1536 (860) Truyền Chức là bí tích qua
đó sứ mạng Chúa Ki-tô ủy thác cho các tông đồ
tiếp tục được thực hiện trong Hội
Thánh cho đến tận thế; v́ thế,
được gọi là bí tích của thừa tác vụ
tông đồ. Bí tích này gồm 3 cấp bậc: chức
giám mục, chức linh mục và chức phó tế.
(Về
việc Đức Ki-tô thiết lập và trao ban thừa tác
vụ tông đồ, xem 874-896. Ở đây,
chỉ bàn về bí tích; qua đó, thừa tác vụ này
được chuyển giao.)
I. TẠI SAO GỌI LÀ BÍ TÍCH
1537 (922
923;1631) Vào
thời cổ Rô-ma, người ta dùng từ "Ordo"
để chỉ những tập thể dân sự,
nhất là tập thể lănh đạo. "Ordinatio"
chỉ việc được nhận vào tập thể
đó. Trong Hội Thánh có những tập thể
như vậy mà truyền thống, phần nào dựa trên
cơ sở Kinh Thánh (x. Dt 5,6; 7,11; Tv
110,4), ngay từ xưa gọi là Taxeis (tiếng Hy lạp)
hay "Ordines" (tiếng La-tinh). Chẳng
hạn, Phụng vụ nói đến hàng giám mục, hàng
linh mục, hàng phó tế. Nhiều nhóm khác cũng
được gọi là "Ordo": giới dự ṭng,
giới trinh nữ, giới vợ chồng, giới góa
bụa....
1538 (875
699) Việc
gia nhập vào một tập thể của Hội Thánh
xưa kia thường được cử hành bằng
một nghi thức gọi là Ordinatio. Đó là một hành vi tôn giáo và phụng vụ, có thể là thánh
hiến, chúc lành hay bí tích. Ngày nay, từ
Ordinatio dành riêng cho việc cử hành bí tích gia nhập hàng
giám mục, linh mục và phó tế. Việc này có giá
trị hơn việc cộng đoàn bầu cử,
chỉ định, ủy nhiệm hay cắt đặt,
v́ ban hồng ân Thánh Thần cho phép thi hành một
"quyền thánh chức" (x. LG 10) do chính Chúa Ki-tô ban qua
Hội Thánh. Ordinatio c̣n được gọi
là thánh hiến, nghĩa là được Đức Ki-tô tách
riêng và bổ nhiệm để phục vụ Hội
Thánh. Việc giám mục đặt tay
và lời nguyện thánh hiến, làm nên dấu chỉ
hữu h́nh của sự thánh hiến này. Theo
nghĩa này, tiếng Việt gọi là bí tích Truyền
Chức.
II- BÍ TÍCH
Chức Tư Tế trong Giao
Ước Cũ
1539 Thiên Chúa đă tuyển chọn
một dân tộc làm "vương quốc tư tế,
và dân thánh" (x .Xh 19,6; x. Is 61,6). Trong dân
Ít-ra-en, Người lại chọn một trong 12 chi
tộc để chuyên lo việc tế tự là chi tộc
Lê-vi (x. Ds 1,48,53). Chính Chúa là phần sản
nghiệp của họ (x. Gs 13,33). Các
tư tế đầu tiên của Giao Ước Cũ
được thánh hiến bằng một nghi thức
đặc biệt (x. Xh 29,1-30; Lv.8).
Họ "được đặt lên làm đại
diện loài người trong các mối tương quan
với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như
tế vật đền tội" (Dt 5,1).
1540 (2099) Tư tế được
đặt lên để loan báo Lời Thiên Chúa (Ml 2,7-9) và
để tái lập sự hiệp thông với Thiên Chúa
bằng các hy lễ và lời cầu nguyện. Tuy nhiên, chức tư tế này không đủ
khả năng thực hiện ơn cứu độ.
Các hy tế cứ phải dâng măi mà vẫn không đạt
tới sự thánh hoá dứt khoát (x. Dt 5,3;
7,27; 10,1-4). Chỉ hy lễ của Đức
Ki-tô mới thực hiện được điều này.
