1322 (1212) Bí tích Thánh Thể hoàn tất
công cuộc khai tâm Ki-tô giáo. Những người đă
được bí tích Thánh Tẩy nâng lên tham dự hàng
tư tế vương giả và nhờ bí tích Thêm Sức
trở nên đồng h́nh đồng dạng với Chúa
Ki-tô cách sâu xa hơn, nay nhờ bí tích Thánh Thể
được cùng với toàn thể cộng đoàn tham
dự vào hy lễ của Chúa Giê-su.
1323 (1402) "Trong
bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng
Cứu Chuộc chúng ta đă thiết lập Hy Tế
Tạ Ơn bằng Ḿnh và Máu Người, để
nhờ đó, Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời
đại cho tới khi Người lại đến, và
cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quư của
Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự
chết và phục sinh của Người: đây là bí tích
t́nh yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái,
bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta
nhận được Chúa Ki-tô làm của ăn,
được tràn đầy ân sủng
và được bảo đảm vinh quang tương
lai" (SC 47).
I. THÁNH THỂ,
NGUỒN MẠCH VÀ TỘT ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG
HỘI THÁNH
1324 (864) Bí tích Thánh Thể là
"nguồn mạch và tột đỉnh của
đời sống Ki-tô hữu" (x. LG 11). "Những
bí tích khác cũng như các thừa tác vụ và các hoạt
động tông đồ đều gắn liền
với bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó.
Thật vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng
tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh,
đó là chính Chúa Ki-tô, Người là mầu nhiệm
Phục Sinh của chúng ta" (PO 5).
1325 (775) "Bí tích Thánh Thể
biểu thị và thể hiện chính thực chất
của Hội Thánh là hiệp thông đời sống
với Thiên Chúa và hiệp nhất Dân Thiên Chúa. Việc Thiên
Chúa thánh hóa trần gian trong Chúa Ki-tô cũng như việc
con người trong Thánh Thần, tôn thờ Chúa Ki-tô và
nhờ Người tôn thờ chính Chúa Cha, cùng đạt
tới tột đỉnh trong bí tích Thánh Thể" (x.
CdR, huấn thị "Mầu nhiệm Thánh Thể" 6).
1326 (1090) Nhờ cử hành bí tích Thánh
Thể, ngay từ bây giờ chúng ta được kết
hiệp với phụng vụ trên trời và tiền
dự vào đời sống vĩnh cửu, "khi Thiên
Chúa có toàn quyền trên mọi sự" (1Cr 15,28).
1327 (1124) Bí tích Thánh Thể vừa
đúc kết vừa tổng hợp đức tin công giáo:
"Cách suy nghĩ của chúng ta phù hợp với bí tích
Thánh Thể, và ngược lại bí tích Thánh Thể xác
nhận cách suy nghĩ của chúng ta" (x. Thánh I-rê-nê,
Chống lạc giáo 4,18,5).
II. BÍ TÍCH THÁNH
THỂ ĐƯỢC GỌI BẰNG NHỮNG DANH HIỆU NÀO?
1328
Bí
tích Thánh Thể vô cùng phong phú nên được gọi
bằng nhiều danh hiệu khác nhau, mỗi danh hiệu
gợi lên một số khía cạnh:
(2637 1082 1359) Bí tích Thánh Thể được gọi là Lễ
Tạ Ơn, v́ đây chính là việc tạ ơn Thiên Chúa.
Tân Ước dùng các từ Hy Lạp eucharistein (x. Lc 22,19;
1Cr 11,24) và eulogein (x. Mt 26,26; Mc 14,22), gợi nhớ lại
việc người Do Thái, đặc biệt trong bữa
ăn, ca ngợi Thiên Chúa v́ những kỳ công Người
đă thực hiện: sáng tạo, cứu chuộc và thánh
hóa.
1329 (1382) Bí
tích Thánh Thể được gọi là Bữa Ăn
của Chúa, v́ Hội Thánh tưởng niệm bữa
Tiệc Ly Chúa cùng ăn với các môn đệ tối hôm
trước ngày chịu nạn. Bữa ăn
này cũng nói lên sự tiền dự vào Bữa Tiệc
Cưới Con Chiên tại Giê-ru-sa-lem trên trời.
(790) Bí tích
Thánh Thể được gọi là Lễ Bẻ Bánh, v́
trong bữa Tiệc Ly (x.Mt 26,26; 1Cr 11,24).
Chúa Giê-su dùng nghi thức đặc thù của người
Do Thái để chúc tụng Thiên Chúa và chia bánh như
người chủ tiệc thường làm (x. Mt 14,19; 15,16; Mc 8,6;19). Nhờ việc bẻ bánh,
các môn đệ nhận ra Chúa sau khi Người phục
sinh (x.Lc 24,13-15). V́ vậy, các Ki-tô
hữu đầu tiên gọi những buổi cử hành
thánh lễ là Lễ Bẻ Bánh (x.Cv 2,42.46;
20,7.11). Với thuật ngữ này, họ muốn nói:
tất cả những ai cùng ăn một tấm bánh
được bẻ ra là Chúa Ki-tô, th́ được
hiệp thông với Người và hợp thành thân thể
duy nhất trong Người (x. 1Cr 10,16-17).
(1384)
Bí tích Thánh Thể c̣n được thánh Phao-lô gọi
là Đồng Bàn (Synaxis), v́ được cử hành trong
cộng đoàn tín hữu. Cộng đoàn Thánh Thể là h́nh
ảnh hữu h́nh của Hội Thánh (x. 1Cr 11,17-34).
1330 (1341) Bí tích Thánh Thể
được gọi là cuộc Tưởng Niệm Chúa
Giê-su chịu chết và sống lại.
(2643 614) Bí tích Thánh Thể được gọi là Hy
Lễ Thánh, v́ hiện tại hóa hy lễ duy nhất
của Chúa Cứu Thế và bao gồm lễ vật
của Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể c̣n
được gọi là "hy tế thánh lễ",
"hy lễ ca ngợi" (x. Dt 13,15; x. Tv 116, 13.17), hy
lễ thiêng liêng (x. 1Pr 2,5), hy lễ tinh tuyền (x. Ml 1.11) và
thánh thiện, v́ hoàn tất và vượt trên mọi hy
lễ trong Cựu Ước.
(1169)
Bí tích Thánh Thể được gọi là phụng
vụ thánh thiện và thần linh, v́ là tâm điểm và
cách diễn tả cô đọng nhất của toàn thể
phụng vụ Hội Thánh. Cũng v́ thế, bí
tích Thánh Thể được gọi là Mầu Nhiệm
Rất Thánh, Bí Tích Cực Thánh, v́ là bí tích trên các bí tích.
Chúng ta dùng thuật ngữ Thánh Thể
để chỉ bánh thánh được cất giữ
trong Nhà Tạm.
1331 (950
(x. 1Cr 10, 16-17). Bí tích Thánh
Thể cũng được gọi là Sự Thánh (x. Giáo
huấn các Tông đồ 8,13.12; Didaché
9,5; 10,6) theo ư nghĩa đầu tiên của "mầu
nhiệm các thánh thông công" được tuyên xưng
trong kinh Tin Kính của các tông đồ. Ngoài ra, Ḿnh Thánh Chúa
c̣n được gọi là bánh các thiên thần, bánh bởi
trời, thuốc trường sinh (x. Thánh I-nha-xi-ô
An-ti-ô-ki-a, thư Ep.20,2), của ăn
đàng...
1332 (849) Cử
hành bí tích Thánh Thể được gọi là Thánh Lễ,
Lễ Mi-sa, do từ la-tinh missio nghĩa là sai đi. Thánh lễ kết thúc với lời Hội Thánh
sai các tín hữu đi vào đời, để họ
thực thi thánh ư Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
III. BÍ TÍCH THÁNH
THỂ TRONG
Dấu chỉ
bánh và rượu
1333 (1350 1147 1148) Trong Thánh Lễ, nhờ
lời Đức Ki-tô và lời Hội Thánh kêu cầu Chúa Thánh
Thần, bánh và rượu trở nên Ḿnh và Máu Đức Ki-tô.
Vâng lệnh của Chúa và để tưởng niệm Chúa
cho đến ngày Người quang lâm, Hội Thánh làm
lại điều Chúa đă làm hôm trướùc ngày
chịu nạn: "Người cầm lấy bánh...
"Người cầm lấy chén rượu...". Bánh và rượu dù đă trở nên
Ḿnh và Máu Chúa Ki-tô cách mầu nhiệm, vẫn là dấu
chỉ cho sự thiện hảo của công tŕnh sáng
tạo. Do đó, khi dâng lễ vật, chúng ta tạ ơn
Đấng Sáng Tạo v́ đă ban bánh và rượu (x. Tv
104,13-15), tuy "do công lao của con người",
nhưng trước hết là "hoa mầu ruộng
đất" và "sản phẩm từ cây nho",
tức là những ân huệ của Đấng Sáng Tạo.
Hội Thánh coi "bánh và rượu" (St 14,18) do Men-ki-sê-đê, vị vua kiêm tư
tế, dâng lên Thiên Chúa, là tiên trưng cho lễ vật
của Hội Thánh (x. MR, Kinh Tạ Ơn Rô-ma 95).
