355 (1700, 343) "Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh ḿnh; Người sáng tạo
họ theo h́nh ảnh Thiên Chúa. Người sáng tạo
họ có nam có nữ" (St 1, 27). Con người giữ
một địa vị độc tôn trong công tŕnh sáng
tạo: con người là "h́nh ảnh của Thiên
Chúa" (I); trong bản tính của ḿnh, con người
hợp nhất thế giới thiêng liêng và thế giới
vật chất (II); con người được tạo
dựng "có nam có nữ" (III); Thiên Chúa cho họ
sống thân t́nh với Người (IV).
356 (1703 2258, 225) Trong tất cả các thụ
tạo hữu h́nh, chỉ con người là "có khả
năng hiểu biết và yêu mến Tạo Hóa" (x. GS 12,
3). Con người là "thụ tạo duy nhất
trên trái đất được Thiên Chúa dựng nên cho
chính họ" (x. GS 24, 3) ; chỉ con
người, nhờ sự hiểu biết và t́nh
thương, được mời gọi chia sẻ
sự sống của Thiên Chúa. Con người
được tạo dựng v́ mục đích ấy, và
đó là lư do căn bản của phẩm giá con người :
295 V́ sao Ngài đă dựng con người với phẩm
giá cao trọng như vậy ? Với t́nh thương vô biên, Ngài đă nh́n
ngắm thụ tạo nơi chính ḿnh và say mê nó. V́ thương yêu, Ngài đă tạo ra nó; v́
thương yêu, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc
vĩnh cửu (Th. Ca-ta-ri-na thành Si-en-na, dial 4, 13).
357 (1935 1877) V́ con người được dựng nên theo h́nh ảnh của Thiên Chúa, nên có phẩm
giá là một nhân vị. Không phải là một sự
vật mà là một con người. Con người có
khả năng tự biết ḿnh, tự làm chủ chính ḿnh
và tự do tự hiến và thông hiệp với những
người khác. Do ân sủng, mỗi
nguời được mời để giao ước
với Đấng Sáng Tạo, dâng lên Người một
lời đáp trả tin yêu mà không ai có thể thay thế
được.
358 (299, 901) Thiên Chúa đă sáng tạo mọi sự cho con
người (x. GS 12, 1; 24, 3; 39, 1); c̣n con người
được sáng tạo để phụng sự, yêu
mến Thiên Chúa và dâng lên Người tất cả thụ tạo :
Hữu thể nào trong cơi dương gian được
quan tâm dường ấy? Đó là con người, một khuôn
mặt sống động lớn lao,
kỳ diệu, mà dưới mắt Thiên Chúa c̣n quí giá
hơn cả toàn thể vạn vật. Đó là con
người, v́ con người mà trời, đất,
biển rộng và toàn thể vạn
vật được hiện hữu, và v́ tha thiết
muốn cứu độ con người, nên Thiên Chúa đă
không tiếc ban cả Con duy nhất của Người cho
họ. Thiên Chúa không ngừng điều động
mọi sự để nâng con người lên tới Thiên
Chúa và đặt con người ngồi bên hữu Thiên Chúa
(Th. Gio-an Kim khẩu, bài gia<150)ng St 2, 1).
359 (1701) "Chỉ có mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập
Thể mới có thể làm sáng tỏ mầu nhiệm con
người" (GS 22, 1):
388 (411) Thánh Phao-lô cho chúng ta biết có hai người là
nguồn gốc của nhân loại :
A-đam và Đức Ki-tô... "A-đam thứ nhất
được tạo dựng như là một con
người lănh nhận sự sống. C̣n Người kia là Đấng thiêng liêng ban sự sống.
Người thứ nhất được tạo dựng
do bởi người kia, do Đấng này,
người thứ nhất lănh nhận linh hồn làm cho
sống... Khi tạo thành A-đam thứ
nhất, A-đam thứ hai đă khắc ghi h́nh ảnh ḿnh
trong đó. Do đó A-đam thứ hai đă lănh
nhận vai tṛ và tên của A-đam thứ nhất,
để không bỏ mất những ǵ đă
được tạo dựng theo h́nh ảnh của ḿnh.
