1420 Chúng ta
nhận được sự sống mới của
Ðức Ki-tô nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô giáo. Nhưng sự
sống này được chứa "trong những bình
sành" (2Cr 4,7) và đang tiềm tàng
với Ðức Ki-tô trong Thiên Chúa" (Cl 3,3). Chúng ta hiện
sống trong "ngôi nhà dưới đất" (2Cr 5,1), phải chịu khổ đau, bệnh
tật và phải chết. Ðời sống
mới, tức là đời sống của con cái Thiên Chúa,
có thể bị tội lỗi làm suy giảm hoặc
hủy diệt.
1421
Chúa
Giê-su Ki-tô là thầy thuốc chữa lành linh hồn và
thể xác chúng ta. Người đã từng tha tội và
phục hồi sức khoẻ thể xác cho người
bại liệt (x. Mc 2,1-12). Người muốn Hội Thánh, nhờ quyền
năng Thánh Thần, tiếp tục công cuộc chữa
lành và cứu độ. Các chi thể
của Hội Thánh rất cần điều này. Ðó là
mục đích của hai bí tích chữa lành :
bí tích Thống Hối và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.
1422 (980) "Những ai đến
lãnh nhận bí tích Thống Hối đều
được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc
phạm đến Người. Ðồng
thời, họ được giao hòa với Hội Thánh
đã bị tôẽi lỗi của họ làm tổn
thương. Nhưng Hội Thánh
hằng nỗ lực lấy đức mến,
gương lành và kinh nguyện, để hoán cải
họ" (x. LG 11).
I. TÊN GỌI
CỦA BÍ TÍCH NÀY
1423 (1989) Bí tích này được
gọi là bí tích Hoán Cải : Tội lỗi đã làm con
người lìa xa Thiên Chúa, nhưng bí tích này thực
hiện lời Chúa Giê-su kêu gọi tội nhân hoán cải
(x. Mc 1,15) để trở về với Chúa Cha (x. Lc 15,18).
(1440) Bí tích này
được gọi là bí tích Thống Hối, vì xác
định một tiến trình cho tội nhân hoán cải,
ăn năn và đền tội, cả về phương
diện cá nhân lẫn phương diện Hội Thánh.
1424 (1456) Bí tích này được
gọi là bí tích Thú Tội : Việc thú nhận xưng
tội với linh mục là một yếu tố thiết
yếu của bí tích này. Theo một nghĩa sâu xa hơn, bí
tích này cũng là một việc "tuyên xưng",
tức là nhìn nhận và ca ngợi Thiên Chúa thánh thiện và
giàu lòng thương xót đối với tội nhân.
1449
Bí
tích này được gọi là bí tích Tha Tội, vì nhờ
lời xá giải của linh mục, Thiên Chúa ban cho tội
nhân ơn "tha thứ và bình an" (x. OP, công thức
giải tội).
1442
Bí
tích này được gọi là bí tích Giao Hòa, vì ban cho
tội nhân ơn giao hòa của Thiên Chúa "anh em hãy làm hòa
với Thiên Chúa" (2Cr 5,20). Ai cảm nhận
được tình yêu thương xót của Thiên Chúa,
sẽ sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi : "Hãy đi làm hòa với anh em
ngươi đã" (Mt 5,24).
II. TẠI SAO
CẦN BÍ TÍCH GIAO HÒA SAU KHI ÐÃ LÃNH NHẬN BÍ TÍCH THÁNH TẨY?
1425 (1263 2838) "Anh em đã
được tẩy rửa, được thánh hóa,
được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và
nhờ Thánh Thần Thiên Chúa" (1Cr 6,11). Phải ý thức
hồng ân Thiên Chúa ban trong các bí tích khai tâm Ki-tô giáo lớn
lao thế nào, mới hiểu được tội
lỗi không có chỗ đứng nơi người đã
"mặc lấy Chúa Ki-tô" (Gl 3,27). Nhưng thánh Gio-an
tông đồ đã nói : "Nếu chúng
ta nói là chúng ta không có tội thì chúng ta tự lừa dối
mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1Ga 1,8).
Chính Chúa Giê-su cũng dạy chúng ta cầu nguyện
: "Xin tha tội chúng con" (Lc 11,4). Người
liên kết việc chúng ta tha thứ cho nhau với việc
Thiên Chúa tha tội cho chúng ta.
1426 (405,978, 1264) Khi hoán cải trở về
với Ðức Ki-tô, tái sinh trong bí tích Thánh Tẩy, nhận
lãnh hồàng ân Thánh Thần, rước Mình và Máu Chúa Ki-tô
làm của ăn của uống, chúng ta trở nên "tinh
tuyền thánh thiện trước mặt Người"
(Ep 1,4), như chính Hội Thánh, Hiền Thê của
Người, cũng "thánh thiện và tinh tuyền
trước mặt Người" (Ep 5,27). Tuy nhiên,
đời sống mới chúng ta nhận được
trong các bí tích khai tâm không tiêu hủy sự mỏng dòn và
yếu đuối của bản tính nhân loại, cũng
như sự hướng chiều theo
tội lỗi mà truyền thống vẫn gọi là
vật dục. Thiên Chúa để cho xu hướng này
tồn tại nơi người chịu bí tích Thánh
Tẩy để với ơn Chúa giúp họ có cơ
hội chiến đấu trong đời sống Ki-tô
hữu ( x. DS 1515). Mục đích
cuộc chiến đấu này là hoán cải để
đạt tới sự thánh thiện và sự sống
vĩnh cửu mà Chúa hằng mời gọi (
x. DS 1545; LG 40.).
III. SỰ HOÁN
CẢI CỦA NHỮNG NGƯỜI ÐÃ ÐƯỢC THANH
TẨY
1427 (541) Ðức Giê-su mời gọi
chúng ta hoán cải. Lời mời gọi này là một
phần cốt yếu của việc loan báo Nước Trời : "Thời kỳ đã mãn, và
Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em
phải sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc1,15).
Khi rao giảng, Hội Thánh chuyển lời mời gọi
ấy, trước hết, đến những
người chưa biết Ðức Ki-tô và Tin Mừng. Vì
thế, việc hoán cải đầu tiên và cơ bản
là bí tích Thánh Tẩy. Chính nhờ tin vào Tin Mừng và nhờ
bí tích Thánh Tẩy (x. Cv 2,38), chúng ta
từ bỏ sự dữ và được ơn cứu
độ, nghĩa là được tha thứ mọi
tội lỗi và lãnh nhận hồng ân sự sống
mới.