1334 (1150 1363) Trong Cựu Ước, bánh
và rượu được chọn trong số hoa trái
đầu mùa của ruộng đất, để dâng làm
hiến lễ tạ ơn Đấng Sáng Tạo. Trong khung
cảnh cuộc Xuất Hành, bánh và rượu mang một ư
nghĩa mới: "bánh không men" người Do Thái
hằng năm vẫn dùng trong lễ Vượt Qua,
nhắc nhớ ngày được giải thoát và vội vă
ra đi khỏi Ai Cập; kỷ niệm về Man-na trong
hoang địa luôn giúp Ít-ra-en nhớ rằng:
"Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh,
nhưng c̣n nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra" (Đnl 8,3); cuối cùng, bánh ăn hàng ngày là sản
phẩm của Đất Hứa, là bằng chứng Thiên Chúa
hằng trung tín giữ lời đă hứa. Rượu
diễn tả niềm vui ngày lễ hội, nhưng
rượu trong "chén chúc tụng" (1 Cr 10,16) vào cuối bữa tiệc Vượt Qua
của người Do Thái, có chiều kích cánh chung, chất
chứa niềm hy vọng Đấng Mê-si-a sẽ đến
phục hưng Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-su
thiết lập bí tích Thánh Thể, bằng cách đem
lại một ư nghĩa mới và vĩnh viễn cho
lời chúc tụng đọc trên bánh và rượu.
1335 (1151) Hội Thánh nhận ra các phép
lạ hóa bánh ra nhiều, khi "Chúa Giê-su đọc
lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân
phát để nuôi sống đám đông", tiên báo sự
phong phú của tấm bánh duy nhất là "Thánh
Thể" (x. Mt 14,13-21; 15,32-39). Phép lạ hóa nước
thành rượu ở Ca-na (x.Ga 2,11) là
dấu chỉ báo trước "Giờ Con Người
được tôn vinh". Dấu chỉ này c̣n loan báo
Tiệc Cưới trong Nước Thiên Chúa, nơi các tín
hữu sẽ uống rượu mới (x. Mc 14,25) đă trở thành Máu Chúa Ki-tô.
1336 (1327) Khi
Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn, cũng như khi
Người công bố lần đầu về bí tích Thánh
Thể, các môn đệ không chấp nhận; đa số
môn đệ thắc mắc: "Lời này chướng
tai quá, ai mà nghe nổi?" (Ga 6,60). Thánh Thể và Thánh Giá là những viên đá gây
vấp ngă cho mọi người. Đây là
một mầu nhiệm luôn tạo cớ gây chia rẽ
"cả anh em cũng muốn bỏ đi sao?" (Ga
6,67). Câu hỏi của Chúa vẫn vang
dội qua các thời đại như lời yêu
thương mời gọi mọi người nhận
biết: "Thầy mới có những lời ban phúc
trường sinh" (Ga 6,68), và tin
tưởng đón nhận hồng ân Thánh Thể, cũng
là đón nhận chính Người.
Thiết lập
bí tích Thánh Thể
1337 (610 611) Đức Giê-su yêu thương
những kẻ thuộc về ḿnh và yêu thương họ
đến cùng. Khi biết Giờ đă đến, giờ
phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha,
Người rửa chân cho họ trong bữa Tiệc Ly và
ban cho họ giới răn yêu thương (x. Ga 13,1-17).
Để trao lại cho họ bảo chứng t́nh yêu này và cho
họ được tham dự vào cuộc Vượt Qua
của ḿnh, Người thiết lập bí tích Thánh Thể
để tưởng niệm cuộc tử nạn và
phục sinh của Người và truyền lệnh cho các
tông đồ mà "Người đă đặt làm tư
tế của Giao Ước Mới, cử hành bí tích này cho
đến khi Người lại đến" (x. CĐ
Trentô: DS 1740).
1338
Các
tác giả Phúc Âm Nhất Lăm và thánh Phao-lô lưu truyền cho
chúng ta bản tường thuật việc thiết lập
bí tích Thánh Thể, trong khi thánh Gio-an thuật lại
những lời của Chúa Giê-su tại hội
đường Ca-pha-na-um, những lời chuẩn bị
cho việc thiết lập bí tích Thánh Thể: Đức Ki-tô
tự xưng ḿnh là Bánh Hằng Sống từ trời
xuống (x. Ga 6).
1339 (1169) Đức
Giê-su chọn lễ Vượt Qua để thực
hiện điều Người báo trước ở
Ca-pha-na-um là ban Ḿnh và Máu Người cho môn đệ:
"Đă đến ngày lễ
Bánh Không men, ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua. Đức Giê-su sai
Phê-rô, Gio-an đi và dặn: "Các anh hăy
đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua... Các ông ra đi... và dọn tiệc Vượt Qua.
Khi tới giờ ăn tiệc
Vượt Qua, Đức Giê-su vào bàn với các tông đồ.
Người nói với các ông: "Thầy những khát khao
mong mỏi ăn lễ Vượt Qua
này với anh em trước khi chịu khổ h́nh. Bởi
v́, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho
đến khi lễ này được nên trọn vẹn
trong Nước Thiên Chúa"... Rồi Người cầm
lấy tấm bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao
cho các ông và nói: "Đây là Ḿnh Thầy, hiến tế v́ anh
em. Anh em hăy làm như Thầy vừa mới
làm, mà tưởng nhớ đến Thầy".
Rồi tới tuần rượu cuối bữa ăn,
Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là
giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu
đổ ra v́ anh em" (Lc 22,7-8;13-16;19-20)
(x. Mt 26,17-29; Mc 14,12-25; 1Cr 11,23-26).
1340 (1151 677) Trong bữa Tiệc Ly, khi
Đức Giê-su cùng mừng lễ Vượt Qua với các
tông đồ, Người đă đem lại ư nghĩa
trọn vẹn cho lễ Vượt Qua của
người Do Thái. Tiệc Ly tiên trưng cho cuộc
Vượt Qua mới: trong cuộc tử nạn và
phục sinh, Đức Giê-su vượt qua để về
cùng Chúa Cha. Cuộc Vượt Qua này được cử
hành trong bí tích Thánh Thể. Bí tích này hoàn tất lễ
Vượt Qua của người Do Thái và tiên báo cuộc
Vượt Qua cuối cùng của Hội Thánh vào vinh quang
của Nước Trời.
"Anh em hăy làm
việc này mà nhớ đến Thầy"
1341 (611) Khi Đức Giê-su truyền
lặp lại những cử chỉ và lời nói của
ḿnh "cho tới khi Người lại đến" (1Cr
11,26), Người đ̣i hỏi không những phải
nhớ đến Người và những ǵ Người
đă làm, nhưng c̣n muốn các tông đồ và những
người kế nhiệm phải cử hành phụng
vụ tưởng niệm cuộc sống, cái chết,
việc phục sinh và lên trời về với Chúa Cha
của Người để cầu bầu cho chúng ta.
1342 (2624) Ngay từ đầu,
Hội Thánh đă trung thành tuân giữ mệnh lệnh
của Chúa. Sách Công Vụ Tông Đồ tường tŕnh
về Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem như sau:
"Họ chuyên cần nghe
các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông
với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và
cầu nguyện không ngừng... ngày ngày siêng năng tới
đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại
tư gia, họ dùng bữa với ḷng đơn sơ vui
vẻ" (Cv 2,42.46)
1343 (1166,2177) Đặc biệt các Ki-tô hữu
tụ họp "để bẻ bánh" (Cv 20,7) vào
"ngày thứ nhất trong tuần", nghĩa là ngày Chúa
Nhật, ngày Chúa Phục Sinh. Từ đó,
việc cử hành bí tích Thánh Thể vẫn tiếp nối
với cùng một cấu trúc cơ bản trong toàn Hội
Thánh cho đến ngày nay. Bí tích Thánh
Thể luôn là trung tâm của đời sống Hội
Thánh.
1344 (1404) Như vậy, qua các thánh
lễ, dân lữ hành của Thiên Chúa công bố mầu
nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su "cho tới
khi Người lại đến" (1Cr 11,26) và "theo
con đường hẹp của thập giá" (x.AG 1),
để tiến vào bàn tiệc thiên quốc; bấy
giờ, những người được tuyển
chọn sẽ đồng bàn trong Nước Chúa.
IV CỬ HÀNH
PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
Thánh lễ qua
mọi thời đại
1345
Từ
thế kỷ II, chúng ta có chứng từ của thánh
Giút-ti-nô tử đạo về những diễn tiến
chính của một thánh lễ. Cho đến nay, diễn
tiến này vẫn không thay đổi trong các Nghi Lễ
Phụng Vụ. Thánh Giút-ti-nô viết bản văn này vào
năm 155, để giải thích cho hoàng đế La mă
An-to-ni-us Pi-us (138-161) về những ǵ người Ki-tô
hữu cử hành:
Vào ngày Mặt Trời, như người
ta thường gọi, những người tín hữu
trong thành phố hay ở nông thôn đều họp lại
một nơi.
Tùy thời gian cho phép, người ta
đọc bút tích của các tông đồ và sách các ngôn
sứ.
Sau khi
đọc xong, vị chủ sự lên tiếng nhắn
nhủ và khuyến khích mọi người sống theo các giáo huấn và gương lành tốt
đẹp này.
Sau
đó chúng tôi đứng dậy, dâng lời cầu nguyên
lên Thiên Chúa cho chính chúng tôi... và cho mọi người khác
trên thế giới, để xứng đáng trở thành
những người công chính và trung thành tuân giữ lề
luật ngay trong cuộc sống hầu đạt
được ơn cứu độ vĩnh cửu.
