1135
Trong
chương một, chúng ta đă t́m hiểu nhiệm
cục bí tích; nhờ đó, chúng ta thấy được
tính cách mới mẻ của cử hành phụng vụ.
Trong chương này, chúng ta sẽ bàn đến việc
cử hành các bí tích, những đặc tính chung của
việc cử hành bảy bí tích theo
truyền thống Phụng Vụ; c̣n những điểm
đặc thù của từng bí tích sẽ được
tŕnh bày sau. Giáo lư căn bản về việc cử hành bí
tích sẽ trả lời các vấn nạn đầu tiên
về đề tài này :
·
Ai
cử hành?
·
Cử
hành như thế nào?
·
Cử
hành khi nào?
·
Cử
hành ở đâu?
I. AI CỬ HÀNH ?
1136
Những
người cử hành Phụng vụ thiên quốc
1137 (662) Sách
Khải Huyền của Thánh Gio-an đọc trong phụng
vụ của Hội Thánh, cho chúng ta thấy : trước
hết, có "một cái ngai ở trên trời và có một
Đấng ngự trên ngai " (Kh 4,2) là "Đức Chúa" (Is
6,1); rồi đến, "Con Chiên đă bị
giết" (Kh 5,6) là Đức Ki-tô chịu đóng đinh và
sống lại, vị Thượng Tế duy nhất
của cung thánh đích thực (x. Dt 4,14-15; 10,19-21),
"vừa là chủ tế vừa là lễ vật,
vừa dâng vừa được dâng lên" (Phụng
vụ theo thánh Gio-an Kim Khẩu, Kinh nguyện Thánh Thể);
cuối cùng là "con sông có nước trường sinh,
từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên chảy ra" (Kh
22,1), một trong những biểu tượng đẹp
nhất về Chúa Thánh Thần.
1138
1139
Chúa
Thánh Thần và Hội Thánh cho chúng ta được tham
dự vào Phụng Vụ vĩnh cửu này, khi chúng ta
cử hành mầu nhiệm cứu độ trong các bí tích.
Những
người cử hành Phụng Vụ bí tích
1140 (752, 1348 1372) Toàn thể cộng đoàn,
nghĩa là Thân Thể Chúa Ki-tô kết hợp với thủ
lănh của ḿnh, cùng cử hành Phụng Vụ. "Các
hoạt động phụng vụ không phải là những
hoạt động riêng tư nhưng là những cử
hành của Hội Thánh là "bí tích hiệp nhất", là
Dân Thánh được qui tụ và tổ chức
dưới quyền các giám mục. V́ vậy,
các hoạt động đó thuộc về toàn Thân Thể
Hội Thánh, diễn tả và ảnh hưởng trên
Hội Thánh. Tuy nhiên, có liên quan khác nhau với từng
chi thể, tùy theo khác biệt về
phẩm trật, phận vụ và sự tham dự sống
động" (x. SC 26). V́ vậy, "khi các nghi lễ,
theo bản chất đặc biệt của chúng,
được cử hành cộng đồng với
sự tham dự đông đảo và linh hoạt của
giáo dân th́ nên nhớ rằng phải quư chuộng việc
cử hành cộng đồng hơn là cử hành
đơn độc và riêng rẽ" (SC 27).
1141 (1120) Cộng đoàn phụng
vụ là cộng đoàn của "những người
đă lănh nhận bí tích Thánh Tẩy, nhờ sự tái sinh và
xức dầu của Thánh Thần, họ được
thánh hiến để trở thành một ngôi nhà thiêng liêng
và một hàng tư tế thánh; hầu lấy việc làm
của người tín hữu mà dâng lên Thiên Chúa những hy
tế thiêng liêng" (x. LG 10). Mọi chi thể đều
được tham dự vào "chức tư tế
cộng đồng" này là chức tư tế của
Đức Ki-tô, vị Tư Tế duy nhất (x.LG 10, 34;
"Mẹ Hội Thánh tha
thiết ước mong toàn thể tín hữu
được hướng dẫn tham dự các việc cử
hành phụng vu cách trọn vẹn, ư thức và linh
động.
Chính bản tính Phụng Vụ đ̣i hỏi
phải tham dự như thế. Lại nữa,
nhờ phép Thánh Tẩy, việc tham dự Phụng Vụ
trở thành quyền lợi và bổn phận của dân
Ki-tô giáo "là giống ṇi được tuyển chọn,
là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng
của Thiên Chúa (1Pr 2,9)" (SC 14).
1142 (1549 1561) "Các chi thể không cùng
một chức năng" ( Rm 12,4). Một
số người đă được Thiên Chúa mời
gọi, trong và qua Hội Thánh, để đảm
nhận phận vụ đặc biệt trong cộng
đoàn. Những người này được
tuyển chọn và thánh hiến nhờ bí tích Truyền
Chức. Qua đó, Chúa Thánh Thần cho họ khả năng
hành động thay Đức Ki-tô là Đầu để phục
vụ mọi chi thể của Hội Thánh (x.PO 2 và 15). Các
thừa tác viên có chức thánh là "họa ảnh"
của Đức Ki-tô Tư Tế. Trong thánh lễ, bí tích
Hội Thánh được biểu lộ cách đầy
đủ; v́ thế, thừa tác vụ giám mục nổi
bật với vai tṛ chủ sự nghi lễ Thánh Thể,
cùng hiệp thông với ngài là thừa tác vụ linh mục
và phó tế.