1428 (1036 853 996) Lời kêu gọi hoán cải
của Ðức Ki-tô vẫn tiếp tục vang lên trong
đời sống người tín hữu. Cuộc hoán cải
thứ nhì này là một nhiệm vụ liên tục của
toàn thể Hội Thánh; vì "mang trong lòng mình những
tội nhân" và "vừa thánh thiện vừa
được kêu gọi thanh luyện, Hội Thánh nỗ
lực không ngừng để thống hối và canh
tân" (x. LG 8). Ra sức hoán cải không
chỉ là công việc phàm nhân. Do ân sủng lôi kéo và thúc
đẩy (x. Ga 6,44; 12,32), chúng ta sám
hối với "tấm lòng tan nát" (Tv 50,19),
để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa giàu lòng
thương xót, Ðấng đã yêu thương chúng ta
trước (x. 1Ga 4,10).
1429
Có
thể lấy cuộc hoán cải của thánh Phê-rô, sau khi
chối Thầy ba lần, làm bằng chứng. Chúa Giê-su
nhìn thánh Phê-rô bằng ánh mắt vô cùng thương xót, làm
cho Phê-rô khóc lóc vì hối hận (Lc 22,61) và ba lần
khẳng định yêu mến Chúa, sau Phục sinh (x. Ga
21,15-17). Cuộc hoán cải thứ nhì cũng
mang chiều kích cộng đoàn. Ta thấy rõ
điều này khi Chúa kêu gọi cả một giáo đoàn : "Hãy hối cải" (Kh 2,5.16).
Thánh Am-rô-xi-ô nói về hai cuộc hoán cải : trong Hội Thánh, "có nước
và nước mắt, nước trong bí tích Thánh Tẩy và
nước mắt trong bí tích Thống Hối" (Thư
gửi giáo đoàn Ê-phê-sô 41,12).
IV. THỐNG
HỐI NỘI TÂM
1430 (1098) Như các ngôn sứ thuở
trước, lời Chúa Giê-su kêu gọi hoán cải và
thống hối trước hết không nhắm
đến những việc bên ngoài, "mặc áo vải
thô, rắc tro trên đầu", giữ chay và khổ chế,
nhưng đến hoán cải trong lòng, thống hối
nội tâm. Nếu không có thống hối
nội tâm, các việc làm bên ngoài sẽ vô hiệu và dối
trá. Tuy nhiên, việc hoán cải nội tâm thúc
đẩy người ta diễn tả thái độ
ấy băèng những dấu hiệu khả giác,
những cử chỉ và những việc làm của
người thống hối ( x. Ge
2,12-13; Is 1,16-17; Mt 6,1-6. 16-18).
1431 (1451 368) Thống
hối nội tâm là chuyển hướng triệt
để toàn bộ đời sống, hết lòng quay
lại, trở về với Thiên Chúa, đoạn tuyệt
với tội lỗi, từ bỏ sự dữ, ghê
tởm những hành động xấu xa đã làm. Ðồng thời thống hối nội tâm cũng
bao hàm ước muốn và quyết tâm thay đổi
đời sống, với hy vọng vào lòng thương
xót của Thiên Chúa và tin tưởng vào sự trợ giúp
của ân sủng. Cuôâềc hoán cải trong lòng này
đi đôi với sự đau buồn có sức cứu
độ mà các giáo phụ gọi là animi cruciatus (tâm trí
đau đớn) và compunctio cordis (tâm hồn hối
hận) ( x. CÐ Trentô : DS 1676-1678; 1705; Giáo
lý Rô-ma 2,5,4.).
1432 (1989) Lòng người nặng
nề và cứng cỏi, nên phải được Thiên
Chúa ban cho một trái tim mới (Ed 36,26-27). Hoán cải
trước hết là công việc của ân sủng, Thiên
Chúa làm cho lòng chúng ta quay về với Người
: "Lạy Chúa, xin đưa chúng con về và chúng
con sẽ trở lại với Chúa" (Ac 5,21). Thiên Chúa ban
cho chúng ta sức mạnh để bắt đầu
lại. Chính khi khám phá ra tình yêu cao cả
của Thiên Chúa mà lòng chúng ta bị chấn động vì
thấy tội lỗi khủng khiếp và nặng nề,
nên không dám phạm tội vì sợ xúc phạm đến
Chúa và bị tách lìa khỏi Người. Lòng con
người hoán cải khi hướng nhìn lên Ðấng
bị tội lỗi chúng ta đâm thâu ( x.
Ga 19,37; Dcr 12,10).
Hãy chiêm ngắm máu Ðức Ki-tô và nhận
biết rằng máu ấy quý giá biết bao đối
với Chúa Cha, vì khi đổ ra để chuộc tội
chúng ta, máu ấy ban cho toàn thế giới ơn hoán cải
( Thánh Cơ-lê-măng-tê thành Rô-ma, thư
gửi giáo đoàn Cô-rin-tô 7,4).
1433 (729 692,1848) Từ khi Ðức Ki-tô phục sinh,
chính Chúa Thánh Thần "tố cáo thế gian về
vấn đề tội lỗi" (Ga 16,8-9), Người
cho thấy thế gian đã không tin vào Ðấng Chúa Cha
cử đến. Cũng chính Chúa Thánh Thần, Ðấng
tố cáo tội lỗi, lại là Ðấng Bảo Trợ ( x.Ga 15,26): Người ban cho lòng con
người ân sủng để họ ăn năn và hoán
cải ( x. Cv 2,36-38; x. Gio-an Phao-lô II, DV 27-48.).
V. NHỮNG HÌNH
THỨC THỐNG HỐI TRONG ÐỜI SỐNG ki-tô HỮU
1434 (1969) Thống hối nội tâm
của người Ki-tô hữu có thể được
diễn tả bằng nhiều cách. Thánh Kinh và các giáo
phụ nhấn mạnh nhất ba hình thức
: giữ chay, cầu nguyện và bố thí ( x.Tb 12,8; Mt
6,1-18). Ðây là những cách diễn tả sự hoán cải
đối với bản thân, đối với Thiên Chúa và
đối với tha nhân. Bên cạnh sự hoán cải
triệt để thực hiện qua bí tích Thánh Tẩy
hoặc tử đạo, các ngài còn kể đến
những phương thế để xin Chúa tha thứ
tội lỗi : cố gắng giao hoà
với anh em, nước mắt thống hối, lo
lắng đến phần rỗi tha nhân (x. Gc 5,20),
khẩn cầu các thánh và thực hành bác ái -"vì tình yêu che
phủ muôn vàn tội lỗi" (1 Pr 4,8).