Sau
lời nguyện, chúng tôi hôn và chúc b́nh an
cho nhau.
Tiếp
đến, một tín hữu mang bánh và một chén
rượu có pha nước đến
cho người chủ sự.
Vị
chủ sự cầm lấy bánh rượu, nhân danh Chúa Con
và Thánh Thần, dâng lời tán tụng và tôn vinh Chúa Cha là Chúa
tể càn khôn. Ông đọc một lời
tạ ơn dài về việc Thiên Chúa cho chúng ta xứng
đáng lănh nhận các hồng ân.
Khi
vị chủ sự kết thúc các lời nguyện và kinh
tạ ơn, mọi người hiện diện
đều đồng thanh đáp: A-men.
Sau khi
vị chủ sự hoàn tất nghi thức tạ ơn và
toàn dân thưa A-men, các vị mà chúng tôi gọi là phó tế,
phân phát bánh và rượu có pha nước đă
"trở thành Thánh Thể" cho mọi người
hiện diện hưởng dùng và đem về cho
những người vắng mặt (x. Thánh
Giút-ti-nô,Hộ giáo 1,65).
1346
Thánh
lễ diễn tiến theo một cấu trúc cơ bản
được duy tŕ từ nhiều thế kỷ cho
đến nay. Thánh lễ chia làm hai phần nhưng là
một thể thống nhất:
·
Tập
họp, Phụng vụ Lời Chúa với các bài
đọc, bài giảng và lời nguyện giáo dân;
·
Phụng
vụ Thánh Thể với việc tiến dâng bánh ruợu;
truyền phép với lời kinh tạ ơn và hiệp
lễ.
(103)
Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh
thể là "một hành vi phụng thờ duy nhất"
(x. SC 56).
Bàn tiệc Thánh Thể vừa là bàn tiệc
Lời Chúa, vừa là bàn tiệc Ḿnh Chúa Ki-tô" (x DV 21).
1347
Phải
chăng đó cũng là bữa tiệc Vượt Qua
Đức Giê-su phục sinh đă dùng với các môn đệ?
Trong khi đi đường, Người giải thích cho
họ những lời Thánh Kinh và khi ngồi vào bàn ăn,
Người "cầm lấy bánh, đọc lời chúc
tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ" (x. Lc 24,13-25).
Diễn tiến
Thánh lễ
1348 (1140 1548) Cộng đoàn tập họp. Các
Ki-tô hữu tập họp lại một nơi để
cử hành thánh lễ. Chính Đức Ki-tô đứng
đầu cộng đoàn; Người chủ sự
buổi lễ. Người là Thượng tế của
Giao Ước Mới. Dù ẩn dạng, nhưng chính
Người chủ tŕ mọi thánh lễ. Thay mặt
Người, vị giám mục hay linh mục, "trong
cương vị Đức Ki-tô Thủ lănh", sẽ
chủ sự cộng đoàn, giảng dạy sau các bài
đọc, đón nhận lễ vật, dâng tiến và đọc
kinh nguyện Thánh thể. Mọi người đều
tham gia cách tích cực vào thánh lễ, mỗi người
một cách: người đọc thánh thư, kẻ mang lễ
vật, người trao Ḿnh Thánh và toàn dân đều
thưa A-men thể hiện sự tham gia của ḿnh.
1349 (1184) Phụng vụ Lời Chúa
gồm các bài đọc rút ra từ "các sách ngôn
sứ", nghĩa là từ Cựu Ước, và từ
các "kư ức của tông dồ", nghĩa là từ các
thư và Phúc Âm. Bài giảng giúp các tín hữu nhận
thức đây là Lời Chúa (x. 1Tx 2,11): phải đón
nhận và đem ra thực hành trong đời sống.
Tiếp đến là lời nguyện tín hữu cầu cho
mọi người, như lời thánh Phao-lô dạy:
"Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời
cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất
cả mọi người, cho vua chúa và tất cả
những người cầm quyền" (x. 1Tm 2,1-2).
1350 (1359 614) Chuẩn bị lễ phẩm.
Người ta mang, đôi khi rước cách long trọng,
bánh và rượu lên bàn thờ. Vị linh mục nhân danh
Đức Ki-tô, dâng lên Thiên Chúa lễ vật sẽ trở
thành Ḿnh Máu Đức Ki-tô. Đây chính là cử chỉ của
Đức Ki-tô, trong bữa Tiệc Ly, "cầm lấy bánh
và chén rượu". "Chỉ có Hội Thánh trong
lời kinh tạ ơn mới có quyền dâng lên Đấng
Sáng Tạo lễ vật tinh tuyền được
chọn giữa vạn vật" (T. Irênê, chông lạc giáo).Việc
dâng lễ vật trên bàn thờ lặp lại cử
chỉ của Men-ki-sê-đê và đặt tặng phẩm
của Tạo Hóa vào tay Đức Ki-tô. Trong hy tế của
ḿnh, Đức Giê-su kiện toàn mọi cố gắng tế
lễ của con người.
1351 (1397 2186) Từ
thuở ban đầu, khi mang bánh và rượu đến
cử hành thánh lễ, các Ki-tô hữu cũng mang theo
tặng phẩm để giúp đỡ những
người túng thiếu. Tập tục "quyên góp" (x.
1Cr 16,1) xưa nay xuất phát từ mẫu gương
của Đức Ki-tô, Đấng hoá nên nghèo để biến
chúng ta thành kẻ giàu sang (x.
2Cr 8,9):
"Những người hằng tâm
hằng sản sẽ tùy ư đóng góp và trao lại cho
vị chủ sự. Vị chủ sự sẽ phân phát
để giúp đỡ các trẻ mồ côi, người
goá bụa; người bệnh tật hay kẻ thiếu
thốn; những tù nhân, những người mới
đến lập nghiệp; tóm lại, vị chủ
sự phải chăm sóc mọi kẻ cần
được giúp đỡ" (Thánh Giút-ti-nô, Hộ giáo
1,67,6).
1352 Kinh
nguyện Thánh Thể. Trung tâm và cao điểm của toàn
bộ cử hành là Kinh Nguyện Thánh Thể, gồm
lời Kinh Tạ Ơn và lời Truyền Phép:
(559) Trong kinh
Tiền tụng, nhờ Đức Ki-tô trong Chúa Thánh Thần,
Hội Thánh dâng lên Chúa Cha lời tạ ơn về tất
cả công tŕnh sáng tạo, cứu chuộc và thánh hoá. Toàn
thể cộng đoàn hiệp với Hội Thánh trên
trời, gồm các thiên thần và chư thánh, không ngừng
tán tụng Thiên Chúa Chí Thánh.
1353 (1105) Trong
lời kinh "xin ban Thánh Thần", Hội Thánh khẩn
cầu Chúa Cha ban Thánh Thần xuống trên bánh rượu;
để nhờ quyền năng của Thánh Thần, bánh
rượu trở nên Ḿnh Máu Đức Giê-su Ki-tô và để
những người lănh nhận Thánh Thể trở thành
một thân thể và một tinh thần duy nhất (Một
số Nghi lễ phụng vụ đặt lời kinh
"xin ban Thánh Thần" sau phần Tưởng Niệm).
(1375) Trong
phần tường thuật việc lập bí tích Thánh
Thể, nhờ hiệu lực của lời và cử
chỉ Đức Ki-tô, cũng như quyền năng của
Thánh Thần, bánh rượu trở thành Ḿnh và Máu Đức
Ki-tô, lễ vật chính Người đă dâng trên thập
giá.
1354 (1103) Tiếp
đến là phần tưởng niệm, Hội Thánh
tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn,
phục sinh và cuộc quang lâm vinh hiển của Đức
Giê-su Ki-tô; Hội Thánh dâng lên Chúa Cha lễ vật của
Con Chí Ái, lễ vật giao hoà chúng ta với Người.
(954) Các
lời chuyển cầu cho thấy hy lễ tạ ơn
được cử hành trong sự hiệp thông với
toàn thể Hội Thánh cả thiên quốc lẫn trần
gian, Hội Thánh của những kẻ sống cũng
như người đă qua đời; trong sự hiệp
thông với các mục tử của Hôềi Thánh, Đức
Giáo Hoàng, Đức Giám mục địa phận, hàng linh
mục cũng như phó tế; và trong sư hiệp thông
với các giám mục toàn cầu cùng với Giáo Hội
của các ngài.
1355 (1382) Lời
nguyện Chúa dạy là kinh Lạy Cha và nghi thức bẻ
bánh đi trước phần hiệp lễ. Trong phần
hiệp lễ, các tín hữu lănh nhận "bánh bởi
trời" và "chén cứu độ", là chính Ḿnh Máu
Thánh Đức Ki-tô, Đấng tự hiến "để cho
thế gian được sống" (Ga 6,51):
(1327) Ngày
xưa các tín hữu gọi bánh và rượu đă trở
nên Ḿnh Máu Thánh Chúa là bánh và rượu "đă
được thánh hiến", nên "chúng tôi gọi
lương thực này là Thánh Thể". Chỉ có
người đón nhận giáo lư chân chính với chúng tôi,
đă lănh nhận phép rửa để được tha
tội và tái sinh, phải sống tuân theo luật Chúa,
mới được tham dự vào bàn tiệc này" (Thánh
Giút-ti-nô, Hộ giáo 1,66,1-2).