1143
1144
V́
vậy, trong cử hành các bí tích, toàn thể cộng đoàn
đều tế tự, mỗi người tuỳ theo
phận vụ của ḿnh, nhưng trong "sự hiệp
nhất của Chúa Thánh Thần", Đấng hoạt
động trong mọi người. "Trong các cử hành
phụng vụ, thừa tác viên hay tín hữu mỗi
người chu toàn phận vụ của ḿnh, chỉ làm và
làm trọn vẹn những ǵ bản chất sự việc
và những qui tắc phụng vụ qui định cho
ḿnh" (SC 28)
II. CỬ HÀNH
THẾ NÀO?
Dấu chỉ
và Biểu tượng
1145 (1333- 1340 53) Cuộc cử hành bí tích
được cấu thành bằng những dấu chỉ
và biểu tượng. Theo đường lối sư
phạm của Thiên Chúa, ư nghĩa của dấu chỉ và
biểu tượng bắt nguồn từ trong công tŕnh
sáng tạo và trong nền văn hoá nhân loại,
được xác định trong các biến cố
của Cựu Ước và được mặc khải
trọn vẹn trong con người và hoạt động
của Đức Ki-tô.
1146 (362, 2702 1879) Những dấu chỉ
bắt nguồn từ thế giới loài người. Trong đời sống nhân loại, dấu
chỉ và biểu tượng chiếm một chỗ quan
trọng. Con người, một thụ tạo
vừa có thân xác vừa linh thiêng, diễn tả và tiếp
nhận các thực tại thiêng liêng qua dấu chỉ và
biểu tượng vật chất. Con người có tính
xă hội, nên cần dấu chỉ và biểu tượng
để giao tiếp với tha nhân qua ngôn ngữ, cử
chỉ, hành động. Trong
tương quan với Thiên Chúa cũng thế.
1147 (299) Thiên
Chúa nói với loài người qua các thụ tạo hữu
h́nh. Vũ trụ vật chất hiển hiện
trước trí khôn của con người, để
họ nhậnra những dấu vết của Đấng Sáng
Tạo (x. Kn 13,1; Rm 1, 19-20; Cv 14,17). Ánh
sáng và đêm tối, gió và lửa, nước và đất,
cây và trái đều nói về Thiên Chúa,là
biểu tượng cho sự cao cả và gần gũi
của Người.
1148
V́
được Thiên Chúa tạo dựng, những thực
tại hữu h́nh này có thể diễn tả hoạt
động của Thiên Chúa thánh hóa con người, và
hoạt động của con người bày tỏ ḷng tôn
kính Thiên Chúa. Những dấu chỉ, những biểu
tượng trong đời sống xă hội, như
việc thanh tẩy và xức dầu, bẻ bánh và chia
sẻ chén rượu, có thể diễn tả việc
Thiên Chúa hiện diện và thánh hoá cũng như việc con
người bày tỏ ḷng tri ân Đấng Sáng Tạo.
1149 (843) Các tôn giáo lớn đều
cho thấy rơ các nghi lễ tôn giáo có một ư nghĩa vũ
hoàn và biểu tượng. Phụng vụ của Hội
Thánh thừa nhận, tiếp thu và thánh hoá các yếu tố
trong thiên nhiên và trong nền văn hóa nhân loại,
đồng thời làm cho chúng trở nên những dấu
chỉ của ân sủng, của thụ tạo mới
trong Đức Ki-tô.
1150 (1334) Những dấu chỉ
bắt nguồn từ giao ước.Dân của Thiên Chúa
tiếp nhận từ nơi Người những dấu
chỉ, và biểu tượng riêng, làm nổi bật đời
sống phụng vụ : đây không chỉ là những
cuộc cử hành sự tuần hoàn của vũ trụ
hay những lễ hội dân gian, nhưng c̣n là dấu
chỉ của Giao Ước,biểu tượng của
những kỳ công Thiên Chúa đă làm cho Dân Người.
Trong các dấu chỉ phụng vụ của Cựu
Ước, có thể kể việc cắt b́, xức
dầu để thánh hiến các vua và tư tế,
đặt tay, các lễ vật, và
nhất là lễ Vượt Qua. Hội Thánh
nhận ra nơi những dấu chỉ đó h́nh ảnh
tiên trưng cho các bí tích của Tân Ước.
1151 (1335) Những dấu chỉ
được Đức Ki-tô sử dụng. Khi giảng
dạy, Đức Giê-su thường dùng những dấu
chỉ trong thiên nhiên để diễn tả mầu
nhiệm Nước Thiên Chúa (x. Lc 8,10).
Người thực hiện việc chữa lành và củng
cố Lời Người giảng dạy bằng
những dấu chỉ hữu h́nh hay hành động
biểu trưng (x.Ga 9,6; Mc 7,33-35; 8,
22-25). Người đem lại ư nghĩa mới cho
những biến cố vàdấu chỉ của Cựu
Ước, nhất là biến cố Xuất Hành và
Vượt Qua (x. Lc 9,31; 22, 7-20), v́ chính
Người là ư nghĩa của mọi biểu trưng này.
1152 Những
dấu chỉ bí tích. Từ lễ Hiện
Xuống, Chúa Thánh Thần thánh hóa nhờ những dấu
chỉ bí tích của Hội Thánh. Các bí
tích của Hội Thánh không băi bỏ nhưng thanh luyện,
tiếp nhận tất cả sự phong phú của
những dấu chỉ và biểu tượng trong thiên
nhiên và trong đời sống xă hội. Hơn
nữa, các bí tích c̣n hoàn tất những tiên trưng và h́nh
bóng của Cựu Ước, biểu thị và thực
hiện ơn cứu độ do Đức Ki-tô đem
lại, báo trước và tiền dự vinh quang thiên
quốc.
