Cha và Chúa Con".
264
")Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha như nguồn
mạch đầu tiên, và bởi Chúa Cha hằng ban tặng
ḿnh cho Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần cũng phát xuất từ
Chúa Cha và Chúa Con" (T. Âu-tinh, tự thuật 15, 26, 47).
265 Nhờ ân sủng Bí tích Thanh Tẩy
"nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần", chúng ta
được mời gọi chia sẻ sự sống của
Ba Ngôi Diễm Phúc, ở trần thế này trong bóng tối
của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu
(x. SPF 9).
266 - "Đức tin công
giáo hệ tại điều này : thờ kính Một Chúa Ba
Ngôi và Ba Ngôi Một Chúa mà không lẫn lộn giữa các Ngôi
Vị, không chia cắt bản thể : v́ Ngôi Cha, Ngôi Con và
Ngôi Thánh Thần khác biệt nhau; nhưng Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần có cùng một thiên tính, một vinh quang, một
uy quyền vĩnh cửu" (Symbolum "Quicumque").
267 V́ không tách rời trong hữu thể,
các Ngôi Vị không tách rời trong hành động. Nhưng
trong hành động duy nhất của Thiên Chúa, mỗi Ngôi
Vị biểu lộ đặc tính riêng của ḿnh trong Ba
Ngôi, đặc biệt trong sứ mạng Nhập Thể
của Chúa Con và việc tặng ban Chúa Thánh Thần.