A-đam đầu, A-đam cuối :
người trước đă có khởi đầu,
người sau sẽ tồn tại măi măi. V́ Người
sau mới thực là Người đầu, như chính
Người đă nói về ḿnh: "Ta là Đầu và là
Cuối" (T. Phê-rô Kim Ngôn, bài gia<150)ng
117).
360 (225, 404, 775, 831 842) V́ cùng xuất phát từ một
nguồn gốc chung, nhân loại tạo
thành một thể thống nhất. "Từ một
người duy nhất, Thiên Chúa đă tạo thành toàn
thể nhân loại" (Cv 17, 26) (x. Tb 8, 6):
Thật là kỳ diệu, khi ta nh́n ngắm nhân
loại cùng có chung một nguồn gốc nơi Thiên Chúa...
; cùng có chung một bản tính, được cấu
tạo như nhau và một thể xác vật chất và
một linh hồn thiêng liêng; cùng có chung một mục
đích trực tiếp và một sứ mệnh trong
thế giới; cùng có chung một nơi cư ngụ là
trái đất với những của cải, mà mọi
người, do quyền tự nhiên của ḿnh đều
có quyền sử dụng để nuôi dưỡng và phát
triển sự sống; cùng có chung về một cùng
đích siêu nhiên là chính Thiên Chúa, mà tất cả đều
phải qui hướng về Người; cùng có chung
những phương thế để đạt tới
cùng đích đó; cùng có chung ơn cứu độ mà
Đức Ki-tô đă thực hiện cho mọi người
(Pi-ô XII enc. " summi pontificatus"; x. NA 1).
361 (1939) "Luật liên đới và bác ái này đa<150)m ba<150)o rằng mọi người
thực sự đều là anh em" (Ibid) cho dù có nhiều
khác biệt phong phú giữa các con người cá nhân, các
nền văn hóa, các dân tộc.
II. "CON NGƯỜI LÀ
MỘT THỰC THỂ ĐƠN NHẤT GỒM HỒN VÀ XÁC "
362 (1146, 2332) Được tạo dựng theo h́nh ảnh Thiên Chúa, con người là
một hữu thể vừa thể xác vừa tinh
thần. Tŕnh thuật Thánh Kinh diễn tả thực
tại đó với một ngôn ngữ biểu
tượng khi khẳng định rằng "Thiên Chúa lấy
đất sét nặn ra con người, thổi sinh khí vào
lỗ mũi, và con người trở nên một sinh
vật"(St 2, 7). Con người toàn diện
được dựng nên do ư muốn của Thiên Chúa.
363 (1703) Thánh
Kinh thường dùng thuật ngữ linh hồn để
chỉ sự sống con người (x. Mt 16, 25-26; Ga 15, 13)
hoặc toàn diện con người (Cv 2, 41). Nhưng
cũng dùng để chỉ cái thâm sâu nhất (Mt 26-38), giá
trị nhất nơi con người (x. Mt 10, 28; 2Mca 6, 30),
nhờ đó con người là h́nh ảnh Thiên Chúa cách
đặc biệt : "linh hồn"
là nguyên lư thuần linh nơi con người.
364 (1004) Thân
xác cũng được dự phần vào phẩm giá
của con người là "h́nh ảnh của Thiên
Chúa": nó là thân xác con người chính v́ được
linh hồn thiêng liêng làm cho sinh động. Và chính con
người toàn diện được đặt
định trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần,
trong Thân Thể Chúa Ki-tô
(x. 1Cr 6, 19-20; 15, 44 - 45).