Lời nói và hành
động
1153 (53) Mỗi
cử hành bí tích là một cuộc gặp gỡ giữa con
cái Thiên Chúa với Cha ḿnh, trong Đức Ki-tô và Thánh Thần.
Cuộc gặp gỡ này là cuộc đối thoại qua
hành động và lời nói. Các hành động biểu
trưng tự nó đă là một ngôn ngữ, nhưng
cần có Lời Chúa và việc đáp trả trong
đức tin đi kèm và làm cho những hành vi này nên
sống động, để hạt giống Nước
Trời sinh hoa kết trái trong thửa đất tốt.
Những hoạt động phụng vụ biểu
thị những ǵ Lời Chúa muốn diễn đạt:
vừa là sáng kiến ân sủng của
Thiên Chúa, vừa là lời đáp trả trong đức tin
của Dân Chúa.
1154 (1100 103) Phụng vụ Lời Chúa là
phần cốt yếu trong các cử hành bí tích. Để nuôi
dưỡng đức tin của các tín hữu, phải tôn
kính những ǵ liên quan đến Lời Chúa : Sách Thánh (sách
Bài Đọc hay sách Tin Mừng), nghi thức tôn kính (kiệu
Sách Thánh, xông hương, hầu đèn), nơi công bố (giảng
đài), cách đọc dễ nghe dễ hiểu, bài
giảng của thừa tác viên sau khi công bố Lời Chúa,
những lời xướng đáp của cộng đoàn
(những lời tung hô, thánh vịnh, kinh cầu, tuyên
xưng đức tin).
1155 (1127) Lời nói và hành động
trong Phụng Vụ vừa là dấu chỉ gắn
liền với giáo huấn, vừa liên kết vớùi nhau
để thực hiện điều chúng biểu thị.
Chúa Thánh Thần không chỉ khơi dậy đức tin
để các tín hữu hiểu được Lời Chúa;
nhưng qua các bí tích, Người c̣n thực hiện
"những kỳ công" của Thiên Chúa được
Lời Chúa loan báo. Công tŕnh của Chúa Cha
được Chúa Con yêu dấu hoàn tất, nay Chúa Thánh
Thần làm cho hiện diện và thông ban cho các tín hữu.
Thánh ca và Thánh nhạc
1156 "Truyền
thống âm nhạc của toàn Hội Thánh đă kiến
tạo nên một kho tàng vô giá vượt hẳn mọi
diễn tả nghệ thuật khác, nhất là điệu
nhạc thánh đi liền với lời ca, góp phần
cần thiết hoặc trọn vẹn trong phụng
vụ trọng thể" (x. SC 112). Từ
thời Cựu Ước, khi cử hành phụng vụ,
người ta đă ngâm và hát các Thánh Vịnh
được linh hứng, thường có nhạc phụ
họa. Hội Thánh tiếp tục và
phát huy truyền thống này. "Hăy cùng nhau
xướng đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và
những bài ca (x. Cl 3,16-117) do Thần Khí
linh hứng; hăy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng
Chúa" (Ep 5,19). "Hát là cầu nguyện hai lần" (x.
T. Âu-tinh, Tv 72,1).
1157 (2502) Thánh ca và thánh nhạc
"càng liên kết chặt với hoạt động
phụng vụ" (SC 112), càng thể hiện chức
năng làm dấu chỉ của ḿnh, theo ba tiêu chuẩn
chính : "Diễn tả lời cầu nguyện cách
dịu dàng hơn, cổ vơ sự đồng thanh nhất
trí và làm các nghi lễ thêm phần long trọng" (x. SC
112). Như thế, thánh ca và thánh nhạc góp phần với
lời nói và hành động của phụng vụ
để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu (x. SC 112) :
"Thật cảm
động đến rơi lệ khi nghe anh em hát các thánh
thi, thánh ca với những âm điệu du dương vang
rền trong các buổi cử hành phụng vụ. Thật là xúc
động, lời ca tiếng hát rót vào tai
tôi, làm sôi sục chân lư trong tim tôi. Ḷng yêu mến Chúa nâng tôi
lên cao, hai ḍng lệ chảy trên má tôi, tôi thấy tâm hồn
ḿnh bay bổng ..." ( Thánh Âu-tinh,
Tự Thuật 9, 6, 14).
1158 (1201 1674) Sự
ḥa hợp của các dấu chỉ (thánh ca, thánh nhạc,
lời nói và hành động) càng diễn cảm và phong phú
hơn nếu được diễn tả bằng nét
đẹp văn hóa riêng của cộng đoàn Dân Chúa
đang cử hành Phụng Vụ (x. SC 119). V́ thế,
"thánh ca b́nh dân phải được khéo léo cổ vơ
để tín hữu có thể ca hát trong những việc
đạo đức thánh thiện cũng như trong chính
hoạt động phụng vụ" theo những quy
tắc của Hội Thánh (x. SC 118). "Lời
thánh ca phải thích hợp với đạo lư Công giáo và
tốt hơn cả là rút ra từ Thánh Kinh và các nguồn
mạch phụng vụ (SC 121).