1541 Dầu vậy, Phụng Vụ
của Hội Thánh vẫn nhận ra trong chức tư
tế của A-a-ron và việc phục vụ của các
thầy Lê-vi cũng như việc cắt đặt
"70 bô lăo" (x. Ds 11,24-25)), những h́nh bóng của
chức tư tế Giao Ước Mới. Do đó, trong
nghi lễ La-tinh, Hội Thánh cầu xin trong kinh Tiền
Tụng lễ phong chức giám mục:
Lạy Cha
là Thiên Chúa và là Cha Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con..., suốt
thời Cựu Ước, Cha đă khởi sự
định h́nh cho Hội Thánh. Từ nguyên
thủy, Cha đă tiền định cho ḍng dơi những
người công chính phát xuất từ Áp-ra-ham. Cha
đă thiết lập những vị thủ lănh và tư
tế, và không để thánh điện Cha thiếu
người phục vụ..."
1542 Khi truyền chức linh mục,
Hội Thánh cầu xin:
Lạy
Chúa là Cha Chí Thánh..., ngay ở thời Cựu Ước xa
xưa đă phát sinh những chức vụ được
thiết lập qua các nhiệm tích: v́ khi Cha đặt Mô-sê
và A-a-ron cai trị và thánh hóa dân chúng, Cha đă chọn
những người có phẩm hàm và địa vị
thấp hơn để giúp đỡ vào tập thể và
công việc của các ông. V́ vậy, trong hoang địa,
Cha đă phân phát thần trí của Mô-sê cho 70 người có
trí thông minh, để khi dùng họ phụ giúp, ông có
thể cai trị dân Cha một cách dễ dàng hơn.
Cũng vậy, Cha đă thông ban sự sung măn của A-a-ron
cho con cháu ông..."
1543 Khi phong chức phó tế, Hội
Thánh cầu xin:
Lạy
Cha Chí Thánh..., để xây dựng đền thờ
mới là Hội Thánh, Cha đă thiết lập ba cấp
thừa tác viên là giám mục, linh mục và phó tế,
để họ phục vụ danh Cha, như Cha đă
chọn con cháu Lê-vi từ thuở đầu, để
họ chu toàn thừa tác vụ nơi đền thánh cũ
và Cha là gia nghiệp của họ ..."
Chúa Ki-tô là Thượng Tế duy
nhất
1544 (874) Tất cả tiên trưng về chức
tư tế trong Giao Ước Cũ được hoàn
tất trong Đức Ki-tô Giê-su "Trung Gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người" (1Tm 2,5): Vị vua
Men-ki-sê-đê, "Tư tế của Đấng Tối
Cao" (St 14,18), được truyền thống Công Giáo
xem như h́nh bóng chức tư tế của Chúa Ki-tô là
"Thượng Tế duy nhất theo phẩm trật
Men-ki-sê-đê" (Dt 5,10; 6,20). Đức Ki-tô "thánh
thiện, vẹn toàn, vô tội" (Dt 7,26),
nhờ hy lễ duy nhất trên thập giá, đă vĩnh
viễn làm cho những người được thánh
hiến trở nên hoàn hảo" (Dt 10,14).
1545 (1367
662) Hy
lễ cứu độ của Chúa Ki-tô là duy nhất, hoàn
tất một lần dứt khoát. Tuy nhiên, hy
lễ này hiện diện trong hy lễ của Hội Thánh.
Cũng vậy, chức tư tế duy
nhất của Chúa Ki-tô hiện diện nhờ chức
tư tế thừa tác mà tính duy nhất không bị suy
giảm. Do đó, "chỉ ḿnh Đức Ki-tô là tư
tế đích thực, những người khác chỉ là
thừa tác viên của Ngài" (x.Thánh Tô-ma A-qui-nô, thơ
gửi tín hữu Dothái 7,4).
Hai cách tham dự vào chức tư
tế duy nhất của Đức Ki-tô
1546 (1268) Đức Ki-tô là
thượng tế và trung gian duy nhất đă biến Hội
Thánh thành "Vương quốc của các tư tế
để phụng sự Thiên Chúa là Cha của
Người" (Kh 1,6). Như thế,
tất cả cộng đoàn tín hữu là tư tế.