V. HY TẾ BÍ TÍCH:
TẠ ƠN, TƯỞNG NIỆM, HIỆN DIỆN
1356 Ngay từ
thuở ban đầu, các Ki-tô hữu đă cử hành thánh
lễ với một h́nh thức cơ bản không thay
đổi, dù có trải qua bao nhiêu thời gian và nghi
thức phụng vụ khác nhau. Họ thực thi như
thế v́ cảm thấy có trách nhiệm đối với
mệnh lệnh Chúa đă trao trong đêm trước khi
Người chịu khổ nạn: "Các con hăy làm
việc này mà nhớ đến Thầy" (1 Cr 11,24-25).
1357 Chúng ta
chỉ chu toàn mệnh lệnh của Chúa, khi cử hành
lễ tưởng niệm hy tế của Người.
Chúng ta dâng lên Chúa Cha những ǵ mà chính Người đă ban
cho chúng ta: nhờ lời của Đức Ki-tô và quyền
năng của Thánh Thần, những tặng phẩm
của thiên nhiên là bánh và rượu trở nên Ḿnh và Máu
Đức Ki-tô. Như thế, Đức Ki-tô thực sự
hiện diện và hiện diện một cách huyền
nhiệm.
1358 Do đó,
chúng ta sẽ phải xem bí tích Thánh Thể là:
·
lời
tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa Cha;
·
tưởng
niệm hy tế của Đức Ki-tô và Nhiệm Thể
của Người;
·
sự
hiện diện của Đức Ki-tô, nhờ quyền
năng của Lời và Thánh Thần của Người.
Tạ ơn và
ca ngợi Chúa Cha
1359 (293) Thánh
Thể là bí tích cứu độ được Đức
Ki-tô hoàn tất trên thập giá, đồng thời cũng
là hy tế tạ ơn và ca ngợi công tŕnh của
Đấng Sáng Tạo. Trong hy tế Thánh Thể, Đức Ki-tô
dâng toàn thể công tŕnh sáng tạo được Thiên Chúa
yêu thương lên trước nhan thánh Chúa Cha qua cái
chết và sự phục sinh của ḿnh. Nhờ
Người, Hội Thánh có thể dâng hy tế tạ
ơn và ca ngợi v́ tất cả những chân thiện
mỹ Thiên Chúa đă làm cho vũ trụ và cho con
người.
1360 (1083) Bí
tích Thánh Thể là hy tế tạ ơn Chúa Cha, là lời
chúc tụng Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa để tỏ ḷng
tri ân v́ mọi điều thiện hảo Người
đă thực hiện qua công tŕnh sáng tạo, cứu
chuộc và thánh hóa. Bí tích Thánh Thể trước hết là
"hy tế tạ ơn".
1361 (294) Bí tích
Thánh Thể c̣n là hy tế ca ngợi, nhờ đó Hội
Thánh dâng lên lời ca ngợi vinh quang Thiên Chúa nhân danh toàn
thể thọ sinh. Hy tế ca ngợi này chỉ có thể
thực hiện cách trọn hảo nhờ Đức Ki-tô:
Người hiệp nhất mọi tín hữu với
Người, với lời ca ngợi và chuyển cầu
của Người; đến nỗi, hy tế ca ngợi
Chúa Cha phải được dâng lên nhờ Người,
với Người để được chấp
nhận trong Người.
Tưởng
niệm hy tế của Đức Ki-tô và của Thân Thể
Người là Hội Thánh
1362 (1103) Bí
Tích Thánh Thể Tưởng Niệm cuộc Vượt Qua
của Đức Ki-tô, hiện tại hóa và dâng tiến cách bí
tích hy tế duy nhất của Người trong Phụng
Vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong
các kinh nguyện Thánh Thể, sau phần tường
thuật việc lập bí tích Thánh Thể và phần
hiến thánh, bao giờ cũng có một kinh Tưởng
Niệm.
1363 (1099) Theo
Thánh Kinh, Tưởng Niệm không chỉ là nhớ lại
những biến cố đă qua, mà c̣n là loan báo những
kỳ công Thiên Chúa đă thực hiện cho nhân trần. Khi
cử hành phụng vụ, những biến cố này
hiện diện sống động giữa cộng
đoàn. Dân Ít-ra-en hiểu cuộc giải phóng khỏi ách
nô lệ Ai Cập như sau: khi dân Chúa cử hành lễ
Vượt Qua, các biến cố thời Xuất Hành
lại hiện diện sống động trong kư ức,
để họ căn cứ vào đó mà điều
chỉnh cuộc sống của ḿnh.
1364(
1365 (2100 1846) V́
là lễ Tưởng Niệm cuộc Vượt Qua
của Đức Ki-tô, thánh lễ cũng là một hy teá. Tính
chất hy tế thể hiện rơ trong những lời
truyền phép: "Này là Ḿnh Thầy sẽ bị nộp v́
các con". "Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước
Mới sẽ đổ ra cho các con và mọi người
được tha tội" (Lc 22, 19-20). Trong bí tích Thánh
Thể, Đức Ki-tô ban chính thân ḿnh đă tự hiến trên
thập giá v́ chúng ta, ban chính máu Người đă
đổ ra "cho mọi người được tha
tội" (Mt 26,28).
1366 (613) Thánh
lễ là một hy tế v́ hiện tại hóa hy tế
thập giá, v́ tưởng niệm và ban phát hiệu
quaố của hy tế này:
"Đức Ki-tô là Thiên Chúa và Chúa chúng ta,
đă tự hiến trên bàn thờ thập giá, cho Chúa Cha
một lần dứt khoát. Người đă chết
như Vị Chuyển Cầu cho chúng ta, để đem
lại ơn cứu chuộc muôn đời cho nhân
loại. Tuy nhiên, chức tư tế của Đức Ki-tô
không chấm dứt khi Người chết (x. Dt 7,24.27).
Trong bữa Tiệc Ly, vào đêm bị nộp (1Cr 11,23),
Người muốn để lại cho Hội Thánh,
Hiền Thê yêu dấu của Người, một hy tế
hữu h́nh, v́ bản tính con người cần như
vậy. Hy tế đẫm máu đă được
thực hiện một lần duy nhất trên thập giá
này được tái diễn và tưởng niệm cho
đến tận thế (x. 1Cr 11,23), đem lại sức
mạnh cứu độ tha thứ mọi tội lỗi
chúng ta hằng phạm" (x. CĐ Trentô: DS 1740).
1367 (1545) Hy
tế của Đức Ki-tô và hy tế Thánh Thể chỉ là
một. Lễ vật duy nhất là Đức Ki-tô, xưa chính
Người dâng trên thập giá, nay được dâng lên
nhờ thừa tác vụ linh mục. Chỉ khác biệt
ở cách dâng: "V́ trong hy lễ thần linh
được cử hành trong thánh lễ, Chính Đức Ki-tô,
Đấng đă một lần dâng ḿnh bằng cách đổ
máu trên bàn thờ thập giá, cũng hiện diện và
được sát tế mà không đổ máu, nên hy tế
này thực sự có giá trị đền tội." (CONCILUM
TRIDENTINUM, Sess. 22a. Doctrina de ss. Missac sacrificio, c.2: DS 1743)
1368 (618, 2031 1109)
Thánh lễ cũng là hy tế của Hội Thánh. Là
Thân Thể của Đức Ki-tô, Hội Thánh tham dự vào
lễ tế của Đức Ki-tô là Đầu. Cùng với
Người, Hội Thánh cũng được dâng
hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Hội Thánh hiệp
nhất với Đức Ki-tô để chuyển cầu cho
toàn thể nhân loại. Trong thánh lễ, hy tế của
Đức Ki-tô trở thành hy tế của mọi chi thể
trong Thân Thể. Đời sống, lời ca ngợi, đau
khổ, kinh nguyện, công việc của các tín hữu
đều được kết hợp với Đức
Ki-tô và với lễ dâng toàn hiến của Người;
nhờ đó tất cả có được một giá
trị mới. Hy tế của Đức Ki-tô hiện
diện trên bàn thờ đem lại cho muôn thế hệ
Ki-tô hữu khả năng được kết hợp
với lễ dâng của Người.
Trong các hang toại đạo, các Ki-tô
hữu thường tŕnh bày Hội Thánh dưới h́nh
một phụ nữ đang cầu nguyện, hai cánh tay
mở rộng trong tư thế cầu khẩn. Như
Đức Ki-tô dang tay trên thập giá, Hội Thánh dâng ḿnh và chuyển
cầu cho toàn thể nhân loại, nhờ Người,
với Người và trong Người.
1369 (834,882 1561 1566)
Toàn thể Hội Thánh kết hiệềp với
Đức Ki-tô trong việc hiến dâng và chuyển cầu.
Được trao phó thừa tác vụ của Phê-rô trong
Hội Thánh, Đức Giáo Hoàng liên kết với mọi
cử hành thánh lễ; trong thánh lễ, ngài được
nhắc đến như là dấu chỉ và là
người phục vụ sự hiệp nhất của
Hội Thánh toàn cầu. Vị giám mục giáo phận luôn
chịu trách nhiệm về thánh lễ, dù thánh lễ do
một linh mục cử hành; ngài được nhắc
đến trong thánh lễ như thủ lănh của giáo
phận, giữa hàng linh mục và phó tế. Cộng
đoàn c̣n cầu nguyện cho các thừa tác viên đang dâng
lễ cho cộng đoàn và cùng với cộng đoàn:
"Thánh lễ chỉ được coi
là hợp pháp khi cử hành dưới sự chủ
tọa của giám mục hay người được
ngài giao trách nhiệm" ( Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-ki-a).