Các ảnh
tượng thánh (476-477,
2129-2132)
1159 Ảnh tượng thánh,
đặc biệt các ảnh tượng dùng trong Phụng
Vụ, chủ yếu tŕnh bày Chúa Ki-tô. Ảnh tượng
không thể minh họa Thiên Chúa vô h́nh và khôn tả; nhưng
việc Con Thiên Chúa nhập thể đem lại cho ảnh
tượng một vai tṛ tôn giáo mới :
"Thiên Chúa không có thân xác,
không có diện mạo, nên tuyệt đối không thể
diễn tả bằng h́nh ảnh. Nhưng giờ
đây, Thiên Chúa đă mặc lấy xác phàm và sống
giữa loài người, nên tôi có thể họa lại
Thiên Chúa mà tôi đă thấy... Chúa đă lấy đi
tấm màn che, chúng tôi được chiêm ngắm vinh quang
Chúa" (Thánh Gio-an Đa-mát, " Về
ảnh tượng thánh" 1,16).
1160
Kinh
Thánh dùng lời nói để truyền đạt sứ
điệp Tin Mừng, c̣n ảnh tượng thánh dùng h́nh
ảnh. Lời nói và h́nh ảnh bổ sung cho nhau
:
"Để tuyên xưng vắn gọn
đức tin, chúng ta ǵn giữ mọi truyền thống
của Hội Thánh, dù thành văn hay không thành văn, đă
được truyền lại cho chúng ta không hề thay
đổi. Một trong những truyền
thống đó là việc dùng các ảnh tượng hợp
với lời rao giảng sứ điệp Tin Mừng, v́
tin rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đă thực sự làm
người. Điều này thực hữu ích và tiện
lợi, v́ lời nói và h́nh ảnh soi sángvà bổ túc ư
nghĩa cho nhau" (x. CĐ Ni-xê-a II, năm 787: COD 111).
1161
Tất
cả các dấu chỉ dùng trong Phụng Vụ đều
quy về Đức Ki-tô. Các ảnh tượng
về Đức Mẹ và các thánh cũng vậy, v́ biểu
thị Đức Ki-tô vinh hiển nơi các ngài. Các
ảnh tượng cho thấy "đám mây các nhân
chứng" (Dt 12,1) đang tham dự
vào công tŕnh cứu độ thế gian và hiệp nhất
với chúng ta, đặc biệt khi chúng ta cử hành các bí
tích. Qua các ảnh tượng, chúng ta thấy con người"được
tạo thành theo h́nh ảnhThiên Chúa", đă
được biến đổi "nên giống Thiên
Chúa" (x. Rm 8,29; 1Ga 3,2) và cùng với các
thiên thần được qui tụ trong Đức Ki-tô :
"Trung thành với đạo lư của
các thánh giáo phụ và truyền thống Hội Thánh Công Giáo,
v́ biết rằng đạo lư này được Chúa Thánh
Thần linh hứng, chúng tôi định tín chắc chắn
và chính xác rằng : các ảnh tượng thánh đáng tôn
kính, cũng như các mẫu Thánh Giá quư báu và sống
động - dù được vẽ, chạm trổ hay
làm bằng chất liệu thích hợp - phải
được chưng bày trong các nhà thờ, trang trí trên các
dụng cụ và y phục thánh, vẽ trên tường và
trên tranh, đặt trong nhà và ngoàiđường. Đối
với ảnh tượngcủa Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa và
Đấng Cứu Độ chúng ta, ảnh tượng của
Đức Ma-ri-a Thánh Mẫu Thiên Chúa và của các thiên thần,
các thánh và những người công chính cũng thế"
(CĐ Ni-xê-a II : DS 600).
1162 (2502) "Vẻ đẹp và màu
sắc của ảnh tượng thúc đẩy tôi
cầu nguyện. Như cảnh đẹp thiên nhiên làm
rạo rực hồn tôi, các ảnh tượng làm cho tôi
vui sướng ca ngợi Chúa" (x. Thánh Gio-an Đa-mát, " Về ảnh tượng thánh"
1,27). Chiêm ngắm ảnh tượng thánh, cùng với suy
niệm Lời Chúa vàhát thánh thi phụng vụ, sẽ ḥa
hợp với các dấu chỉ dùng trong cử hành
Phụng Vụ, để mầu nhiệm được
cử hành khắc sâu hơn trong tâm khảm, sau đó bộc
lộ ra trong đời sống mới của các tín
hữu.
III. CỬ HÀNH
KHI NÀO ?
Lịch
Phụng Vụ
1163 (512) "Hội
Thánh là Mẹ hiền, ư thức ḿnh có bổn phận ca
tụng công tŕnh cứu chuộc của Phu Quân chí thánh,
bằng việc tưởng niệm vào những ngày ấn
định trong năm. Mỗi tuần, vào
ngày Chúa Nhật, Hội Thánh tưởng nhớ việc
Chúa Phục Sinh. Mỗi năm một lần, vào
dịp lễ Phục Sinh, Hội Thánh c̣n cử hành hết
sức trọng thể, cuộc Thương Khó và Phục
Sinh hồng phúc của Người. Hội Thánh quảng
diễn mầu nhiệm Chúa Ki-tô qua chu
kỳ một năm... Trong khi tưởng niệm
những mầu nhiệm cứu chuộc, Hội Thánh
rộng mở cho các tín hữu kho tàng quyền năng
cứu độ và công nghiệp của Chúa, làm cho
những mầu nhiệm này hiện diện qua các thời
đại, để khi tiếp xúc với các mầu
nhiệm đó, các tín hữu sẽ được
đầy tràn ơn cứu chuộc" (SC 102).
1164 Từ khi
có luật Mô-sê, Dân Chúa căn cứ vào lễ Vượt
Qua để ấn định các đại lễ
nhằm tưởng niệm những kỳ công của
Thiên Chúa cứu độ, tạ ơn Người,
giữ măi kỷ niệm và truyền lại cho các thế
hệ sau. Trong thời đại của Hội Thánh,
từ khi Đức Ki-tô phục sinh đến ngày
Người quang lâm, Phụng Vụ do Hội Thánh cử
hành vào những ngày ấn định mang dấu ấn
mới mẻ của mầu nhiệm Đức Ki-tô.