Các tín hữu thực thi chức tư tế cộng
đồng bằng cách mỗi người tùy ơn
gọi riêng, tham dự vào sứ mạng của Đức
Ki-tô là Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế. Chính qua
bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, các tín hữu
được "thánh hiến để trở nên... hàng
tư tế thánh" (x. LG 10).
1547 (1142
1120) Chức
tư tế thừa tác hay phẩm trật của các giám
mục và linh mục cũng như chức tư tế
cộng đồng của các tín hữu đều tham
dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Ki-tô
(x. LG 10) theo cách thức riêng của ḿnh và bổ túc cho nhau
(x. LG 10). Dầu vậy hai chức tư
tế này khác nhau về bản chất. Khác thế nào ? Các tín hữu thi hành chức tư tế
cộng đồng bằng cách phát triển sống
đức Tin, đức Cậy, đức Mến,
sống theo Chúa Thánh Thần. C̣n chức
tư tế thừa tác dành để phục vụ
chức tư tế cộng đồng, giúp phát triển
ân sủng bí tích Thánh Tẩy của mọi ki-tô hữu. Đó là một trong những cách thế Đức Giê-su
luôn dùng để xây dựng và hướng dẫn Hội
Thánh. V́ thế, chức tư tế này
được chuyển giao qua bí tích riêng là bí tích
Truyền Chức.
Thi hành chức vụ thủ lănh
của Đức Ki-tô
1548 (875,
792) Khi thừa tác viên thi hành
chức vụ trong Hội Thánh, chính Đức Ki-tô hiện
diện với tư cách là Đầu của Thân Thể, là
Mục Tử đoàn chiên, Thượng Tế của hy
lễ cứu độ, Thầy dạy Chân Lư. Đó là
điều Hội Thánh muốn diễn tả khi nói, nhờ
bí tích Truyền Chức, tư tế thi hành chức vụ
thủ lănh của Đức Ki-tô (in persona Christi Capitis) (x. LG
10;28; SC 33; CD 11;
Thừa
tác viên đóng vai tṛ của chính Đức Ki-tô Tư Tế.
Nhờ bí tích truyền chức đồng hóa họ
với vị Thượng Tế, thừa tác viên có
quyền hành động với thần lực và vai tṛ
của chính Đức Ki-tô (x. Piô XII, thông điệp
"Đấng Trung Gian của Thiên Chúa")
Chúa Ki-tô
là nguồn mạch mọi chức tư tế: tư
tế của Cựu Ước là h́nh bóng của Đức
Ki-tô và tư tế của Tân Ước thi hành chức
vụ của Đức Ki-tô (x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Tổng
luận Thần học 3, 22, 4).
1549 (1142) Qua thừa tác vụ của
người có chức thánh, nhất là của các giám
mục và linh mục, sự hiện diện của Đức
Ki-tô như thủ lănh của Hội Thánh trở nên hữu
h́nh giữa cộng đoàn tín hữu (x. LG 21). Theo cách
diễn tả của thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, giám mục là
typos tou Patros, là h́nh ảnh sống động của Chúa
Cha (x. Thơ gửi Tra-li-a-nô, 3,1; cf Magn.
6,1).
1550
1551
"... Nhân danh toàn thể Hội
Thánh
1552 Chức tư tế thừa tác
không những có nhiệm vụ đóng vai tṛ Đức Ki-tô,
Thủ Lănh của Hội Thánh, trước cộng đoàn
tín hữu, mà c̣n hành động nhân danh toàn thể Hội
Thánh, khi dâng lên Thiên Chúa kinh nguyện của Hội Thánh (x.
SC 33), nhất là khi cử hành thánh lễ (x. LG 10).
1553 (795) "Nhân danh
toàn thể Hội Thánh" không có nghĩa là các tư
tế được cộng đoàn ủy nhiệm. Kinh nguyện và lễ vật của Hội Thánh
liên kết với kinh nguyện và lễ vật của
Đức Ki-tô, Thủ Lănh Hội Thánh. Đây
luôn là việc Đức Ki-tô phụng thờ Chúa Cha
được dâng lên trong và nhờ Hội Thánh. Toàn
thể Hội Thánh, Thân Thể Đức Ki-tô cầu
nguyện và dâng ḿnh cho Chúa Cha, "chính nhờ Đức Ki-tô,
cùng với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, hiệp nhất
với Chúa Thánh Thần". Cả Thân thể, gồm
Đầu và các chi thể, cầu nguyện và dâng ḿnh;
những thừa tác viên đúng nghĩa trong Thân Thể
ấy, không những là thừa tác viên của Đức Ki-tô mà
c̣n là thừa tác viên của Hội Thánh nữa. Chính v́ đóng vai tṛ Đức Ki-tô, nên vị tư
tế thừa tác có thể hành động nhân danh Hội
Thánh.