"Nhờ thừa tác vụ của các
linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu
được hoàn tất v́ kết hợp với hy
tế của Đức Ki-tô, Đấng Trung Gian Duy Nhất. Nhân
danh Hôềi Thánh, hy tế này nhờ tay các linh mục
được hiến dâng một cách bí tích và không
đổ máu, cho tới khi Chúa lại đến" (PO 2).
1370 (956 969) Không
phải chỉ những tín hữu c̣n tại thế, mà
cả những vị được hưởng vinh quang
trên trời cũng được kết hợp với hy
tế của Đức Ki-tô. Hội Thánh dâng lễ trong tâm
t́nh kính nhớ và "hiệp thông cùng với Đức Trinh
Nữ Ma-ri-a, Thánh Mẫu của Thiên Chúa, các tông đồ và
toàn thể các thánh". Trong thánh lễ, cùng với Đức
Ma-ri-a, Hội Thánh như đang đứng dưới
chân Thánh Giá, kết hợp với Đức Ki-tô trong việc
hiến dâng và chuyển cầu.
1371 (858,1689, 1032)
Thánh lễ cũng được dâng lên để
cầu cho các tín hữu đă qua đời, "những
người đă chết trong Đức Ki-tô và chưa
được thanh luyện trọn vẹn",
để họ được vào hưởng ánh sáng và b́nh
an của Đức Ki-tô:
"Con hăy chôn xác mẹ bất cứ
đâu, đừng lo lắng ǵ chuyện đó. Tất
cả những ǵ mẹ xin con là: dù ở đâu, con hăy
nhớ tới mẹ khi dự Tiệc Thánh" (Lời
thánh nữ Mô-ni-ca trối cho anh em thánh Âu-Tinh, Tự
Thuật 9,11,27.).
"Trong kinh Tạ Ơn, chúng ta cầu cho
các giáo hoàng và giám mục đă qua đời, nói chung,
cầu cho mọi người đă an nghỉ. Chúng ta tin
rằng các linh hồn sẽ được hưởng
nhiều ơn ích nếu chúng ta cầu cho họ khi Đức
Ki-tô, Chiên Hy Tế cực thánh cực trọng đang
hiện diện... Khi khẩn cầu cho những
người đă an giấc, dù họ c̣n là tội nhân,
chúng ta dâng lên Thiên Chúa chính Đức Ki-tô, Đấng đă
hiến ḿnh v́ tội lỗi chúng ta, để Người
giao ḥa họ và chúng ta với Thiên Chúa, Đấng yêu
thương con người" (Thánh Sy-ri-lô, giám mục
Giê-ru-sa-lem, Giáo lư thần thiêng 5,9.10.)
1372 (1140) Giáo
lư trên thúc giục chúng ta tham dự trọn vẹn hơn
vào hy tế của Đấng Cứu Chuộc khi cử hành
thánh lễ. Thánh Âu-tinh tóm tắt giáo lư này như sau:
"Toàn thể cộng đoàn
được cứu chuộc tức là cộng đoàn
dân thánh hay thành đô thiên quốc, được dâng lên
Thiên Chúa như một hy tế phổ quát nhờ vị
Thượng tế, Đấng mang thân nô lệ và tự
hiến v́ chúng ta trong cuộc khổ nạn, nhờ đó
chúng ta trở nên thân thể của vị Thủ lănh chí
tôn... Đây là hy tế của các Ki-tô hữu: "Tuy nhiều
nhưng chỉ một thân thể trong Đức Ki-tô" (Rm
12,5). Hội Thánh vẫn hiến dâng hy tế này trong bí tích
Thánh Thể. Trong bí tích này, Hội Thánh nhận biết
rằng qua của lễ tiến dâng lên, Hội Thánh
cũng dâng chính ḿnh" (Thành đô thiên quốc 10,6).
Đức Ki-tô
hiện diện nhờ quyền năng của Lời
Người và Thánh Thần
1373 (1088) "Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng đă chết, đă sống lại và
đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho
chúng ta" (Rm 8,34). Đối với Hội Thánh, Người
hiện diện dưới nhiều h́nh thức: trong
Lời Chúa; trong kinh nguyện của Hội Thánh,
"ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh
Thầy" (Mt 18,20); trong những người nghèo
khổ, đau yếu, tù đày (Mt 25,31-46); trong các bí tích do
Người thiết lập; trong hy tế thánh lễ và
nơi thừa tác viên; "nhất là Người hiện
diện thực sự dưới hai h́nh Thánh Thể" (SC
7).
1374 (1211) Cách
thức Đức Ki-tô hiện diện dưới hai h́nh Thánh
Thể là cách độc nhất vô nhị. Người
đặt bí tích Thánh Thể trên mọi bí tích để
trở nên "như sự trọn hảo của
đời sống thiêng liêng và cùng đích của mọi bí
tích" (Thánh Tô-ma Aquinô, Tổng luận Thần học
3,73,3). Trong bí tích cực thánh, "có sự hiện diện
đích thực, thực sưề và bản thể
của Ḿnh và Máu Đức Ki-tô, cùng với linh hồn và thiên
tính của Người, nghĩa là Đức Ki-tô trọn
vẹn" (x. CĐ Trentô, DS 1651). "Sự hiện diện
này được gọi là "thực sự", không có
nghĩa là Đức Ki-tô không hiện diện thực sự
trong những cách khác; nhưng đây là cách hiện diện
đầy đủ nhất v́ là sự hiện diện
bản thể, và nơi đây có Đức Ki-tô, vừa là
Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện trọn
vẹn" (MF 39).
1375 (1105) Trong
bí tích này, Đức Ki-tô hiện diện nhờ sự
biến đổi bánh và rượu thành Ḿnh và Máu
Người. Các giáo phụ khẳng định Hội
Thánh tin rằng sự biến đổi này có
được là nhờ hiệu quả của lời
Đức Ki-tô và tác động của thánh Thần. Thánh Gio-an
Kim Khẩu tuyên bố:
(1128) "Không
phải con người làm cho các lễ vật trở thành
Ḿnh và Máu Đức Ki-tô, nhưng do chính Đức Ki-tô, Đấng
đă chịu đóng đinh v́ chúng ta. Vị linh mục,
hiện thân của Đức Ki-tô, đọc lời
truyền phép, nhưng hiệu quả và ân sủng là do Thiên
Chúa. Chính lời "Này là Ḿnh Thầy" biến
đổi các lễ vật".
Thánh Am-rô-xi-ô nói về sự biến
đổi như sau:
(298) "Đây
không phải là vấn đề bản tính tự nhiên,
nhưng do lời truyền phép thánh hiến. Hiệu
lực của lời truyền phép vượt trên và
biến đổi cái tự nhiên... Lời Đức Ki-tô có
khả năng sáng tạo từ hư không, chẳng lẽ
lời đó lại không biến đổi những
sự vật đang có thành những sự khác được
sao? Biến đổi một vật th́ dễ hơn sáng
tạo ra nó" (Các mầu nhiệm 9,50,52).
1376 Công
Đồng Tren-tô tóm tắt đức tin công giáo bằng tuyên
tín: "Đức Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, đă
phán dạy: điều Người dâng lên dưới h́nh
bánh, đích thực là Thân Ḿnh Người. Hội Thánh luôn
luôn xác tín như vậy, và Thánh Công Đồng một lần
nữa tuyên bố: nhờ lời truyền phép trên bánh
rượu, trọn vẹn bản thể bánh biến thành
bản thể Ḿnh Thánh Chúa Ki-tô và trọn vẹn bản
thể rượu biến thành bản thể Máu Thánh
Người; Hội Thánh công giáo gọi việc biến
đổi một cách đúng đắn vàchính xác này là
biến thể" (DS 1642)
1377 Đức
Ki-tô hiện diện trong Thánh Thể bắt đầu
từ lúc truyền phép và kéo dài bao lâu h́nh bánh rượu c̣n
tồn tại. Trong h́nh bánh cũng như trong h́nh
rượu, Đức Ki-tô hiện diện trọn vẹn. Và
trong bất cứ phần nhỏ bé nào cũng có trọn
vẹn Ḿnh và Máu Chúa.Việc bẻ bánh không phân chia Đức
Ki-tô (CĐ Trentô: DS 1641).
1378 (1178 103,2628)
Tôn thờ Thánh Thể. Trong thánh lễ, chúng ta bày
tỏ niềm tin vào sư hiện diện thực sự
của Đức Ki-tô dưới h́nh bánh rượu, bằng
cách bái gối hay cúi đầu để tỏ ḷng tôn
thờ Chúa. "Hội Thánh công giáo luôn tôn thờ Thánh
Thể, không chỉ trong mà c̣n ngoài thánh lễ nữa,
bằng cách bảo quản cẩn thận bánh rượu
đă truyền phép, đặt Ḿnh Thánh cho các tín hữu tôn
thờ cách long trọng, rước kiệu Ḿnh Thánh" (MF
56).