1165 (2659,2836 1085)
Khi Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Chúa Ki-tô, hai
tiếng "Hôm nay" được lặp đi
lặp lại trong kinh nguyện, như âm vang lời kinh
Chúa dạy (x. Mt 6,11) và lời mời gọi của Thánh
Thần (x.Dt 3,7-4,11;Tv 95,7). "Ngày hôm nay" của Thiên
Chúa hằng sống mà con người được
mời gọi bước vào, chính là "Giờ"
Vượt Qua của Đức Giê-su. Cuộc Vượt Qua
của Người cuốn hút và bao trùm toàn bộ lịch
sư ố:
"Cuộc sống bao trùm trên vạn
vật và tất cả được đầy tràn ánh
sáng chói chang. Vầng Đông đích thực xâm chiếm vũ
trụ. Đức Ki-tô vĩ đại, Đấng đă "có
trước Sao Mai" cũng như mọi tinh tú, Đấng
bất tử và vô biên, chiếu soi trên vạn vật,
rực rỡ hơn cả mặt trời. V́ thế,
một ngày tươi sáng, trường cửu và vĩnh
viễn, được mở ra cho chúng ta là những
kẻ tin vào Người : đó là cuộc Vượt Qua
thần bí" (Thánh Hi-pô-li-tô, Phục Sinh 1-2).
Ngày của Chúa (2174-2188)
1166 (1343) "Theo
truyền thống tông đồ bắt nguồn từ
chính ngày Chúa Ki-tô sống lại, Hội Thánh cử hành
mầu nhiệm Phục Sinh vào mỗi ngày thứ tám, ngày
thật đáng gọi là ngày củaChúa hay ngày Chúa
Nhật" (x. SC 106). Ngày Chúa Ki-tô Phục Sinh vừa là
"Ngày thứ nhất trong tuần" gợi lại ngày
đầu của công tŕnh sáng tạo, vừa là "Ngày
thứ tám", sau khi "an nghỉ" trong "ngàySa-bát
vĩ đại", Chúa Ki-tô khai mạc"ngày Chúa đă
làm nên", "ngày không c̣n đêm tối" (Phụng
Vụ Byzantin). "Bữa tiệc của Chúa" là
trọng tâm của ngày này, ở đó tất cả
cộng đoàn tín hữu được gặp Chúa Ki-tô
Phục Sinh, Đấng mời gọi họ vào dự
tiệc (x. Ga 21,12; Lc 24,30) :
"Hôm nay là Ngày của Chúa, ngày Phục
Sinh, ngày của các Ki-tô hữu, cũng là ngày của chúng ta.
Hôm nay được gọi là ngày của Chúa, v́ là ngày
Đức Giê-su khải hoàn lên với Chúa Cha. Nếu
người ngoại giáo gọi là "ngày mặt
trời", chúng ta cũng sẵn sàng chấp nhận : v́
hôm nay, muôn dân được thấy Ánh Sáng, hôm nay Mặt
Trời Công Chính mang lại ơn cứu độ xuất
hiện" (Thánh Hi-ê-rô-ni-mô, "Bài giảng ngày Chúa
nhật Phục Sinh").
1167 Ngày Chúa
Nhật là ngày tuyệt hảo để cộng đoàn tín
hữu tập họp cử hành Phụng Vụ,
"để ngheLời Chúa và tham dự vào bí tích Thánh
Thể, để kính nhớ sự Thương Khó,
Phục Sinh và Vinh Quang của Chúa Giê-su, đồng thời
cảm tạ Thiên Chúa, v́ Người đă dùng sự
Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô từ trong kẻ chết
mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống
động" (SC 106) :
"Ôi lạy Chúa Ki-tô, khi suy ngắm
những điều kỳ diệu Người đă
thực hiện trong trong ngày Chúa Nhật, ngày Chúa sống
lại, chúng con phải thốt lên : Ngợi khen Chúa v́ ngày
Chúa Nhật, Ngày hồng phúc, Ngày khởi đầu công
tŕnh sáng tạo... công tŕnh cứu chuộc... đổi
mới nhân loại. Hôm nay trời đất vui mừng và
hoàn vũ ngập tràn ánh sáng. Ngợi khen Chúa v́ ngày Chúa
Nhật, Ngày cửa Thiên Đàng rộng mở đón A-đam
và tất cả những kẻ bị lưu
đầy" (Fanqith, Các giờ kinh Phụng vụ Syria
Antiokia, Quyển 6, Phần mùa hè, trang 193b).
Năm Phụng
Vụ
1168 (2698) Khởi
từ Tam Nhật Vượt Quanhư nguồn ánh sáng,
thời đại mới của Phục Sinh chiếu
tỏa cả năm Phụng Vụ. Thời gian của
cả năm trước và sau Tam Nhật Vượt Qua
được Phụng Vụ thánh hóa thành "năm
hồng ân của Chúa" (Lc 4,19). Nhiệm cục cứu
độ được thực hiện trong thời gian,
nhưng từ khi nhiệm cục đó đượchoàn
tất trong biến cố Đức Giê-su Phục Sinh và Thánh
Thần được thông ban, th́ cùng đích của
lịch sử đă được tiền dự, và
NướcThiên Chúa xuất hiện trong lịch sử loài
người.