1435 Trong
đời sống hằng ngày, việc hoán cải
được thể hiện qua những hành vi giao hoà, lo
lắng cho người nghèo, thực thi cũng như
bảo vệ công lý và công bình (x. Am 5,24;
Is 1,17) bằng việc thú tội, sửa lỗi cho nhau, xét
lại cách sống, xét mình, linh hướng, chấp
nhận đau khổ, kiên trì khi bị bách hại vì lẽ
công chính. Vác thánh giá mỗi ngày và bước theo Chúa Giê-su là
con đường thống hối chắc chắn
nhất (x. Lc 9,23).
1436 (1394) Bí tích Thánh Thể và bí tích
Thống Hối. Chúng ta tìm được
nguồn mạch và của nuôi dưỡng cho lòng hoán
cải và thống hối hằng ngày nơi bí tích Thánh
Thể, vì đây là hy tế của Ðức Ki-tô, Ðấng
giao hoà chúng ta với Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi
dưỡng và tăng sức cho những người
sống bằng sự sống của Ðức Ki-tô : Bí tích này là "phương thuốc
cứu chúng ta khỏi tội lỗi hằng ngày và gìn
giữ chúng ta khỏi tội trọng" (x. CÐ Trentô: DS
1638).
1437 Việc
đọc Thánh Kinh, đọc kinh Thần Vụ và kinh
Lạy Cha, mỗi hành vi phượng tự và đạo
đức chân thành đều làm sống lại trong chúng
ta tinh thần hoán cải và thống hối, đồng
thời góp phần tha thứ tội lỗi chúng ta.
1438
1439 (545) Ðức
Giê-su đã diễn tả tiến trình hoán cải và
thống hối cách tuyệt vời qua dụ ngôn
"Người cha nhân hậu" (Lc 15,11-24).
Bị ảo ảnh tự do mê hoặc, người con
bỏ nhà Cha ra đi. Sau khi tiêu tán hết tài
sản, nó rơi vào tình trạng khốn quẫn. Nó
hết sức nhục nhã vì phải đi chăn heo, và
tệ hơn nữa, ước muốn ăn
cám heo mà không được. Nó nghĩ
lại, hối hận và quyết định thú nhận có
lỗi với cha. Nó lên đường
trở về. Người cha bao dung và vui mừng
đón con. Ðó là những nét tiêu biểu của
tiến trình hoán cải. Áo đẹp,
nhẫn và tiệc mừng là những biểu hiệu
của đời sống mới, trong sạch. xứng đáng, tràn ngập niềm vui:
đó là cuộc sống của người trở về
với Thiên Chúa và với Hội Thánh là gia đình mình.
Chỉ trái tim Ðức Ki-tô, Ðấng
thấu suốt tình yêu sâu thẳm của Chúa Cha, mới
mặc khải được cho chúng ta đại
dương từ ái của Thiên Chúa một cách đơn
sơ và tươi đẹp đến thế.
VI. BÍ TÍCH
THỐNG HỐI VÀ GIAO HOÀ
1440 (1850) Tội trước hết
là xúc phạm đến Thiên Chúa, là đoạn tuyệt
với Người, đồng thời cũng làm tổn
thương sự hiệp thông với Hội Thánh. Vì thế, khi hoán cải chúng ta được
Thiên Chúa tha thứ đồng thời được giao
hòa với Hội Thánh. Ðây chính là
điều được Phụng vụ bí tích thống
hối và giao hòa diễn tả và thực hiện (x. LG 11).
Chỉ một
mình Thiên Chúa có quyền tha tội
1441 (270,431 589)
Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội cho con
người (x. Mc 2,7). Là Con Thiên Chúa,
Ðức Giê-su tự khẳng định :
"Con Người có quyền tha tội dưới
đất" (Mc 2,10), và Người thực thi quyền
ấy : "Tội con đã được tha" (Mc 2,5;
Lc 7,48). Hơn nữa, nhân danh quyền Thiên Chúa,
Người ban quyền tha tội cho một số
người (x.Ga 20,21-23) để
họ thực thi nhân danh Người.
1442 (983) Ðức
Ki-tô đã muốn rằng trong kinh nguyện, đời
sống và hoạt động, Hội Thánh trọn vẹn
phải là dấu chỉ và khí cụ ơn tha thứ và giao
hòa Người đã mua được bằng giá máu
Người. Tuy nhiên, Người ủy thác
quyền giải tội cho thừa tác vụ tông
đồ. Người tông đồ được
uỷ thác "thừa tác vụ giao hòa" (2 Cr 5,18), được sai đi "nhân danh
Ðức Ki-tô"; và qua người tông đồ, "chính
Thiên Chúa" khuyên bảo và nài nỉ : "Hãy giao hòa
với Thiên Chúa" (2 Cr 5,20).
Giao Hòa với
Hội Thánh
1443 (545) Trong đời sống công
khai, chẳng những Chúa Giê-su tha tội, Người còn
cho thấy hiệu quả của việc tha tội :
Người đã đưa những người được
tha tội trở lại cộng đồng dân Chúa vì
tội đã tách lìa hoặc khai trừ họ khỏi
cộng đoàn. Một dấu chỉ tỏ tường
là Người cho kẻ tội lỗi đồng bàn
với mình, hơn nữa, còn đến dùng bữa với
họ : cử chỉ này nói lên việc
họ được Thiên Chúa tha tội (x. Lc 15) và
được trở về trong lòng Dân Chúa (x. Lc 19,9).
1444 (981) Khi cho các tông đồ chia
sẻ quyền tha tội, Chúa cũng cho họ quyền
giao hòa tội nhân với Hội Thánh. Chiều kích Hội
Thánh này của nhiệm vụ tông đồ được
diễn tả cách đặc biệt trong lời long
trọng Ðức Ki-tô nói với thánh Phê-rô :
"Thầy sẽ ban cho con chìa khoá Nước Trời.
Những gì con cầm buộc dưới đất, trên
trời cũng cầm buộc; những gì con tháo cởi
dưới đất trên trời cũng tháo cởi"
(Mt 16,19). "Nhiệm vụ cầm
buộc và tháo cởi đã được ban cho thánh Phê-rô
cũng được ban cho tập thể tông đồ
hiệp nhất với thủ lãnh (Mt 18,18; 28, 16-20) " (x.
LG 22,2) .
1445 (553) Cầm
buộc và tháo cởi nghĩa là ai bị các tông đồ
loại trừ khỏi sự hiệp thông với Hội
Thánh, cũng không được hiệp thông với Thiên
Chúa; ai được hiệp thông trở lại, cũng
được thông hiệp lại với Thiên Chúa. Giao hòa với Hội Thánh không thể tách biệt
khỏi giao hòa với Thiên Chúa.