1379 (1183 2691) Nhà
Tạm dùng để bảo quản Thánh Thể cách
xứng hợp, hầu có sẵn Thánh Thể cho bệnh
nhân và những người vắng mặt không dự
lễ. Để đào sâu đức tin vào sự hiện
diện thực sự của Chúa Ki-tô trong bí tích Thánh
Thể, Hội Thánh coi trọng việc thinh lặng tôn
thờ Chúa đang ngự trong Ḿnh Thánh. V́ thế, Nhà
Tạm phải đặt nơi xứng đáng nhất
trong nhà thờ, phải được thiết kế
như thế nào để nhấn mạnh và biểu
lộ sự hiện diện thực sự của Chúa
Ki-tô trong bí tích cực thánh này.
1380 (669 478) Việc
Đức Ki-tô muốn hiện diện với Hội Thánh
bằng phương cách độc đáo này có một ư
nghĩa sâu xa. Khi sắp ra đi, không c̣n hiện diện
hữu h́nh với những người thân yêu, Đức Ki-tô
muốn ban cho chúng ta sự hiện diện bí tích của
Người; khi sắp tự hiến trên thập giá
để cứu độ chúng ta, Người muốn
để lại cho chúng ta dấu chỉ tưởng
niệm t́nh yêu; với t́nh yêu này, Người đă yêu
thương ta "đến cùng" (Ga 13,1), đến
độ ban cho chúng ta cả sự sống của
Người. Trong bí tích Thánh Thể, Người hiện
diện cách mầu nhiệm giữa chúng ta như
"Đấng đă yêu mến và thí mạng v́ chúng ta" (Gl
2,20), Người hiện diện qua những dấu
chỉ biểu lộ và thông ban t́nh yêu này:
(2715) "Hội
Thánh và thế giới rất cần tôn thờ Thánh
Thể. Đức Giê-su đang chờ chúng ta trong bí tích t́nh yêu
này. Phải dành thời gian đến gặp gỡ, tôn
thờ và chiêm ngưỡng Người với tất
cả ḷng tin và ước mong đền tạ muôn lỗi
lầm thiếu sót của nhân gian. Hăy luôn tôn thờ Thánh
Thể" (Gio-an Phao-lô II, Bữa tiệc của Chúa 3).
1381 (156 215) Thánh
Tô-ma đă dạy: "Về sự hiện diện
của Ḿnh thật và Máu thật Đức Ki-tô trong bí tích này,
ta không thể nhận biết bằng giác quan, nhưng
bởi tin vào thế giá của Thiên Chúa mà thôi. Chính v́
thế, thánh Sy-ri-lô đă chú giải bản văn Luca 22,19
"Này là Ḿnh Thầy sẽ bị nộp v́ các con"
như sau: "Bạn đừng thắc mắc xem có
thật không, tốt hơn nên tin tưởng đón
nhận lời của Chúa v́ Người là Chân Lư, không bao
giờ lừa dối" (Tổng luận Thần học
3,75,1, được Đức Phao-lô VI trích dẫn MF 1:)
"Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa Đang
náu thân trong h́nh bánh rượu. Tâm hồn con thuộc
trọn về Chúa, Không mong ǵ hơn được chiêm
ngưỡng Chúa.
Giác quan không cảm được
Người, Con chỉ biết tin vào lời Người
dạy. Con tin muôn lời từ Con Thiên Chúa; Không ǵ xác
thực hơn lời Chân Lư này."
VI. BÀN TIỆC
VƯỢT QUA
1382 (950) Thánh
lễ vừa là lễ tưởng niệm hy tế
để lưu truyền muôn đời hy tế thập
giá, vừa là bàn tiệc thánh để thông hiệp Ḿnh và
Máu Chúa; hai ư nghĩa này đi đôi với nhau và không
thể tách rời. Nhưng cử hành hy tế Thánh Thể
hướng đến việc các tín hữu kết hợp
với Chúa Ki-tô nhờ rước lễ. Rước
lễ là đón nhận chính Chúa Ki-tô, Đấng đă tự
hiến v́ chúng ta.
1383 (1182) Bàn
thờ là nơi qui tụ cộng đoàn tín hữu
để cử hành biù tích Thánh Thể. Bàn thờ tŕnh bày
hai khía cạnh của cùng một mầu nhiệm: bàn
thờ hy tế và bàn tiệc của Chúa. Bàn thờ là
biểu tượng của chính Chúa Ki-tô đang hiện
diện giữa cộng đoàn tín hữu. Người
hiện diện như hy lễ dâng lên để giao ḥa
chúng ta với Thiên Chúa và như của ăn thiêng liêng nuôi
sống chúng ta. Thánh Am-rô-xi-ô dạy: "Bàn thờ của
Chúa Ki-tô là ǵ, nếu không phải là chính Thân Ḿnh
Người? Bàn thờ tượng trưng thân Ḿnh Chúa
Ki-tô và Thân Ḿnh Người được đặt trên
bàn thờ" (Các bí tích 5,7;4,7). Phụng vụ làm nổi
bật tính thống nhất giữa hy tế và hiệp
thông trong nhiều lời nguyện; trong kinh tạ ơn,
Hội Thánh Rô-ma cầu nguyện:
"Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng, chúng
con nài xin Cha sai thiên thần đem của lễ này lên bàn
thờ thiên quốc trước tôn nhan uy linh cao cả,
để khi dự tiệc Ḿnh và Máu Con Cha tại bàn
thờ này, tất cả chúng con được đầy
tràn ơn phúc bởi trời".
Hiệp Lễ:
"Tất cả các con hăy cầm lấy mà ăn"
1384 (2835) Chúa
khẩn thiết kêu mời chúng ta đón rướùc
Người trong bí tích Thánh Thể: "Thật, Tôi bảo
thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống
Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi
ḿnh" (Ga 6,53).
1385 (1457) Để
đáp lại lời mời gọi của Chúa, chúng ta phải chuẩn bị
cho giây phút cực trọng cực thánh này. Thánh Phao-lô khuyên
ta nên tra vấn lại lương tâm: "Bất cứ ai
ăn hoặc uống chén của Chúa cách bất xứng,
th́ phạm đến Ḿnh và Máu Chúa. Ai nấy phải
tự xét ḿnh, rồi hăy ăn bánh và uống chén này. Thật
vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt
được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án
phạt ḿnh" (1Cr 11,27-29). Ai biết ḿnh đang mắc
tội trọng, phải lănh nhận bí tích Giao Ḥa
trước khi đến rước lễ.
1386 Trước
bí tích cao trọng này, người tín hữu chỉ c̣n
biết khiêm tốn và thâm tín lặp lại lời viên
đại đội trưởng: "Lạy Chúa, con
chẳng đáng Chúa ngự đến cùng con, nhưng xin
Chúa chỉ phán một lời, th́ con được lành
mạnh" (Mt 8,8). Cùng một tinh thần đó, trong nghi
thức phụng vụ của thánh Gio-an Kim Khẩu, các tín
hữu cầu nguyện:
(732) "Lạy
Con Thiên Chúa, hôm nay xin cho con được hiệp thông vào
bàn tiệc huyền nhiệm của Chúa. Con không nói cho
kẻ thù điều kín nhiệm của Chúa, con cũng
không trao cho Chúa cái hôn của Giu-đa. Nhưng như tên
trộm lành, con kêu xin Chúa: Lạy Chúa, khi vào Nước Ngài
xin nhớ đến con".
1387 (2043) Để
chuẩn bị đón nhận bí tích Thánh Thể cách
xứng đáng, các tín hữu phải giữ chay theo qui
định của Hội Thánh (x. CIC khoản 919). Thái
độ bên ngoài (cử chỉ, cách ăn mặc) phải
biểu lộ ḷng tôn kính, sự trang trọng và niềm vui
của giây phút được Chúa ngự đến trong
tâm hồn.
1388 Căn cứ vào ư nghĩa của bí tích
Thánh Thể, các tín hữu rước lễ khi tham dự
thánh lễ (Trong cùng một ngày, tín hữu có thể
rước lễ hai lần, và chỉ hai lần mà thôi (x.
(MS) PONTIFICIA COMMISSIO CODICIS IURIS CANONICI AUTHENTICE INTERPRETANDO, Responsa
ad proposita dubia, 1: Ass 76 (1984), p.746). x.CIC 916), nếu hội
đủ các điều kiện cần thiết: "Nên
khuyến khích các tín hữu tham dự thánh lễ trọn
vẹn hơn, qua việc lănh nhận Ḿnh Thánh Chúa ngay trong
thánh lễ", sau khi linh mục rước lễ (SC 55).
1389 (2042 2837) Hội
Thánh buộc các tín hữu phải tham dự thánh lễ vào
các ngày Chúa nhật và lễ trọng (x. OE 15) rước
lễ mỗi năm ít là một lần vào mùa Phục Sinh,
trừ khi có lư do chính đáng, có thể chu toàn vào mùa khác
trong năm (x. CIC, khoản 920), trước đó phải
chuẩn bị tâm hồn bằng bí tích Giao Ḥa. Hội Thánh
hết sức khuyến khích các tín hữu rước
lễ vào các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng, hay
thường xuyên hơn nữa, rước lễ hằng
ngày.