III- BA CẤP BẬC CỦA BÍ TÍCH
1554 (1536
1538) "Thừa tác vụ do
Thiên Chúa thiết lập trong Hội Thánh được thi
hành bởi những người có chức vụ khác nhau mà
từ xưa được gọi là: giám mục, linh
mục và phó tế" (x. LG 28). Giáo lư Công Giáo
được diễn tả trong Phụng Vụ, Huấn
Quyền và cách thực hành liên tục trong Hội Thánh
thừa nhận có hai cấp bậc tham dự như
thừa tác viên vào chức tư tế của Đức Ki-tô:
hàng giám mục và hàng linh mục. Hàng phó tế
có nhiệm vụ giúp đỡ và phục vụ các giám
mục và linh mục. V́ thế từ
"Sacerdos" (tư tế) hiện nay được
dùng để chỉ các giám mục và các linh mục,
nhưng không chỉ các phó tế. Tuy nhiên, giáo lư Công
Giáo dạy rằng những cấp bậc tư tế
thừa tác (giám mục và linh mục) và cấp bậc
phục vụ (phó tế) cả ba đều
được trao ban qua một hành vi bí tích
được gọi "Ordinatio", nghĩa là qua bí tích
Truyền Chức:
Chớ ǵ
mọi người tôn trọng các phó tế như Đức
Giê-su Ki-tô, tôn trọng giám mục như h́nh ảnh của
Chúa Cha và tôn trọng các linh mục như nghị viện
của Thiên Chúa và như công hội các tông đồ: không
có những vị này, không thể nói về Hội Thánh
(x.Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, Thơ gửi Tra-li-a-nô, 3,1).
Giám mục - sự tṛn đầy
của bí tích Truyền Chức
1555 (861) "Giữa
các tác vụ khác nhau được thi hành trong Hội Thánh
từ buổi sơ khai, theo chứng tá của Truyền
Thống, tác vụ chính yếu là tác vụ của những
vị đă được bổ nhiệm lên giám mục;
nhờ liên tục kế vị từ buổi ban
đầu, các ngài vẫn có những mầm mống
hạt giống tông đồ (x. LG 20).
1556 (862) "Để chu
toàn sứ mạng cao cả ấy, các tông đồ
được Đức Ki-tô đổ tràn đầy Thánh
Thần cách đặc biệt (x. Cv 1,8; 2,4; Ga 20,22-23). Và các
ngài thông truyền các ơn thiêng ấy cho các cộng sự
viên khi đặt tay trên họ (x. 1Tm 4,14;
2Tm 1,6-7). Và qua việc thánh hiến giám
mục, ơn thiêng ấy được thông truyền cho
đến chúng tôi (x. LG 21).
1557 Công đồng Va-ti-ca-nô II dạy:
"Khi được tấn phong, các giám mục nhận
lănh trọn vẹn bí tích Truyền Chức mà tập
tục phụng vụ Hội Thánh và các thánh giáo phụ
gọi là chức tư tế tối cao và nhận lănh
thực tại toàn vẹn của thánh vụ" (x. LG 21).
1558
1559 (877
882) "Người
lănh nhận bí tích Truyền Chức và hiệp thông phẩm
trật với Thủ Lănh cùng các phần tử trong
cộng đoàn trở thành phần tử của giám
mục đoàn" (x. LG 22). Một trong những
cách diễn tả đặc tính và bản chất tập
đoàn của hàng giám mục là từ xưa Hội Thánh
muốn có nhiều giám mục cùng tấn phong một tân
giám mục (x. LG 22). Để tấn phong hợp pháp
một giám mục, ngày nay phải có ư kiến đặc
biệt của giám mục Rô-ma, v́ ngài là dây liên kết
hữu h́nh cao nhất của sự hiệp thông giữa
các Giáo Hội địa phương trong một Hội
Thánh duy nhất và bảo đảm cho các Giáo Hội được
tự do.