Bí tích tha tội
1446
1447
Qua
dòng thời gian, Hội Thánh thực thi quyền tha tội
dưới nhiều hình thức. Trong các thế kỷ
đầu, sau khi đã được rửa tội, mà
còn phạm những tội đặc biệt nghiêm
trọng (thiù dụ thờ ngẫu tượng, giết
người, ngoại tình), các tín hữu phải chịu
một hình thức kỷ luật rất khắt khe : Kẻ
có tội phải thống hối công khai, thường là
trong nhiều năm, trước khi được giao hòa,
nhưng hiếm có người được nhận vào
"hàng hối nhân" này; trong một số miền,
mỗi người chỉ được nhận một
lần trong đời. Trong thế kỷ thứ 7, cảm
hứng từ truyền thống đan tu Ðông Phương,
các thừa sai Ai-len đem vào lục địa châu Âu
"hình thức thống hối riêng", không đòi làm
việc thống hối công khai và lâu dài trước khi
được giao hòa với Hội Thánh. Từ
đó, bí tích được ban cách kín đáo giữa
hối nhân và linh mục. Cách thực hành
này dự liệu người ta có thể được
giao hòa nhiều lần và vì thế mở đường
cho việc năng lãnh nhận bí tích thống hối. Hình thức này cũng cho phép kết hợp trong
một việc cử hành bí tích việc tha tội trọng
và tội nhe.ề Những nét chính về hình thức
thống hối này Hội Thánh vẫn còn thực hành cho
tới ngày nay.
1448
Qua
những thay đổi về qui định và nghi thức
theo dòng thời gian, chúng ta nhận ra một cấu trúc
nền tảng với hai yếu tố chính. Một
mặt là những hành vi của những con người
hoán cải dưới tác động của Chúa Thánh Thần : ăn năn, thú tội và
đền tội. Mặt khác là tác
động của Thiên Chúa qua thừa tác vụ của
Hội Thánh. Nhờ giám mục và linh
mục, Hội Thánh tha tội nhân danh Ðức Ki-tô, âán
định việc đền tội, cầu nguyện cho
hối nhân và cùng làm việc thống hối với họ.
Nhờ đó, tội nhân được
chữa lành và hiệp thông lại với Hội Thánh.
1449 (1481 234) Công thức giải tội
trong Giáo Hội La-tinh diễn tả những yếu tố
cốt yếu của bí tích : Chúa Cha từ ái là nguồn
mọi ơn tha thứ. Người thực hiện
việc giao hòa tội nhân nhờ cuộc vượt qua
của Chúa Con và hồng ân Thánh Thần, qua lời
nguyện và thừa tác vụ của Hội Thánh
:
Thiên Chúa là Cha hay
thương xót, đã nhờ sự chết và sống
lại của Con Chúa, mà giao hòa thế gian với Chúa và ban
Thánh Thần để tha tội; xin Chúa dùng tác vụ
của Hội Thánh, mà ban cho anh (chị) ơn tha thứ và
bình an. Vậy, tôi tha tội cho anh (chị) nhân danh Chúa Cha,
và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần (x. OP 46: Công thức giải
tội) .
1450 "Tội
nhân phải tự nguyện thi hành đầy đủ
những việc sau : thật lòng ăn
năn, xưng tội, khiêm tốn và thành tâm đền
tội" (x Giáo lý Rô-ma II, V,21; x. CÐ Trentô : DS 1673).
Ăn năn tội
1451 (431) Trước hết hối
nhân phải ăn năn tội. Ăn năn tội là
"đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã
phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội
nữa" (x. CÐ Trentô : DS 1676).
1452 (1822) Khi hối nhân ăn năn vì
yêu mến Chúa trên hết mọi sự, chúng ta gọi là
ăn năn tội "cách trọn" (ái hối).
Việc ăn năn tội này xóa bỏ các tội nhẹ
và cũng đem lại ơn tha thứ các tội
trọng, nếu hối nhân quyết tâm đi xưng
tội càng sớm càng tốt (x. CÐ Trentô :
DS 1677).
1453 Ăn
năn tội "cách chẳng trọn" (hoặc
hối hận) cũng là một hồng ân Thiên Chúa, một
thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Nó xuất phát
từ việc thấy sự xấu xa của tội
lỗi hoặc vì sợ hình phạt trầm luân đời
đời cũng như hình khổ khác kẻ tội
lỗi phải chịu (úy hối). Lương tâm
được lay động như
vậy có thể manh nha một chuyển biến nội
tâm, chuyển biến này sẽ được hoàn tất
dưới tác động của ân sủng nhờ
việc tha tội trong bí tích Giao Hòa. Tuy nhiên, việc ăn
năn tội cách chẳng trọn tự nó không đem
lại ơn tha thứ các tội trọng, nhưng
chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha tội
trong bí tích Thống Hối (x. CÐ Trentô : DS
1678; 1705).
1454
Ðể
lãnh nhận bí tích Giao Hòa, hối nhân cần chuẩn bị
bằng việc xét mình dưới ánh sáng Lời Chúa.
Những bản văn thích hợp nhất có thể tìm
được trong Mười Ðiều Răn phần
giảng huấn luân lý của Tin Mừng và trong các thư
Tân Ước : Bài giảng trên núi, Giáo
huấn các tông đồ (x Rm 12-15; 1Cr 12-13).
Xưng tội
1455 (1424 1734) Ngay trên bình diện thuần
nhân loại, xưng tội hay thú tội giải thoát và giúp
chúng ta dễ dàng hòa giải với anh em. Qua việc thú
tội, con người nhận mình là tội nhân, nhận
trách nhiệm về tội lỗi đã phạm, nhờ
đó lại sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa và hiệp
thông với Hội Thánh để có một tương lai
mới.
1456 (1855) Lời
thú tội với linh mục là phần cốt yếu
của bí tích Thống Hối : "Khi xưng tội,
hối nhân phải kể hết các tội trọng
nhớ được sau khi xét mình cẩn thận, dù
những tội trọng này rất kín đáo và chỉ
phạm đến hai điều cuối của Thập
Giới (x. Xh 20,17; Mt 5,28), vì những tội này đôi khi
làm cho linh hồn bị thương tổn nặng nề
và nguy hiểm hơn những tôâềi phạm công khai"
( Cđ Tren-tô : DS 1680) :
1505
Khi
có ý xưng hết các tội nhớ được,
người tín hữu trông cậềy vào lòng thương
xót của Thiên Chúa để được Người
tha thứ. Ai cố tình giấu tội, người ấy
không sẵn sàng đón nhận ơn tha thứ của Thiên
Chúa qua trung gan linh mục. Vì "nếu bệnh nhân xấu
hổ không cho thầy thuốc coi vết thương thì
làm sao chữa được" (Thánh Giê-rô-ni-mô, về
Giáo Hội 10,11; CÐ Trentô : DS 1680).