1390 Chúa Ki-tô
hiện diện dưới mỗi h́nh Bánh h́nh Rượu,
v́ thế rước lễ dưới h́nh bánh mà thôi
vẫn đem lại cho ta trọn vẹn hiệu quả
ân sủng của bí tích Thánh Thể. V́ các lư do mục
vụ, Nghi lễ La-tinh qui định cách rước
lễ dưới h́nh Bánh thôi là h́nh thức thông dụng
nhất. "Xét về phương diện dấu chỉ,
việc rước lễ dưới hai h́nh là h́nh thức
đầy đủ hơn. Quả thật, dưới
h́nh thức này, dấu chỉ của bữa tiệc Thánh
thể được sáng tỏ hơn" (x. IGMR 240). H́nh
thức này rất thông dụng trong các nghi lễ Đông
Phương.
Hiệu quả
của việc rước lễ
1391 (460 521) Việc
rước lễ tăng triển sự hiệp thông
của chúng ta với Chúa Ki-tô. Hiệu quả chính yếu
của việc rước lễ là được kết
hiệp thâm sâu với Chúa Ki-tô. Chúa đă phán: "Ai ăn
thịt và uống máu Tôi, th́ luôn kết hiệp với Tôi,
và Tôi luôn kết hiệp với người ấy".
Đời sống trong Chúa Ki-tô có nền tảng nơi bí tích
Thánh Thể: "Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống
đă sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, th́
kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được
sống như vậy" (Ga 6,57).
Trong tiệc thánh của Chúa, khi lănh
nhận Ḿnh của Chúa Con, các tín hữu loan báo cho nhau Tin
Mừng: Thiên Chúa đă ban cho họ những hồng ân
đầu tiên của sự sống, như xưa kia thiên
thần báo cho bà Ma-ri-a thành Mác-đa-la: "Chúa Ki-tô đă
Phục Sinh". Ngày nay, Thiên Chúa cũng ban sự sống
và sự phục sinh cho những ai rước lấy Chúa
Ki-tô (x. Fanqith, Office syriaque d' Antioche, quyển 1, Hiệp
lễ,237 a-b).
1392 (1212 1524) Như
của ăn vật chất mang lại sự sống cho
thân xác thế nào, việc rước lễ cũng đem
lại sự sống kỳ diệu cho đời sống
thiêng liêng như vậy. Khi các tín hữu rước
lấy Ḿnh của Đấng Phục Sinh, "Ḿnh đă
được sống động nhờ Thánh Thần và
làm cho người ta được sống" (x.
1393 (613) Việc
rước lễ giúp chúng ta xa lánh tội lỗi. Chúng ta
rước lấy Ḿnh Chúa Ki-tô, "đă phó nộp v́ chúng
ta", và Máu "đă đổ ra cho mọi người
được tha tội". V́ thế, bí tích Thánh Thể
không thể kết hiệp chúng ta với Chúa Ki-tô, nếu
không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đă phạm và giúp
chúng ta xa lánh tội lỗi.
"Mỗi lần chúng ta đón nhận
Người, chúng ta loan truyền Chúa đă chịu
chết". Chúng ta loan truyền Chúa đă chiụ
chết, th́ cũng loan truyền ơn tha tội. Mỗi
lần Máu Người đổ ra là để tha tội,
tôi phải rước lấy để tội tôi
được tha. Tôi luôn phạm tội, nên tôi cần
một phương dược cứu độ" (Thánh
Am-rô-xi-ô, Các bí tích 4,28).
1394 (1863 1436) Như
của ăn vật chất phục hồi sức lực
đă tiêu hao, bí tích Thánh Thể củng cố đức
mến mà trong đời sống hằng ngày có xu
hướng suy yếu đi. Đức mến sống
động này có thể xóa đi các tội nhẹ (x. CĐ
Trentô: DS 1638). Khi tự hiến cho chúng ta, Đức Ki-tô làm cho
t́nh yêu chúng ta sống dậy, ban sức mạnh để
chúng ta tự giải thoát khỏi những ràng buộc
bất chính với thụ tạo và gắn bó chúng ta
chặt chẽ với Người:
"Lạy Cha, v́ yêu thương, Đức
Ki-tô đă chết cho chúng con. Mỗi khi tưởng
niệm cuộc tử nạn của Người trong thánh
lễ, chúng con xin Cha cử Thánh Thần đến ban t́nh
yêu cho chúng con. Chúng con khiêm tốn khẩn nguyện, nhờ
t́nh yêu mà Đức Ki-tô đă chết v́ chúng con, cho chúng con
được lănh nhận ơn Thánh Thần, để có
thể xem thế gian như đă bị đóng đinh cho
chúng con và chúng con cũng bị đóng đinh cho thế
gian... Lạy Cha, v́ t́nh yêu được lănh nhận, xin
cho chúng con chết đối với tội và chỉ
sống cho Cha" (Thánh Fulgence de Ruspe, Fab.28, 16-19.)
1395 (1855 446) Nhờ
t́nh yêu mà bí tích Thánh Thể khơi dậy trong tâm hồn, chúng
ta được ǵn giữ khỏi phạm tội
trọng. Càng tham dự vào sự sống Chúa Ki-tô, chúng ta
càng sống mật thiết với Người; nhờ
đó giảm bớt nguy cơ phạm tội trọng xa
ĺa Chúa. Nhưng bí tích Thánh Thể không được
thiết lập để tha các tội trọng, đó là
chức năng của bí tích Giao Ḥa. Bí tích Thánh Thể dành
cho những người hiệp thông trọn vẹn
với Hội Thánh.
1396 (1118 267 790)
Sự duy nhất của
Nhiệm Thể: Bí tích Thánh Thể làm nên Hội Thánh. Ai
hiệp lễ, đều được liên kết
chặt chẽ với Chúa Ki-tô. Nhờ đó, Chúa Ki-tô
kết hiệp họ với các tín hữu khác thành một
một thân thể duy nhất là Hội Thánh. Bí tích Thánh
Tẩy tháp nhập ta vào Hội Thánh, bí tích Thánh Thể canh
tân, củng cố và kiện toàn sự tháp nhập này. Trong
bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được mời gọi
để tạo thành một thân thể duy nhất (x. 1Cr
12,13). Bí tích Thánh Thể thực hiện ơn gọi này:
"Khi ta nâng chén tạ ơn mà cảm tạ Thiên Chúa, há
chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư?
Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự
phần vào Thân Thể Người sao? Bởi v́ chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một
Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng
chỉ là một thân thể" (1Cr 10,16-17):
(1064) "Nếu
anh em là thân thể và chi thể của Chúa Ki-tô, th́ chính anh
em là bí tích đang đặt trên bàn thờ Chúa; anh em lănh
nhận bí tích là chính anh em. Khi lănh nhận anh em thưa
"A-MEN" (vâng, đúng như thế!) và anh em xác
quyết như thế. Anh em nghe: "Ḿnh Thánh Chúa Ki-tô"
và trả lời: "A-MEN". Hăy thực sự trở
thành chi thể của Chúa Ki-tô, để cho lời thưa
A-MEN của anh em là chân thực" (Thánh Âu-Tinh, bài giảng
272).
1397 (2449) Bí
tích Thánh Thể đ̣i buộc chúng phải chăm sóc
người nghèo. Để thực sự lănh nhận Ḿnh và
Máu Đức Ki-tô đă phó nộp v́ chúng ta, chúng ta phải
nhận ra Người trong những người nghèo nàn
nhất, những anh em của Người (x. Mt 25,40).
"Anh đă rước Máu Thánh Chúa,
thế mà anh đă không nhận ra người anh em của
ḿnh. Anh đă hạ giá Bàn Tiệc Thánh, khi những
người được Thiên Chúa coi là xứng đáng
tham dự Tiệc Thánh, lại bị anh coi là không xứng
đáng chia sẻ cơm áo với anh. Thiên Chúa đă
giải thoát anh khỏi mọi tội lỗi và mời anh
vào bàn tiệc, thế mà anh đă không tỏ ra nhân từ
hơn chút nào" (Thánh Gio-an Kim Khẩu, bài giảng về
1Cr 27,4).
1398 (817) Bí
tích Thánh Thể và sự hiệp nhất cácKi-tô hữu.
Trước mầu nhiệm cao cả này, thánh Âu-tinh đă
thốt lên: "Ôi bí tích t́nh yêu! Dấu chỉ hiệp
nhất! Mối dây bác ái!" (x. Tin Mừng Gio-an 26,6,13; x.
SC 47) Càng đau khổ v́ sự chia rẽ trong Hội Thánh
vốn làm cho các Ki-tô hữu không thể tham dự Tiệc
Thánh chung với nhau, chúng ta càng thấy Lời Chúa cầu
nguyện cho các Ki-tô hữu được hiệp nhất
trở nên khẩn thiết hơn.
1399 (838) Các
Giáo Hội Đông Phương, dù không hoàn toàn hiệp thông
với Giáo Hội Công Giáo, vẫn cử hành bí tích Thánh
Thể một cách sốt sắng. V́ "các Giáo Hội
ấy, mặc dù ly khai, vẫn có các bí tích đích thực
nhờ sự kế nhiệm các tông đồ, nhất là
chức linh mục và bí tích Thánh Thể, nên vẫn liên
kết chặt chẽ với chúng ta. Do đó, một vài
h́nh thức hiệp thông trong sự thánh (nghĩa là trong bí
tích Thánh Thể), trong những trường hợp
thuận tiện và với sự chấp thuận của
giáo quyền, chẳng những là có thể thực hiện
mà c̣n đáng khuyến khích nữa" (x. UR 15; x. CIC,
khoản 844, triệt 3).