1560 (833,886) V́ là đại diện của
Đức Ki-tô, mỗi giám mục có trách nhiệm mục
vụ trong Giáo Hội địa phương
được trao phó cho ngài, đồng thời ngài
cũng phải cùng với các vị khác trong giám mục
đoàn chăm lo cho toàn thể Hội Thánh: Dù mỗi giám
mục là mục tử của đoàn chiên được
giao phó, nhưng v́ là người kế nhiệm hợp pháp
của các tông đồ do Chúa thiết lập, nên ngài phải
liên đới trách nhiệm với sứ mạng tông
đồ của Hội Thánh (x. Piô XII, thông điệp
"Hồng ân đức tin"; x. LG 23; CD 4;36;37; AG 5;6;38).
1561 (1369) Những
điều trên đây giải thích tại sao việc giám
mục cử hành thánh lễ lại có ư nghĩa rất
đặc biệt, v́ diễn tả Hội Thánh qui tụ
quanh bàn thờ, dưới sự chủ tọa của
vị đại diện hữu h́nh của Đức Ki-tô, là
Mục Tử Nhân lành và Thủ Lănh của Hội Thánh (x. SC
41; LG 26).
Linh mục - cộng sự viên
của giám mục
1562 "Được Chúa Cha thánh
hiến và sai đến thế gian (x. Ga 10,36), Đức Ki-tô
nhờ các tông đồ, đă làm cho các giám mục,
những vị kế nhiệm các tông đồ, có thể
tham dự vào việc thánh hiến và vào sứ mạng
của ḿnh. Các giám mục lại giao trách nhiệm của
tác vụ ḿnh một cách hợp pháp cho nhiều phần
tử trong Hội Thánh theo từng cấp bậc" (x. LG
28). "Người lại trao ban cho các linh mục
chức vụ thừa hành này ở một cấp
độ tuỳ thuộc, để một khi gia nhập
hàng linh mục họ là những cộng sự viên của
hàng giám mục để chu toàn một cách tốt
đẹp sứ mạng tông đồ mà Đức Ki-tô trao
phó" (x. PO 2).
1563 (1121) "Chức vụ linh mục liên
kết với chức giám mục, nên cũng
được tham dự vào quyền bính mà chính Chúa Ki-tô
đă dùng để kiến tạo, thánh hóa và cai quản
Thân Thể Người. V́ vậy, chức linh mục dù
giả thiết đă có những bí tích khai sinh đời
sống Ki-tô giáo, nhưng lại được một bí
tích riêng in ấn tín đặc biệt khi các ngài
được Chúa Thánh Thần xức dầu. Như
thế, các ngài nên giống Chúa Ki-tô Linh Mục, đến
nỗi có quyền thay mặt Chúa Ki-tô là Đầu mà hành
động" (x. PO 2).
1564 (611) "Linh mục, dù không có quyền
thượng tế và tùy thuộc giám mục khi thi hành
quyền bính, cũng hiệp nhất với giám mục
trong tước vị tư tế. Nhờ bí tích Truyền
Chức, linh mục được thánh hiến theo h́nh
ảnh Đức Ki-tô, thầy cả Thượng Phẩm
vĩnh viễn (x. Dt 5,1-10; 7,24; 9,11-28), để rao
giảng Tin Mừng, chăm sóc tín hữu và cử hành
việc phụng tự Thiên Chúa với tư cách tư
tế đích thực của Tân Ước" (x. LG 28).
1565 (849) Do bí tích Truyền Chức, các linh
mục tham dự vào sứ mạng phổ quát Đức Ki-tô
trao cho các tông đồ. "Ơn huệ thiêng liêng các ngài
nhận lănh trong bí tích Truyền Chức, chuẩn bị cho
các ngài không phải cho một sứ mệnh giới
hạn và thu hẹp nào đó, nhưng cho một sứ
mệnh cứu rỗi rất rộng lớn và bao quát
"đến tận cùng trái đất" (x. PO 10);
"sẵn sàng đi rao giảng Tin Mừng ở bất
cứ nơi nào" (x. OT 20).