1457 (2042 1385) Theo luật Hội Thánh,
"mọi tín hữu đến tuổi khôn, phải
xưng các tội trọng mình nhận thức
được, một năm ít là một lần" (x.
CÐ, khoản 989; x. DS 1683, 1708). Ai biết mình còn mắc
tội trọng mà chưa xưng tội thì không
được rước lễ, dù đã ăn năn
tội cách trọn (x. CÐ Trentô: DS 1647;1661),
ngoại trừ trường hợp có lý do hệ trọng
và chưa thể xưng tội được (x. CIC,
khoản 916; CCEO, khoản 711). Trẻ em thì
phải lãnh nhận bí tích Giao Hòa trước khi
rước lễ lần đầu (x. CIC, khoản 914).
1458 (1783) Dù không bó buộc, Hội Thánh
vẫn khuyên các tín hữu nên xưng các lỗi
thường ngày (các tội nhẹ) (x CÐ Tren-te
: DS 1680; CIC, can. 988, 2) . Việc năng xưng các
tội nhẹ giúp chúng ta rèn luyện lương tâm, giúp ta
chiến đấu chống lại các khuynh hướng
xấu, sẵn sàng đêẹ Ðức Ki-tô chữa lành và
tiến tới trong đời sống theo Thánh Thần.
Nếu chúng ta thường xuyên hưởng nhờ lòng nhân
từ của Chúa Cha qua bí tích Giao Hòa thì dần dần chúng
ta cũng trở nên nhân từ như Người (x. Lc 6,36):
2468
Ai
xưng thú tội mình là cộng tác với Thiên Chúa. Thiên Chúa tố cáo tôềi ngươi, và
ngươi cũng tố cáo tội mình, thì ngươi liên
kết với Thiên Chúa. Con người và tội nhân
là hai thực tại : con người là
tác phẩm của Thiên Chúa; tội nhân là sản phẩm
của con người. Hỡi người,
hãy phá đi điều ngươi đã tạo ra
để Thiên Chúa cứu điều Người đã
tạo thành. Khi ngươi bắt đầu ghê
tởm điều ngươi đã làm ra, lúc ấy
những điều tốt đẹp của ngươi
khởi sự, vì ngươi lên án
những hành động xấu của ngươi. Nhìn nhận việc xấu đã làm, là khởi
đầu những việc tốt. Hãy sống trong
Sự Thật, ngươi sẽ đến
được với Sự Sáng (Thánh Âu-Tinh, Tin Mừng
Gio-an 12,13).
Việc
đền tội
1459 (2412 2487 1473) Có những tội gây
thiệt hại cho tha nhân. Chúng ta phải
hết sức để đền bù (như trả
lại đồ vật đã lấy cắp, phục
hồi danh dự cho người mình xúc phạm, bồi
thường thiệt hại). Ðức
công bình đòi buộc thực hiện như vậy. Hơn nữa, tội lỗi gây thương
tổn và làm suy yếu chính tôềi nhân cũng như
mối liên hệ giữa họ với Thiên Chúa và tha nhân.
Bí tích Giao Hòa tha thứ tội lỗi, nhưng không xóa
bỏ những hậu quả xấu do tội gây nên (x.
CIC, khoản 914).Sau khi được tha thứ, tội
nhân còn phải hồi phục hoàn toàn sức sống thiêng
liêng. Vì thế, họ phải làm một việc gì sửa
lại lỗi lầm của mình :
phải "đền bù" cân xứng hoặc
"đền tạ" tội lỗi mình. Việc đền tội như vậy cũng
gọi là "thống hối".
1460 (2447 618) Khi chỉ định
việc đền tội, linh mục phải chú ý
đến tình trạng riêng của hối nhân và mưu
cầu lợi ích thiêng liêng cho họ. Việc
đền tội phải tương xứng với
bản chất và tính chất trầm trọng của
tội đã phạm. Có thể
đền tội bằng cách cầu nguyện, dâng cúng,
bố thí, phục vụ tha nhân, hãm mình, các hy sinh và nhất
là kiên trì vác thánh giá của mình. Những việc
đền tội như thế giúp chúng ta nên giống
Ðức Ki-tô, Ðấng duy nhất đã đền bù dứt
khoát tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta trở nên
đồng thừa tự với Ðức Ki-tô phục sinh
"một khi chúng ta chịu đau khổ với
Người" (Rm 8,17) : (x. CÐ Trentô : DS
1690)
2011
Chính
nhờ Ðức Ki-tô mà chúng ta có thể đền bù tội
lỗi đã phạm : chúng ta không thể tự mình làm
được gì, nhưng với "Ðấng ban sức mạnh,
chúng ta làm được mọi việc" . Con
người không có gì để tự phụ, nhưng
tất cả "vinh dự" của chúng ta là Ðức
Ki-tô... Trong Người, chúng ta "làm việc lành phúc
đức để chứng tỏ lòng ăn năn
thống hối" (Lc 3,8). Do
Người, những việc lành phúc đức ấy có
giá trị; nhờ Người, được dâng lên Chúa
Cha; và qua Người được Chúa Cha chấp
nhận. (x CÐ Trentô: DS 1691)
VIII. THỪA TÁC
VIÊN CỦA BÍ TÍCH GIAO HÒA
1461 (981) Vì Ðức Ki-tô đã trao cho
các tông đồ thừa tác vụ giao hòa (x. Ga 20,23; 2Cr
5,18), nên các giám mục kế nhiệm các ngài và các linh
mục là những cộng sự viên của các giám mục,
tiếp tục thi hành thừa tác vụ này. Nhờ
bí tích Truyền Chức, các giám mục và linh mục có
quyền tha tội "nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh
Thần".
1462
1463 (982) Có một số tội
nặng đặc biệt, ai phạm sẽ bị vạ
tuyệt thông. Ðây là hình phạt nặng nhất theo giáo luật, cấm không cho nhận lãnh
các bí tích và hành xử một số tác vụ trong Hội
Thánh. Theo giáo luật, chỉ có Ðức Giáo
Hoàng, giám mục địa phận hay vị linh mục
được ủy quyền, mới có quyền tha
vạ (x. CIC, khoản 1331; 1354-1357; CCEO, khoản 1431; 1434,
1420). Trong trường hợp nguy
tử, bất cứ linh mục nào, dù không có năng
quyền giải tội, vẫn có thể tha hết các
tội (x. CIC, khoản 976; CCEO, khoản 725) và tha mọi
vạ tuyệt thông.