2289 Tuy
gồm xác và hồn, nhưng là một thực thể duy
nhất, con người, nhờ có thể xác, qui tụ
nơi ḿnh những yếu tố thuộc thế giới
vật chất. Nơi con người, các yếu tố
ấy đạt tới tuyệt đỉnh của chúng
và có thể tự do dâng lời ca tụng Đấng Tạo
Hóa. Vậy con người không được khinh miệt
đời sống thể xác, nhưng trái lại, con người
phải coi thân xác ḿnh là tốt đẹp và đáng tôn
trọng v́ thân xác ấy do Thiên Chúa tạo dựng và
phải được sống lại ngày sau hết (GS 14,
1).
365 Sự
thống nhất xác hồn thâm sâu đến độ ta
phải coi linh hồn như là "mô thể" của
thân xác (x. Cđ Vienne 1312: DS 902); nghĩa là, nhờ linh
hồn thiêng liêng mà thân xác được cấu tạo
từ vật chất, thành một thân xác của con
người sống động. Trong con người, tinh
thần và vật chất không phải là hai bản tính
được nối kết lại, nhưng sự
kết hợp của chúng tạo thành một bản tính
duy nhất.
366 (1005 997) Hội Thánh dạy rằng mỗi
linh hồn thiêng liêng được Thiên Chúa trực
tiếp tạo dựng (x. Pi-ô XII, trong. "Humani
Generis", 1950: DS 3896;SPF 8) chứ không
phải do cha mẹ "sản sinh": Hội Thánh
cũng dạy rằng, linh hồn bất tử (x. Cđ
La-tran năm. 1513; DS 1440), không hư mất khi ĺa khỏi
xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp trơ<150)
lại với thân xác trong ngày phục sinh cánh chung.
367 (2083) Đôi khi linh hồn được phân
biệt với tinh thần. Thánh Phao-lô cầu
nguyện để "trọn con người chúng ta: tinh
thần, linh hồn và thân xác" được hồng ân nâng đỡ, giữ ǵn, không có
điều ǵ đáng chê trách vào ngày Chúa Quang Lâm (1Th 5, 23).
Hội Thánh dạyrằng sự phân biệt này không đem
lại sự nhị phân trong linh hồn (x. Cđ
Con-tan-ti-nô-pô-li IV năm 870: DS 657). Thuật ngữ "tinh
thần" muốn nói là con người, ngay từ khi
tạo dựng, đă được Thiên Chúa qui
hướng về cùng đích siêu nhiên (x. Cđ Va-ti-can I:DS
3005;x. GS 22, 5), và linh hồn nhờ ơn su<150)ng
được nâng lên để kết hợp với
Người (x. Pi-ô XII, Enc "Humari Generis", 1950; DS 3891).
368 (478, 582 1431, 1764 2517, 2562) Truyền thống linh
đạo của Hội Thánh cũng nhấn mạnh
đến tim. Theo nghĩa Kinh Thánh, tim là "đáy ḷng con
người" (Gr 31, 33), từ nơi đó họ sẽ
quyết định chọn Thiên Chúa hay không (x. Dt 6, 5; 29, 3;
Is 29, 13; Ed 36, 26; Mt 6, 21; Lc 8, 15; Rm 5, 5).
III. "THIÊN CHÚA SÁNG
TẠO CON NGƯỜICÓ NAM CÓ NỮ"
Thiên Chúa muốn con người b́nh đẳng nhưng khác
biệt nhau
369 Người
nam và người nữ được sáng tạo,
nghĩa là họ hiện hữu do ư muốn của Thiên
Chúa : một mặt họ hoàn toàn b́nh đẳng với
tư cách là những nhân vị mặt khác, họ là nam và là
nữ theo cách hiện hữu riêng. "Là nam", "là
nữ" đều là thực tại tốt lành do ư
muốn của Thiên Chúa : người nam
và người nữ có một phẩm giá không thể
mất được, do Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo
trực tiếp ban cho (x. St 2, 7. 22). Người
nam và người nữ có cùng một phẩm giá "là h́nh
ảnh của Thiên Chúa". "Là người
nam" hay "là người nữ", họ đều
phản ánh sự khôn ngoan và sự tốt lành nhân hậu
của Đấng Sáng Tạo .