1566 (1369
611) "Các ngài thực thi thánh
vụ ḿnh cách tuyệt hảo nhất là trong thánh lễ
hoặc cộng đồng tạ ơn, trong đó, các ngài
thay thế Đức Ki-tô công bố mầu nhiệm của
Chúa, kết hợp những ước nguyện của tín
hữu vào hy tế của thủ lănh họ và trong hy
tế thánh lễ, hiện tại hoá và áp dụng hy tế
duy nhất của Tân Ước, là hy tế tinh tuyền
đă một lần tự dâng hiến lên Chúa Cha, cho tới
ngày Chúa trở lại" (x. LG 28). Toàn bộ thừa tác
vụ tư tế của các ngài nhận được
sức mạnh từ hy tế duy nhất này.
1567 (1462
2179) "Là cộng sự viên
khôn ngoan, là phụ tá và là dụng cụ của hàng giám
mục, linh mục được kêu gọi để
phục vụ Dân Thiên Chúa. Các ngài hợp với giám mục
ḿnh tạo thành linh mục đoàn duy nhất với
nhiều chức vụ khác nhau. Trong mỗi cộng đoàn
tín hữu địa phương, linh mục là hiện
thân của giám mục mà các ngài hằng liên kết với
ḷng tin tưởng và quảng đại, lănh nhận
phần chức vụ cùng chia sẻ nỗi lo lắng
của giám mục và hằng ngày ân cần thi hành chức
vụ ấy" (x. LG 28). Các linh mục chỉ có thể
thi hành phận vụ khi tùy thuộc vào giám mục và
hiệp thông với giám mục. Lời hứa vâng phục
giám mục khi chịu chức và cái hôn b́nh an của giám
mục vào cuối nghi thức truyền chức, cho
thấy giám mục nhận các linh mục như cộng
sự viên, như con cái, như anh em, như bạn hữu;
v́ thế, linh mục phải đáp lại bằng ḷng yêu
mến và vâng phục.
1568 (1537) "Khi gia nhập hàng linh mục
nhờ bí tích Truyền Chức, tất cả các linh
mục liên kết mật thiết với nhau bằng
một t́nh huynh đệ do bí tích; nhưng đặc
biệt trong một giáo phận, khi được chỉ
định phục vụ dưới quyền giám mục
của ḿnh, các ngài hợp thành một linh mục đoàn duy
nhất" (x. PO 8). Tính duy nhất của linh mục
đoàn được biểu lộ qua một tập quán
trong phụng vụ: sau giám mục, các linh mục
đặt tay lên đầu tân linh mục trong lễ nghi
phong chức.
Phó tế - "để phục
vụ"
1569 "Ở bậc thấp hơn
nữa của hàng giáo phẩm, có các phó tế, người
đă được đặt lên, không phải để
lănh nhận chức vụ linh mục, nhưng để
phục vụ" (x. LG 229; x.CD 15). Khi phong chức phó
tế, chỉ ḿnh giám mục đặt tay. Điều này cho
thấy phó tế được liên kết đặc
biệt với giám mục trong trách nhiệm "phục
vuề" (x. Thánh Hi-pô-li-tô, Truyền thống tông
đồ 8).
1570 (1121) Các phó tế tham dự cách
đặc biệt vào sứ mạng và ân sủng của
Đức Ki-tô (x. LG 41; AA 16). Bí tích Truyền Chức in trong
họ một ấn tín vĩnh viễn làm cho các ngài nên
đồng h́nh đồng dạng với Đức Ki-tô,
Đấng trở thành "người phục vụ",
nghĩa là tôi tớ của mọi người (x. Mc 10,45;
Lc 22,27; thánh Pô-ly-ca-pô, thư gửi tín hữu Phi-líp).
Một trong các phận vụ phó tế là phụ giúp các giám
mục và linh mục trong việc cử hành mầu
nhiệm thánh, nhất là thánh lễ, trao Ḿnh Thánh Chúa,
chứng kiến và chúc lành cho đôi hôn phối, công bố
và rao giảng Tin Mừng, chủ tọa lễ nghi an táng và
đặc biệt là việc bác ái (x. LG 29; SC 35, 4; AG 16).