1464
Các
linh mục phải khuyến khích các tín hữu lãnh nhận
bí tích Giao Hòa. Các ngài phải luôn sẵn sàng cử hành bí tích
này mỗi khi người tín hữu yêu cầu với lý do
chính đáng (x. CIC, khoản 976; CCEO, khoản 725).
1465 (983) Khi ban bí tích sám hối, linh
mục thi hành chức vụ như Ðấng chăn chiên lành
đi tìm chiên lạc, như người Sa-ma-ri-ta-nô nhân lành
băng bó vết thương, như người cha
chờ đợi và đón nhận người con đi
hoang trở về, như quan án chính trực xét xử công
bình và nhân hậu, không thiên vị một ai. Tóm
lại, linh mục là dấu chỉ và khí cụ của
Thiên Chúa giàu lòng thương xót đối với tội
nhân.
1466 (1551 2690) Cha giải tội không ban
ơn tha thứ như là người chủ, nhưng là tôi
tớ phục vụ Thiên Chúa nhân từ. Thừa tác viên
phải cử hành bí tích này theo ý
định và lòng nhân từ của Chúa Ki-tô (x. PO 13). Ngài
cần hiểu rõ người Ki-tôâ hữu phải sống
thế nào, có kinh nghiệm về những gì liên quan
đến con người, tôn trọng và tế nhị
đối với người sa ngã. Linh mục phải yêu mến chân lý, trung thành tuân
phục Huấn Quyền của Hội Thánh và kiên trì
hướng dẫn hối nhân để họ
được chữa lành và đạt tới sự
trưởng thành toàn diện. Ngài
phải cầu nguyện và đền tội giúp hối
nhân, phó thác họ cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
1467 (2490) Thừa tác vụ này rất
cao trọng đòi hỏi cha giải tội tôn trọng và
tế nhị với người xưng tội. Do đó,
Hội Thánh buộc mọi linh mục, khi giải tội,
phải giữ kín tuyệt đối những tội
hối nhân đã xưng thú. Ai vi phạm
sẽ mắc vạ nặng nề (x. CIC, khoản 1388,
triệt 1; CCEO, khoản 1456). Vị linh
mục cũng không có quyền tỏ ra bên ngoài những gì
biết được khi giải tội. Bí mật tòa giải tội không chấp nhận
luật trừ nào. Ðây là "ấn tín bí
tích", vì tất cả những gì hối nhân xưng thú
đều được bí tích "niêm ấn".
IX HIỆU
QUẢ BÍ TÍCH THỐNG HỐI
1468 (2305) "Bí tích Thống Hối
phục hồi chúng ta trong ơn nghĩa Chúa và liên kết
chúng ta với Người trong tình bằng hữu thắm
thiết và cao cả" (x. Giáo lý Rô-ma 2,5,18) . Mục đích và hiệu quả của bí tích này
là giao hòa hối nhân với Thiên Chúa. Ai lãnh nhận bí
tích Giao Hòa với lòng thống hối và đạo
đức, lương tâm "sẽ được bình an thư thái, được an ủi thiêng
liêng" (x. CÐ Trentô: DS 1674). Bí tích Giao Hòa thực hiện
một "cuộc phục sinh thiêng liêng" đích
thực, hoàn lại phẩm giá và những đặc
quyền của đời sống con cái Thiên Chúa, nhất
là tình bằng hữu với Người (Lc 15,32).
1469 (953 949) Bí tích này giao hòa hối nhân
với Hội Thánh. Bí tích Giao Hòa tái tạo
sự hiệp thông huynh đệ, mà tội lỗi làm tiêu
hao hay cắt đứt. Theo nghĩa này, bí tích Giao Hòa
không những chữa lành hối nhân vừa được
hiệp thông lại với Hội Thánh, mà còn làm cho Hội
Thánh thêm sức sống sau khi đã phải đau khổ
vì tội lỗi của các chi thể (x. 1Cr 12,26).
Tội nhân được Hội Thánh đón nhận
lại vào cộng đoàn chư thánh, được liên
kết với Hội Thánh và được củng cố
nhờ sự trao đổi gia sản thiêng liêng giữa
các chi thể sống động của Thân Thể Chúa
Ki-tô, dù họ còn đang lữ hành nơi trần thế
hay đã về Quê Trời (x. LG 48-50):
"Việc giao hòa với Thiên Chúa còn
dẫn tới những sự giao hòa khác là chữa lành các
vết thương do tội : khi được tha
thứ, hối nhân được giao hòa với chính mình,
nhờ đó tìm lại được chính mình;
được giao hòa với anh em là những người
họ đã xúc phạm và gây thương tổn;
được giao hòa với Hội Thánh và vạn vật"
(RP 31).
1470
X. CÁC ÂN XÁ
1471 Giáo lý
về ân xá và việc áp dụng các ân xá trong Hội Thánh liên
hệ mật thiết với các hiệu quả của bí
tích Giao Hòa.
Ân xá là gì ?
"Ân xá là tha những hình phạt tạm
do tội gây nên, dù tội đã được tha. Muốn
hưởng nhờ ân xá, người Ki-tô hữu phải
hội đủ điều kiện và thi hành những
điều Hội Thánh qui định. Với tư cách là
trung gian phân phát ơn cứu chuộc, Hội Thánh dùng
quyền để ban phát và áp dụng kho tàng công phúc
của Ðức Ki-tô và các thánh".
"Tùy việc tha vạ một phần
hay toàn bộ hình phạt tạm, mà chúng ta gọi là
tiểu xá hay đại xá (Phao-lô VI, Tông hiến "Giáo lý
về lòng khoan dung", 1-3)."Mọi tín hữu
đều có thể hưởng ân xá, hoặc
nhường cho người qua đời".
Hình phạt do
tội
1472 (1861 1031) Ðể
hiểu giáo lý và cách thực hành của Hội Thánh, chúng ta
phải biết tội có hai hậu quả. Tội
nặng làm cho ta không được hiệp thông với
Chúa, nên không được hạnh phúc vĩnh cửu.
Sự mất mát này gọi là "hình phạt đời
đời". Ngoài ra, tất cả các tội dù là tội
nhẹ, đều có sự quyến luyến lệch
lạc với thụ tạo, nên cần được
thanh tẩy hoặc ngay đời này hoặc sau khi
chết trong luyện ngục. Sự thanh luyện
đời này cũng như đời sau giải thoát ta
khỏi "hình phạt tạm". Những hình phạt
này không thể được coi như hình thức báo thù
Thiên Chúa giáng xuống trên chúng ta, mà phải coi là xuất
phát từ bản chất của tội. Nếu tội
nhân hoán cải do đức mến thiết tha thúc
đẩy, họ có thể được thanh luyện
hoàn toàn đến độ không cần một hình
phạt nào nữa (x. CÐ Trentô : DS 1712-1713; 1820) .