370 (42, 239) Đừng
diễn ta<150) Thiên Chúa theo h́nh ảnh loài người. Người không là nam, cũng không là nữ. Thiên Chúa thuần linh, không có sự phân biệt phái
tính. Những "nét hoàn hảo"
của người nam và người nữ, của
người me (x. Is 49, 14-15; 66, 13; Tv 131, 2-3)<139), người cha, của đôi vợ
chồng (x. Hs 11, 1-4; Gr 3, 4-19) phản ánh phần nào sự
trọn hảo vô biên của Thiên Chúa. <MS)
"Cho nhau" _ "Tuy hai mà một"
371 (1605) Khi tạo dựng con
người"có nam có nữ", Thiên Chúa muốn họ
sống cho nhau. Chúng ta biết điều này qua một
số câu Sách Thánh : "Người nam ở một ḿnh th́
không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương
xứng với nó" (St 2, 18). Không một con vật nào có
thể tương xứng với con người (St 2,
19-20). Thiên Chúa lấy xương sườn người
nam tạo thành người nữ và dẫn đến cho
người nam; vừa trông thấy người nữ,
người nam phải thốt lên một tiếng thán
phục, một lời reo mừng đầy yêu thương
và thông hiệp : "Đây là xương bởi xương
tôi, thịt bởi thịt tôi" (St 2, 23). Người nam
nhận ra người nữ như một " cái tôi"
khác, một đồng loại.
372 (1652, 2366) Người nam, và người
nữ được tạo dựng "cho nhau": không
phải Thiên Chúa đă sáng tạo họ "chỉ có
một nư<150)a" hay "không đầy đủ
" nhưng tạo dựng họ để hiệp thông
với nhau, để mỗi người có thể thành
"trợ tá" cho nhau; v́ một đàng, họ là
những con người b́nh đẳng với nhau
("xương của xương tôi... ") và đàng
khác, bổ túc cho nhau v́ là nam và là nữ. Trong hôn nhân, Thiên
Chúa kết hợp họ, để khi thành"một
xương một thịt" (St 2, 24), họ có thể
truyền lại sự sống con người : " Hăy
sinh sôi nảy nở cho nhiều, cho đầy mặt
đất" (St 1, 28). Khi truyền lại sự sống
con người cho ḍng dơi ḿnh, người nam và
người nữ với tư cách là vợ chồng và cha
mẹ, cộng tác một cách độc đáo vào công tŕnh
của Đấng Sáng Tạo (GS 50, 1).
373 (307 2415) Theo ư định
của Thiên Chúa, người nam và người nữ
được đặt "làm chủ" trái
đất (St 1, 28) như những "người
quản lư" của Thiên Chúa. Quyền làm chu<150) này không
được trơ<180) thành một sự thống
trị độc đoán và phá hoại. V́ là h́nh ảnh
của Đấng Sáng Tạo, "Đấng yêu thương
tất cả những ǵ hiện hữu"(Kn 11, 24),
người nam và người nữ được
gọi tham dự vào sự quan pḥng của Thiên Chúa đối
với các thụ tạo khác. Do đó, họ có trách
nhiệm với thế giới mà Thiên Chúa giao phó cho họ.
IV. CON NGƯỜI TRONG
VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
374 (54) Con người đầu tiên không phải chỉ
được sáng tạo tốt lành mà thôi, nhưng c̣n
được đặt trong t́nh thân với Đấng
Tạo Hóa, hài ḥa với chính ḿnh và với vạn vật
xung quanh. T́nh thân và sự hài ḥa này chỉ thua kém vinh quang
của sáng tạo mới trong Đức Ki-tô.