1169 (1330 560) Phục
Sinh không chỉ là một ngày lễ như bao lễ khác,
nhưng là ngày "lễ trên các lễ", cũng như
bí tích Thánh Thể là "bí tích trên các bí tích". Thánh A-ta-
na-xi-ô gọi lễ Phục Sinh là "ngày Chúa Nhật
Trọng Đại" (Thư các đại lễ 329),
cũng như Giáo Hội Đông Phương gọi Tuần
Thánh là "Tuần Lễ Trọng Đại". Mầu
Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm Đức Ki-tô toàn
thắng sự chết, đem lại cho thời gian già
cỗi của chúng ta, sức sống mănh liệt, cho
đến khi mọi sự phải quy phục Đức Ki-tô
.
1170 Tại
Công Đồng Chung Ni-xê-a (năm 325), các Giáo Hội
đồng ư mừng lễ Phục Sinh vào Chúa nhật
tiếp sau ngày rằm Thượng nguyên (14 Nisan). V́ khác nhau
trong cách tính ngày 14 tháng Nisan. Ngày mừng lễ Phục Sinh
trong các Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương không
luôn trùng hợp. Do đó, hai bên đang t́m cách thỏa
thuận để có thể mừng Chúa Phục Sinh chung một
ngày.
1171 (524) Năm
Phụng vụ khai triển mầu nhiệmVượt Qua
dưới nhiều khía cạnh, đặc biệt là chu
kỳ các lễ xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền
Tin, Giáng Sinh, Hiển Linh) gợi lại những biến
cố khởi đầu ơn cứu độ và cho chúng
ta hưởng nhờ hoa trái đầu mùa của mầu
nhiệm Phục Sinh.
Lễ kính Các
Thánh trong năm Phụng Vụ
1172
1173 (957) Ngoài
ra, Hội Thánh c̣n thêm vào niên kỳ những lễ kính
nhớ các thánh tử đạo và các thánh khác. Hội Thánh
công bố mầu nhiệm Phục Sinh nơi các ngài, v́ các
ngài đă cùng chịu thương khó và cùng được
vinh hiển với Đức Ki-tô. Hội Thánh tŕnh bày cho các
tín hữu những gương mẫu của các ngài
để các gương sáng này lôi kéo mọi người
đến với Chúa Cha qua Chúa Ki-tô; và nhờ công
nghiệp các ngài, Hội Thánh lănh nhận được
những hồngân của Thiên Chúa (SC 104).
Các Giờ Kinh
Phụng Vụ
1174 (2698) Mầu
nhiệm Chúa Ki-tô, Nhập Thể và Vượt Qua,
được cử hành trong thánh lễ, đặc
biệt trong thánh lễ Chúa nhật, thấm nhập và
biến đổi thời gian trong ngày nhờ việc
cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, c̣n gọi là Kinh
Nhật Tụng. Trung thành với giáo huấn tông truyền
dạy chúng ta phải "cầu nguyện không
ngừng" (1Th5,1-17; Ep 6,l8), "Kinh Nhật Tụng
được lập ra để thánh hiến trọn
ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa" (SC 8).
"Kinh Nhật Tụng là kinh nguyện công khai của
Hội Thánh" (SC 98), qua đó các tín hữu (giáo sĩ, tu
sĩ và giáo dân) thực thi chức tư tế vương
giả dành cho những ai đă được rửa
tội. Được cử hành "dưới h́nh thức
được Hội Thánh chuẩn y", Các Giờ Kinh
Phụng Vụ "chính là tiếng của Hiền Thê nói
với Đấng Phu Quân, và hơn nữa là lời cầu
nguyện của Chúa Ki-tô và Thân Thể Người dâng lên
Chúa Cha" (SC 84).
1175 Các Giờ
Kinh Phụng Vụ phải trở thành lời kinh
nguyện của toàn thể Dân Chúa. Trong lời kinh đó,
chính Đức Ki-tô "tiếp tục thực thi chức
vụ tư tế qua Hội Thánh" (x. SC 83). Mỗi
người tham dự vào kinh nguyện đó tùy theo vị
thế riêng trong Hội Thánh và tùy hoàn cảnh sống : các
linh mục với tư cách là mục tử
được mời gọi chuyên cần cầu
nguyện và phục vụ Lời Chúa (x. SC 86,96; PO 5); các tu
sĩ do đặc sủng của đời sống thánh
hiến (x. SC 98); mọi tín hữu tùy theo khả năng:
"những mục tử phải lo cho các Giờ Kinh chính
yếu, nhất là giờ Kinh Chiều, được
cử hành chung trong nhà thờ vào những ngày Chúa nhật và
lễ trọng. Cũng khuyên cả giáo dân đọc Kinh
Nhật Tụng,hoặc cùng với các linh mục hoặc
khi tụ họp chung với nhau hoặc riêng một
ḿnh" (SC 100).
1176 (2700) Việc
cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ không những
đ̣i buộc phải ḥa hợp lời kinh với tâm
hồn cầu nguyện, mà c̣n "phải lo cho ḿnh có
kiến thức dồi dào hơn về Phụng Vụ và
Thánh Kinh, nhất là về Thánh Vịnh" (SC 90).
1177 (2586) Các
thánh thi và lời cầu được xen vào giữa các
Thánh Vịnh để diễn tả ư nghĩa của các
thời khắc trong ngày, của mùa Phụng Vụ và
của ngày Đại Lễ. Ngoài ra, việc đọc
Lời Chúa trong mỗi Giờ Kinh (với các câu
Xướng Đáp theo sau) và việc đọc sách các giáo
phụ và các bậc thầy linh đạo trong một
số Giờ cho thấy rơ hơn ư nghĩa của mầu
nhiệm đang cử hành, giúp thấu hiểu các Thánh
Vịnh và dọnđường cho tĩnh nguyện.