1473 (2447) Ðược
tha thứ tội lỗi và tái lập hiệp thông với
Thiên Chúa, hối nhân cũng được tha các hình
phạt đời đời do tội. Nhưng những
hình phạt tạm vẫn còn. Người ki-tô hữu
phải cố gắng đón nhận các hình phạt
tạm này như một ân sủng, bằng cách nhẫn
nại chịu đựng những đau khổ và
thử thách đủ loại, ngay cả cái chết.
Họ phải cởi bỏ hoàn toàn "con người
cũ" và mặc lấy "con người mới"
(x. Ep 4,24), nhờ làm những việc từ bi và bác ái
cũng như nhờ cầu nguyện và sám hối.
Mầu nhiệm
Các Thánh Thông Công
1474 (946-959 795)
Người Ki-tô hữu không đơn độc khi
cố gắng thanh luyện khỏi tội lỗi và thánh
hóa bản thân nhờ ơn Chúa. "Trong Ðức Ki-tô và
nhờ Ðức Ki-tô, mỗi con cái Thiên Chúa được
liên kết một cách lạ lùng với những anh em ki-tô
hữu khác trong sự hiệp nhất siêu nhiên của
Nhiệm Thể Ðức Ki-tô như trong một ngôi vị
nhiệm mầu" (x. Phao-lô VI, Tông hiến "Giáo lý
về lòng khoan dung" 5) .
1475 Trong
mầu nhiệm Các Thánh Thông Công, các tín hữu - những
người đã về quê trời, những người
còn đền tội nơi luyện ngục hay những
người đang lữ hành trên trần gian này- tất
cả liên kết với nhau trong tình yêu bền vững và
chia sẻ với nhau những điều thiện hảo
(x. Phao-lô VI, Tông hiến "Giáo lý về lòng khoan dung" 5)
.Trong sự hiệp thông kỳ diệu này, sự thánh
thiện của một người ảnh hưởng
trên người khác vượt xa thiệt hại do
tội lỗi của một người có thể gây ra
cho người khác. Vì thế, sự hiệp thông của
Dân Thánh giúp cho hối nhân được thanh luyện nhanh
chóng và hữu hiệu hơn.
1476 (617) Chúng
ta gọi những điều thiện hảo trong sự
hiệp thông của Dân Thánh là kho tàng của Hội
Thánh,"đây không phải là tổng số của
cải vật chất tích lũy qua bao thế kỷ,
nhưng là công đức vô giá và vô lượng
trước nhan Thiên Chúa, do việc Chúa Ki-tô đền
tạ và lập công dâng lên Thiên Chúa để nhân loại
được giải thoát khỏi tội lỗi và
được hiệp thông với Chúa Cha. Trong
Người, chúng ta có được dư dật sự
đền tạ và những công do ơn Người
cứu chuộc" (x. Dt 7,23-25; 9,11-28).
1477 (969) "Kho
tàng này còn bao gồm những lời cầu khẩn và
việc lành của Ðức Ma-ri-a và các thánh. Ðây là phần có
giá trị vô song, không thể đo lường
được và luôn luôn mới mẻ. Nhờ ân sủng,
khi bước theo Ðức Ki-tô, các ngài được thánh
hóa và chu toàn sứ mạng Chúa Cha trao phó, nên khi cố
gắng để mình được cứu rỗi, các
ngài cũng cộng tác vào việc cứu rỗi anh em mình
trong sự hiệp nhất của Nhiệm Thể" (x.
Phao-lô VI, Tông hiến "Giáo lý về lòng khoan dung").
Thiên Chúa ban ân xá
qua Hội Thánh
1478 (981) Chính
Hội Thánh ban phát ân xá. Nhờ quyền cầm buộc và
tháo cởi do Ðức Ki-tô ban, Hội Thánh chuyển cầu
cho người ki-tô hữu và mở cho họ kho tàng công
phúc của Ðức Ki-tô và các thánh để Chúa Cha nhân
từ tha cho họ những hình phạt tạm phải
chịu vì tội. Như thế, Hội Thánh chẳng
những muốn nâng đỡ người tín hữu, mà
còn khuyến khích họ làm những việc đạo
đức, thống hối và bác ái" (x. Phao-lô VI, sđd
8; CÐ Trentô: DS 1835).
1479 (1032) Vì
những tín hữu đã qua đời đang chịu thanh
luyện cũng là thành phần của cộng đoàn Dân
Thánh, một trong những cách chúng ta có thể giúp họ là
nhờ các ân xá để họ được tha các hình
phạt tạm thời trong luyện ngục.
XI. CỬ HÀNH BÍ
TÍCH THỐNG HỐI
1480 Cũng
như các bí tích khác, bí tích Thống Hối là một
hoạt động phụng vụ. Thường việc
cử hành bí tích này diễn tiến như sau : linh mục
chào và chúc lành, đọc Lời Chúa để soi sáng lương
tâm hối nhân và giúp họ giục lòng ăn năn, khuyên
nhủ hối nhân hoán cải; hối nhân thú tội với
linh mục; ra và nhận việc đền tội; linh
mục giải tội; lời ca ngợi và tạ ơn, ra
về với phép lành của linh mục.
1481 (1449) Phụng
vụ By-zan-tin có nhiều công thức giải tội,
dưới nhiều hình thức cầu khẩn, biểu
thị rõ ràng mầu nhiệm tha thứ : "Thiên Chúa
đã dùng ngôn sứ Na-than mà tha thứ cho Ða-vít khi ông xưng
thú tội mình, đã tha thứ cho Phê-rô khi ông khóc lóc đau
đớn, tha thứ cho người kỹ nữ khi cô
nhỏ lệ trên chân Chúa, tha thứ cho người
Pha-ri-sêu và người con hoang đàng. Xin Người
cũng dùng tôi mà tha thứ cho anh ở đời này
cũng như đời sau và đừng kết án anh, khi
anh phải ra trước toà công thẳng của Thiên Chúa,
Ðấng được chúc tụng muôn đời
A-men".