1400 (1536) Các
cộng đoàn phát sinh từ cuộc Cải Cách, đă ly
khai khỏi Giáo Hội Công giáo "không c̣n giữ
được bản chất đích thực và nguyên
vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể, chủ yếu
là v́ thiếu bí tích Truyền Chức Thánh" (x.
1401 (1483 1385) Theo
phán đoán của giám mục giáo phận, khi có nhu cầu
quan trọng, các thừa tác viên Công giáo được phép
ban các bí tích Giao Ḥa, Thánh Thể và Xức Dầu bệnh
nhân cách hợp pháp cho những người Ki-tô hữu không
hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội Công giáo, khi họ xin
với điều kiện là họ tuyên xưng Đức Tin
Công Giáo về các bí tích ấy và họ đă chuẩn
bị hợp lệ (x. CIC khoản 384, triệt 4).
1402 (1323 1130) Trong
một kinh nguyện cổ, Hội Thánh ca tụng mầu
nhiệm Thánh Thể như sau: "Ôi Tiệc Thánh, Đức
Ki-tô đă trở thành lương thực cho chúng ta;
tiệc tưởng niệm cuộc khổ nạn của
Người, ban cho ta hồng ân viên măn và bảo chứng
cho vinh quang mai sau". V́ bí tích Thánh Thể là lễ
tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa và
"khi dự tiệc Ḿnh và Máu Thánh Con Cha tại bàn thờ
này... tất cả chúng con được tràn đầy
ơn phúc bởi trời" (x. MR, Kinh Tạ Ơn Rô-ma 96:
"Chúng con khẩn khoản nài xinChúa"), nên bí tích Thánh
Thể cũng c̣n là tiền dự vào vinh quang thiên quốc.
1403 (672) Trong
bữa Tiệc ly, Chúa hướng các môn đệ
đến tiệc Vượt Qua viên măntrong Nước
Trời: "Thầy bảo cho anh em biết: từ nay,
Thầy sẽ không c̣n uống rượu nho này nữa, cho
đến ngày được cùng anh em uống thứ
rượu mới trong Nước của Cha Thầy"
(x. Mt 26,29; x. Lc 22,18; Mc 14,25). Mỗi lần cử hành bí tích
Thánh Thể, Hội Thánh nhớ lại lời hứa này và
hướng về Đấng đang đến. Trong kinh
nguyện, Hội Thánh kêu cầu Người mau đến:
"Marana tha" (1Cr 16,22), "Lạy Chúa Giê-su, xin hăy
đến" (Kh 22,20), "Ước ǵ trần gian này
mau qua đi và ân sủng Ngài đến" (x. Didaché 10,6).
1404 (1041 1028) Hội Thánh biết rằng,
trong bí tích Thánh Thể, Chúa đă đến và đang
hiện diện giữa chúng ta; nhưng Người
vẫn c̣n ẩn ḿnh. V́ thế, khi cử hành bí tích Thánh
Thể, chúng ta "đợi chờ ngày hồng phúc, ngày
Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta ngự
đến" (x. Phần nguyện sau kinh Lạy Cha; x. Tt
22,13), và chúng ta khẩn nguyện: " Xin thương
nhận tất cả vào Nước Cha, nơi chúng con hy
vọng sẽ được cùng nhau vui hưởng vinh
quang Cha muôn đời, khi Cha lau sạch nước mắt
chúng con. Bấy giờ, chúng con sẽ được chiêm
ngưỡng Cha tường tận, nên muôn đời
sẽ được giống như Cha là Thiên Chúa chúng con,
và sẽ dâng lời ca ngợi Cha khôn cùng, nhờ Đức
Ki-tô Chúa chúng con" (x. MR, kinh nguyện Thánh Thể 3, 116:
cầu nguyện cho người quá cố).
1405 (1042 1000) Bí
tích Thánh Thể là bảo chứng chắc chắn và là
dấu chỉ tỏ tường về hy vọng một
Trời Mới Đất Mới, nơi đó công lư ngự
trị (x. 2Pr 3,13). Mỗi khi cử hành mầu nhiệm này,
"công tŕnh cứu độ chúng ta sẽ được
thực hiện" (x. LG 3) và "chúng ta chia sẻ cùng
một tấm bánh là phương dược trường
sinh bất tử và của ăn đem lại sự
sống muôn đời trong Đức Ki-tô" (Thánh I-nha-xi-ô
An-ti-ô-ki-a, thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô 20,2.)
TÓM LƯỢC
1406 Chúa Giê-su
nói: " Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống.
Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn
đời...Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, th́
được sống đời
đời...người ấy luôn kết hợp với
Tôi và Tôi luôn kết hợp với người ấy" (Ga
6,51.54.56).
1407 Bí tích Thánh
Thể là trung tâm và cao điểm của đời
sống Hội Thánh. Trong bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô liên
kết Hội Thánh và mọi chi thể của Người
vào hy lễ chúc tụng và tạ ơn, hy lễ mà
Người đă dâng lên Cha một lần dứt khoát trên
thập giá. Qua hy lễ này, Người thông ban tràn
đầy ân sủng cứu độ trên Thân Thể
của ḿnh là Hội Thánh.
1408 Cử hành
bí tích Thánh Thể bao gồm: công bố Lời Chúa; tạ
ơn Thiên Chúa Cha v́ mọi ơn lành, nhất là
Người đă ban Con Chí Ái cho thế gian; truyền phép
trên bánh rượu và chia sẻ bàn tiệc thánh bằng
việc lănh nhận Ḿnh và Máu Thánh Chúa. Các yếu tố này
kết thành một tế tự duy nhất.
1409 Thánh
lễ là lễ tưởng niệm cuộc Vượt Qua
của Chúa Ki-tô, nghĩa là công tŕnh cứu độ
được thực hiện qua đời sống,
cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.
Công tŕnh này được hiện tại hóa trong cử
hành phụng vụ.
1410 Trong hy
tế Thánh Thể, Đức Ki-tô vừa là chủ tế
vừa là lễ vật. Người là vị thượng
tế đời đời của Giao Ước Mới,
dâng lễ vật qua thừa tác vụ của linh mục.
Lễ vật cũng chính là Người đang thực
sự hiện diện dưới h́nh bánh rượu.
1411 Chỉ
những linh mục đă lănh nhận chức thánh thành
sự mới có quyền chủ tọa thánh lễ và
truyền phép để bánh rượu trở thành Ḿnh Máu
Chúa.
1412 Dấu
chỉ chính yếu của bí tích Thánh Thể là bánh miến
và rượu nho. Trên bánh rượu này, chủ tế
đọc lời cầu xin Thánh Thần và lời
truyền phép, lời chính Chúa Giê-su đă nói tại bàn
tiệc ly: " Này là Ḿnh Thầy, sẽ bị nộp v́
các con... Này là Chén Máu Thầy..."
1413 Nhờ
lời truyền phép, bánh và rượu biến thể,
trở thành Ḿnh và Máu Chúa Ki-tô. Dưới h́nh bánh
rượu đă được truyền phép, chính Chúa
Ki-tô hằng sống và vinh quang hiện diện cách đích
thực, thực sự và bản thể, với trọn
thân xác, máu thịt, linh hồn và thiên tính ( x. CĐ Trentô: DS
1640,1651).
1414 Bí tích Thánh
Thể được dâng lên như hy tế đền
tội cho người sống cũng như kẻ
chết và xin Thiên Chúa ban ơn lành hồn xác.
1415 Ai muốn
đón nhận Chúa Ki-tô qua việc rước lễ,
phải sống trong t́nh trạng ân sủng. Ai biết ḿnh
đang mắc tội trọng, phải lănh nhận bí tích
Giao Ḥa trước khi đến rước lễ.
1416 Khi
rước Ḿnh Máu Thánh, chúng ta được gắn bó
chặt chẽ hơn với Đức Ki-tô, được
tha thứ các tội nhẹ và bảo vệ khỏi những
tội trọng. Nhờ rước lễ, t́nh yêu của
chúng ta với Đức Ki-tô được mật thiết
hơn, nên sự hiệp nhất trong Hội Thánh là
nhiệm thể Người, được củng
cố.
1417 Hội
Thánh khuyên tín hữu nên rước lễ khi tham dự thánh
lễ. Hội Thánh buộc tín hữu rước lễ
mỗi năm ít là một lần.
1418 V́ Chúa Ki-tô
hiện diện thực sự, chúng ta phải tôn thờ
Thánh Thể. "Khi viếng Thánh Thể, chúng ta bày tỏ
ḷng biết ơn, dấu chỉ t́nh yêu và bổn phận
thờ lạy Đức Ki-tô, Chúa chúng ta" (MF).
1419 Khi ĺa
bỏ thế gian mà về cùng Cha, Chúa Ki-tô để
lại bí tích Thánh Thể làm bảo chứng chúng ta sẽ
được chung hưởng vinh quang với
Người. Việc tham dự thánh lễ uốn ḷng chúng
ta nên giống trái tim Chúa, nâng đỡ sức lực chúng
ta trên đường lữ hành tại thế, làm cho chúng
ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu và ngay từ bây
giờ liên kết chúng ta với Hội Thánh trên trời,
với Đức Thánh Trinh Nữ Ma-ri-a và chư thánh.