Việc "đọc sách thiêng liêng", nghĩa là
vừa đọc vừa suy niệm Lời Chúa để
cầu nguyện, bắt nguồn từ việc cử hành
Phụng Vụ.
1178 (1378) Thánh lễ được nối
dài bằng Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Các Giờ Kinh này
không loại trừ nhưng c̣n cổ vũ các việc
đạo đức khác của Dân Chúa, nhất là việc
thờ lạy và chầu Thánh Thể.
IV. CỬ HÀNH
Ở ĐÂU?
1179 (586) Việc
thờ phượng theo Thần Khí và Sự Thật (Ga 4,
24) của Giao Ước Mới không bị ràng buộc vào
một nơi nhất định. Tất cả trái
đất đều là thánh và được giao phó cho con
cái loài người. Khi cáctín hữu tụ tập một
nơi, điều quan trọng là chính họ là
"những viên đá sống động để xây nên
ngôi đền thờ của Thánh Thần" (1Pr 2,4-5).
Thân Thể của Đức Ki-tô Phục Sinh là ngôi
đềàn thiêng liêng phát sinh nguồn nước hằng
sống. Được tháp nhập vào Đức Ki-tô nhờ Thánh
Thần, "chính chúng ta là đền thờ thánh thiêng
của Thiên Chúa hằng sống" (2 Cr 6,16).
1180 (2106) Khi
tự do tôn giáo không bị hạn chế (x. DH 4), các Ki-tô
hữu có thể xây dựng những nơi dành riêng cho
việc thờ phượng Thiên Chúa. Những thánh
đường hữu h́nh này không chỉ là những
nơi hội họp, nhưng biểu thị và biểu
lộ Hội Thánh đang sống trong địa
phương đó, ngôi nhà của Thiên Chúa ở giữa
những người đă được ḥa giải và
liên kết với nhau trong Đức Ki-tô.
1181 (2691) Thánh
đường là "nhà cầu nguyện, nơi cử
hành và cất giữ Thánh Thể, cũng như để
tín hữu tụ họp, nơi có sự hiện diện
của Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Đấng
đă được hiến dâng v́ chúng ta trên bàn thờ
tế lễ. Nhà này cần phải được bảo
quản sạch sẽ, xứng hợp với việc
cầu nguyện và những buổi cử hành thánh lễ"
(x.
1182 (617,1383) Bàn
thờ của Giao Ước Mới là Thập Giá Đức
Ki-tô (x. Dt 13,10), nơi phát xuất các bí tích của mầu
nhiệm Vượt Qua. Bàn thờ là trung tâm của thánh
đường, trên đó "hy tế thập giá
được hiện tại hóa dưới những
dấu bí tích. Bàn thờ cũng là bàn tiệc Dân Chúa
được mời đến tham dự" (x. IGMR
259). Trong một số nghi lễ Đông Phương, bàn
thờ c̣n tượng trưng cho Ngôi Mộ của Đức
Ki-tô (v́ Người đă thực sự chết và sống
lại).
1183 (1379,2120) Nhà
Tạm "phải được đặt nơi
xứng đáng và vinh dự nhất trong nhà thờ" (MF).
Nhà Tạm phải có nét trang trọng, được
đặt nơi tôn nghiêm và chắc chắn (SC 128)
để giúp các tín hữu dễ dàng thờ phượng
Chúa Giê-su đang hiện diện thực sự trong bí tích
Thánh Thể.
(1241) Dầu
Thánh theo truyền thống được bảo quản
và tôn kính tại một nơi chắc chắn trong cung thánh
v́ xức dầu là dấu bí tích của ấn tín ơn Chúa
Thánh Thần. Dầu Dự ṭng và Dầu Bệnh nhân
cũng có thể đặt chung ở đó.
1184
Ghế của giám mục (ngai ṭa) hay của linh mục
chủ tế "phải nói lên nhiệm vụ của Ngài
là chủ tọa cộng đoàn và điều hành buổi
cầu nguyện" (IGMR 271).
103
Giảng đài : "Phẩm giá của
Lời Chúa đ̣i phải có một nơi thích hợp trong
nhà thờ, để Lời Chúa được loan báo và
giáo dân tự nhiên hướng về đó trong phần
phụng vụ Lời Chúa" (IGMR 272).
1185 Cuộc
triệu tập của Dân Chúa bắt đầu bằng bí
tích Thánh Tẩy, nên thánh đường phải có giếng
rửa tội để cử hành bí tích Thánh Tẩy và có
những b́nh nước thánh để nhắc các tín
hữu nhớ đến những lời hứa ngày
rửa tội.
Việc canh tân đời sống đ̣i
hỏi Ki-tô hữu phải sám hối, nên thánh
đường phải có nơi thích hợp để
tiếp đón hối nhân đến bày tỏ ḷng thống
hối và lănh nhận ơn tha thứ.
2717 Thánh
Đường cũng phải là nơi giúp tín hữu hồi
tâm và thinh lặng cầu nguyện để nối dài và
nội tâm hóa thánh lễ.
1186 (1130) Thánh
Đường c̣n mang ư nghĩa cánh chung. Để vào Nhà Chúa,
người tín hữu phải bước qua ngưỡng
cửa, như thể từ thế giới tội lỗi
bước vào thế giới của Đời Sống
Mới mà Thiên Chúa nuốn dành cho mọi người. Thánh
Đường hữu h́nh tượng trưng cho Nhà Cha;
ở đó, Chúa Cha "sẽ lau sạch nước
mắt họ" (Kh 21,4). V́ vậy, Thánh Đường là nhà
của tất cả con cái Thiên Chúa, luôn mở rộng
đón mời mọi người.