1482 (1140) Bí
tích Thống Hối cũng có thể được cử
hành cộng đoàn : tất cả cùng chuẩn bị
xưng tội và cùng nhau cảm tạ vì được
ơn tha thứ. Lúc đó việc xưng tội và giải
tội cá nhân được tiến hành trong một cử
hành phụng vụ Lời Chúa, với việc đọc
Sách Thánh và diễn giảng, cộng đoàn được
hướng dẫn xét mình; xin ơn tha thứ, đọc
kinh Lạy Cha và cùng tạ ơn. Hình thức này diễn
tả rõ nét hơn tính Hội Thánh của việc thống
hối. Tuy nhiên, dầu cử hành thế nào, bí tích
Thống Hối vẫn là hoạt động phụng
vụ nên có tính cách công khai và Hội Thánh (SC 26-27).
1483 (1401) Trong
trường hợp thật cần thiết, có thể
cử hành bí tích Giao Hòa tập thể tức là xưng
tội chung và giải tội chung. Trường hợp
thật cần thiết là khi gần cơn nguy tử và
một hay nhiều linh mục không đủ thời gian
nghe từng hối nhân xưng tội, khi có sự khẩn
thiết trầm trọng nghĩa là, khi có đông hối
nhân và không có đủ cha giải tội để nghe
từng người xưng tội hợp lệ trong
một thời gian thích đáng, đến nỗi vì
vậy mà các hối nhân không phải lỗi tại họ
đành thiệt mất ơn bí tích Giao Hòa hay ơn
rước lễ trong một thời gian lâu dài. Trong
trường hợp này, người tín hữu phải
quyết tâm xưng riêng những tội trọng khi
thuận tiện để bí tích Giao Hòa được hoàn
thành (x. CIC, khoản 962, triệt 1). Giám mục giáo phận
có thẩm quyền nhận định về những
điều kiện để có thể giải tội
tập thể (x. CIC, khoản 961, triệt 2). Trong các
đại lễ hay hành hương, số đông tín
hữu đến xưng tội, không được coi là
trường hợp thật khẩn thiết để
giải tội tập thể (x. CIC, khoản 961, triệt
1) .
1484 (878) "Bình
thường xưng tội cá nhân và trọn vẹn, sau
đó giải tội là hình thức duy nhất để
tín hữu giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh, trừ khi
có ngăn trở về thể lý hay luân lý chuẩn
chước việc xưng tội như vậy" (x. OP
31). Ðiều này có nhiều lý do sâu xa. Ðức Ki-tô hành
động trong mỗi bí tích. Người đích thân nói
với từng tội nhân : "Này con, con đã
được tha tội rồi" (Mc 2,5). Người
là thầy thuốc cúi mình trên từng bệnh nhân cần
được chữa lành (x. Mc 2,17). Người nâng
dậy và dẫn họ về hiệp thông lại với
anh em. Như thế việc xưng tội riêng là hình
thức có ý nghĩa nhất trong việc giao hòa với Thiên
Chúa và Hội Thánh.
TÓM LƯỢC
1485 "Chiều
ngày Phục Sinh, Chúa Giê-su hiện ra với các tông
đồ và nói : "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị
cầm giữ" (Ga 20,22-23).
1486 Có một
bí tích riêng để tha những tội người tín
hữu phạm sau khi đã được thanh tẩy. Bí
tích này được gọi là bí tích Hoán Cải hay Xưng
Tội, Thống Hối hay Giao Hòa.
1487 Ai phạm
tội là xúc phạm đến danh dự và tình yêu của
Thiên Chúa, làm tổn thương chính phẩm giá của mình
là Con Thiên Chúa và phương hại đến đời
sống thiêng liêng của Hội Thánh mà mỗi ki-tô hữu
phải là viên đá sống động.
1488 Trên bình
diện đức tin, không có gì xấu hơn tội lỗi,
không có hậu quả nào thảm hại hơn hậu
quả do tội gây ra cho chính tội nhân, cho Hội Thánh và
cho cả thế giới.
1489 Tội
ngăn cản con người hiệp thông với Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa giàu lòng thương xót và chăm lo cho phần
rỗi con người, ban ơn giúp tội nhân trở
về hiệp thông với Người. Chúng ta phải
cầu xin ơn quý trọng này cho chính mình và cho anh em.
1490 Việc
trở về với Thiên Chúa hay hoán cải và sám hối,
đòi có sự đau buồn, ghê tởm các tội đã
phạm và quyết tâm không phạm tội nữa. Hoán
Cải bao trùm cả quá khứ lẫn tương lai. Chính
sự trông cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa giúp
tội nhân hoán cải không ngừng.
1491 Bí tích
Thống Hối gồm ba việc hối nhân phải làm và
việc giải tội của linh mục. Ba việc
của hối nhân là : thống hối; thú tội với
linh mục; quyết tâm làm việc đền tội và
đền bù các thiệt hại do tội gây ra.
1492 Thống
hối (hay ăn năn tội) phải do động
lực đức tin thúc đẩy. Nếu thống
hối vì lòng mến Chúa, đó là ăn năn tội
"cách trọn". Nếu vì những lý do khác, thì
được gọi là ăn năn tội "cách
chẳng trọn".
1493 Tội
nhân muốn giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh, phải
xưng cùng linh mục tất cả những tội
trọng chưa xưng thú và nhớ được sau khi
đã xét mình kỹ lưỡng. Hội Thánh tha thiết
khuyên xưng các tội nhẹ, mặc dù điều đó
không buộc.
1494 Cha
giải tội chỉ định việc "đền
tội" cho hối nhân để đền bù những
thiệt hại do tội gây ra và giúp họ trở lại
với nếp sống của người môn đệ
Ðức Ki-tô.
1495 Chỉ các
linh mục được Hội Thánh ban năng quyền
giải tội, mới có thể tha tội nhân danh Ðức
Ki-tô.
1496 Hiệu
quả thiêng liêng của bí tích Thống Hối là :
·
-giao
hòa với Thiên Chúa, nhờ đó hối nhân loại
·
được
ân nghĩa với Chúa; - giao hòa với Hội Thánh;
·
tha
hình phạt đời đời đáng chịu vì tội
trọng;
·
tha,
ít là một phần, các hình phạt tạm do tội;
·
lương
tâm được bình an thư thái và được an
ủi
·
thiêng
liêng; - tăng cường sức mạnh thiêng liêng cho
người Ki-tô hữu để họ chiến
đấu.
1497 Bình thường xưng
tội cá nhân
và xưng hết các tội trọng, sau đó linh mục
giải tội, là cách thức duy nhất để tội
nhân giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh.
1498 Nhờ các ân xá, các tín hữu có
thể hưởng ơn tha thứ các hình phạt tạm
do tội, hoặc nhường cho các linh hồn trong
luyện ngục.