375 (1997) Khi dùng quyền
giải thích một cách chân chính ngôn ngữ biểu
tượng của Thánh Kinh dưới ánh sáng Tân
Ước và Truyền Thống Hội Thánh, Hội Thánh
dạy rằng : nguyên tổ A-đam và E-và đă
được sáng tạo trong một t́nh trạng
"thánh thiện và công chính nguyên thủy" (x. Cđ
Tren-te: DS 1511). Sự thánh thiện nguyên thủy ấy là
"ơn được tham dự vào sự sống
của Thiên Chúa"(LG 2).
376 (1008, 1502) Mọi chiều
kích của đời sống con người
được củng cố nhờ sự chiếu
tỏa ân sủng này. Bao lâu c̣n sống mật thiết
với Thiên Chúa, con người sẽ không phải chết
(x. St 2, 17; 3, 19), cũng không phải đau khổ (x. St 3,
16). Sự hài ḥa nội tâm nơi mỗi con người,
sự hài ḥa giữa người nam và người nữ
(x. St 2, 25), sau hết sự hài ḥa giữa đôi vợ
chồng đầu tiên với toàn thể vạn vật,
tạo nên t́nh trạng được gọi là "sự
công chính nguyên thủy".
377 (2514) Quyền làm chủ
trái đất mà Thiên Chúa đă ban cho con người ngay
từ thuở ban đầu, được thực
hiện trước tiên nơi con người, là việc
làm chủ chính bản thân ḿnh. Con người c̣n nguyên
tuyền và hài ḥa trong chính bản thân, v́ c̣n tự do
đối với ba thứ dục t́nh thường làm con
người nô lệ các lạc thú<151) của giác quan, sự
ham mê của cải thế gian và đề cao "cái
tôi" bất chấp những đ̣i hỏi của lư trí.
378 (2415, 2427) Dấu hiệu của sự thân thiện
với Thiên Chúa là việc đặt con người trong
vườn địa đàng (x. St 2, 8). Conngười
sống ơ<150) đó "để canh tác và canh ǵn
giữ đất đai"(St 2, 15). Lao động không
phải là một h́nh khổ (x. St 3, 17-19), nhưng là sự
cộng tác của người nam va<179) người
nữ với Thiên Chúa trong việc kiện toàn vạn
vật hữu h́nh.
379 Đó là tất cả sự
hài ḥa của t́nh trạng công chính nguyên thủy mà ư
định của Thiên Chúa đă dành sẵn cho con
người. Sự hài ḥa này sẽ mất đi v́ tội
của nguyên tổ chúng ta.
TÓM LƯỢC
380 "Lạy Cha, Cha đă
dựng nên con người giống h́nh ảnh Cha, và giao cho
họ trách nhiệm trông coi vũ trụ, để khi
phụng sự một ḿnh Cha là Đấng tạo hóa, con
người làm chủ mọi loài thọ sinh" (MR, kinh
Tạ ơn IV, 118) .
381 Con người được tiền định
để họa lại h́nh ảnh của Con Thiên Chúa làm
người - "h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh" (Cl
1, 15) hầu Chúa Ki-tô trở nên trưởng tử của
muôn vàn anh chị em (x. Ep 1, 3-6; Rm 8, 29).
382 Con người là "một thực thể đơn
nhất gồm hồn và xác" (GS 14, 1). Giáo lư đức
tin khẳng định : linh hồn thiêng liêng và bất
tử, được Thiên Chúa trực tiếp sáng tạo
.
383 Thiên Chúa không tạo
dựng con người đơn độc : từ
khởi nguyên, "Người đă tạo nên họ có nam
có nữ" (St 1, 27); sự liên kết giữa họ đă
tạo nên xă hội đầu tiên của con người
(GS 12, 4)".
384 Mặc khải cho chúng ta
biết t́nh trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy
của người nam và người nữ trước
khi phạm tội: cuộc sống hạnh phúc của con
người trong vườn địa đàng bắt
nguồn từ t́nh thân với Thiên Chúa.