TÓM LƯỢC
1187 Phụng
Vụ là công tŕnh của Đức Ki-tô toàn diện, gồm có
Đầu và Thân Thể. Vị Thượng Tế của
chúngta không ngừng cử hành Phụng Vụ trên trời,
cùng với Mẹ Ma-ri-a, các tông đồ, chư thánh và
đông đảo những người đă được
hưởng Vinh Quang Nước Trời.
1188 Trong
Phụng Vụ, toàn thể cộng đoàn đều
cử hành, mỗi người theo chức năng của
ḿnh. Toàn Thân Thể Đức Ki-tô, đều có chức tư
tế cộng đồng. Nhưng một số tín
hữu đă lănh nhận bí tích Truyền Chức để
đại diện Đức Ki-tô là Đầu của Thân
Thể.
1189 Phụng
Vụ sử dụng các dấu chỉ và biểu
tượng lấy từ thiên nhiên (ánh sáng, nước,
lửa), từ đời sống con người (rửa,
xức dầu, bẻ bánh) và từ lịch sử cứu
độ (các nghi thức Vượt Qua). Được
đưa vào lănh vực đức tin và được
Chúa Thánh Thần sử dụng, những yếu tố thiên
nhiên, những nghi thức của loài người và
những nghi lễ tưởng niệm ơn cứu
chuộc đă trở thành phương thế Đức Ki-tô
dùng để cứu độ và thánh hóa nhân loại.
1190 Lời
Chúa là phần thiết yếu trong các cử hành Phụng
Vụ. Lời Chúa được công bố và lời
đáp trả tin yêu của Dân Chúa xác định ư nghĩa
của mỗi cử hành.
1191 Thánh Ca và
Thánh Nhạc liên kết chặt chẽ với hoạt
động Phụng Vụ, nên khi sử dụng chúng ta
phải theo các tiêu chuẩn : "diễn tả lời
cầu nguyện cách dịu dàng hơn, cổ vơ sự
đồng thanh nhất trí của cộng đoàn và làm nổi
bật tính chất thánh thiêng của buổi cử
hành".
1192 Ảnh
tượng thánh được chưng bày trong thánh
đường, nơi nhà riêng để khơi dậy và
nuôi dưỡng đức tin vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô.
Chúng ta tôn thờ chính Chúa Ki-tô qua ảnh tượng về
Người và công tŕnh cứu chuộc của
Người. Chúng ta tôn kính Mẹ Thiên Chúa, các thiên thần
và các thánh qua ảnh tượng của các ngài.
1193 Chúa nhật
là "Ngày của Chúa", ngày đặc biệt
để cử hành thánh lễ v́ là ngày Đức Ki-tô
Phục Sinh. Đó là ngày tốt nhất để cộng
đoàn cử hành Phụng Vụ, ngày gia đ́nh Ki-tô giáo sum
họp, ngày vui và ngày nghỉ. Ngày Chúa nhật là "nền
tảng và trung tâm của cả năm Phụng Vụ"
(SC 106).
1194 "Hội
Thánh c̣n triển khai trọn mầu nhiệm Chúa Ki-tô qua chu
kỳ một năm, từ Nhập Thể, Giáng Sinh,
đến Thăng Thiên, Hiện Xuống, và đợi
chờ ngày hồng phúc, ngày Chúa Ki-tô ngự đến"
(SC 102).
1195 Khi kính
nhớ các thánh, trước hết là Mẹ Thiên Chúa,
kế đến là các thánh tông đồ, các thánh tử
đạo và các thánh khác, Hội Thánh dưới
đất biểu lộ sự hiệp thông với
Phụng Vụ trên trời. Hội Thánh tôn vinh Đức Ki-tô
đă ban ơn cứu độ cho các thánh là các chi thể
được tôn vinh. Gương sáng của các ngài khích
lệ Hội Thánh trên đường tiến về Nhà
Cha.
1196 Khi cử
hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, tín hữu
được kết hiệp với Đức Ki-tô, vị
Thượng Tế của chúng ta, qua thánh vịnh, suy
niệm Lời Chúa, thánh ca và những lờichúc tụng.
Nhờ đó, họ được liên kết với
lời nguyện liên lỉ và phổ quát của
Người mà tôn vinh Chúa Cha và cầu xin ơn Thánh Thần
xuống cho toàn thế giới.
1197 Chúa Ki-tô là
Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa, là
"nơi vinh quang của Chúa Cha ngự trị".
Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, các tín hữu cũng
trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần,
những viên đá sống động xây nên Hội Thánh.
1198 Hội
Thánh tại thế cần có những nơi để
cộng đoàn tập họp : cácthánh đường
hữu h́nh là nơi thánh, là h́nh ảnh của Thành Thánh Giê-
ru- sa-lem thiên quốc, nơi chúng ta là những lữ khách
đang tiến về.
1199 Trong
những thánh đường này, Hội Thánh cử hành
việc thờ phượng công khai để tôn vinh Thiên
Chúa Ba Ngôi, lắng nghe Lời Chúa, ngợi khen chúc tụng,
dâng lên Người lời cầu nguyện của Hội
Thánh và hy lễ của Đức Ki-tô, Đấng hiện
diện giữa cộng đoàn qua các bí tích. Thánh
đường c̣n là nơi tín hữu hồi tâm và cầu
nguyện riêng.