1571 (1579) Từ Công đồng Va-ti-ca-nô II,
Giáo Hội La-tinh tái lập chức phó tế như
"một bậc riêng và vĩnh viễn thuộc phẩm
trật" (x. LG 29). C̣n Giáo Hội Đông Phương vẫn
duy tŕ chức vụ này từ xưa. Chức phó tế
vĩnh viễn có thể được ban cho người
nam đă lập gia đ́nh, đă góp phần quan trọng
giúp Hội Thánh chu toàn sứ mạng. Thật là thích
hợp và hữu ích khi có những người chu toàn
chức vụ phó tế của Hội Thánh cả trong
đời sống mục vụ và phụng vụ cũng
như trong công tác xă hội và bác ái, "được thêm
mạnh mẽ nhờ việc đặt tay" lưu
truyền từ thời các tông đồ và được
kết hợp chặt chẽ với bàn thánh hơn,
để họ chu toàn thừa tác vụ của ḿnh
một cách hữu hiệu hơn nhờ ơn bí tích
của chức phó tế (x. AG 16).
IV- CỬ HÀNH BÍ TÍCH
1572 V́ tầm quan trọng đối
với đời sống Giáo Hội địa
phương, nếu có thể được nên có
nhiều tín hữu tham dự lễ phong chức giám mục,
linh mục và phó tế. Lễ phong chức nên cử hành
một cách long trọng vào ngày Chúa nhật và tại nhà
thờ Chánh Toà. Nghi thức phong chức giám mục, linh
mục và phó tế đều diễn tiến như nhau và
được cử hành trong Thánh lễ.
1573
1574 (1294
769) Như các bí tích khác, nghi
lễ phong chức cũng có những nghi thức phụ.
Tuy rất khác nhau trong những truyền thống phụng
vụ, nhưng các nghi thức phụ này đều
diễn đạt nhiều khía cạnh của ân sủng
bí tích. Trong nghi lễ La-tinh, có những nghi thức khai
mạc gồm việc giới thiệu và tuyển chọn
tiến chức, huấn dụ của giám mục, khảo
hạch tiến chức, kinh cầu các thánh. Những nghi
thức khai mạc xác nhận ứng viên được
tuyển chọn đúng theo tập tục của Hội
Thánh, và chuẩn bị cho nghi thức phong chức. Sau nghi
thức phong chức, c̣n có những nghi thức biểu
trưng dùng để diễn tả và hoàn tất mầu
nhiệm vừa cử hành: tân giám mục và tân linh mục
được xức dầu thánh, biểu trưng cho
việc Thánh Thần xức dầu cách đặc biệt
làm cho thừa tác vụ của các ngài được
hiệu quả; vị tân giám mục nhận sách Phúc Âm,
nhẫn, mũ và gậy như dấu chỉ cho sứ
mạng tông đồ của ngài là rao giảng Lời Chúa,
trung thành với Hội Thánh là Hiền Thê của Đức
Ki-tô, và là mục tử chăm sóc đoàn chiên Chúa; tân linh
mục lănh nhận đĩa và chén thánh, dùng để dâng
"lễ vật của Dân Thánh" lên Thiên Chúa; tân phó
tế nhận sách Phúc Âm v́ sứ mạng của ngài là rao
giảng Phúc Âm.
V- THỪA TÁC VIÊN BÍ TÍCH
1575 (857) Chính Đức Ki-tô đă tuyển
chọn và cho các tông đồ tham dự vào sứ mạng
và quyền bính của Người. Khi lên ngự bên hữu
Chúa Cha, Người không bỏ rơi đoàn chiên nhưng
luôn nhờ các tông đồ, giữ ǵn, che chở và
hướng dẫn đoàn chiên đó nhờ các mục
tử ngày nay vẫn tiếp tục công tŕnh của
Người (x. MR, kinh tiền tụng lễ các Tông
đồ I). Chính Đức Ki-tô cho kẻ này làm tông
đồ, kẻ khác làm mục tử (x. Ep 4,11),
Người tiếp tục hoạt động như
thế qua các giám mục (x. LG 211).
1576 (1536) V́ bí tích Truyền Chức là bí tích
ban thừa tác vụ tông đồ, nên chỉ các giám
mục, với tư cách là những người kế
nhiệm các tông đồ có quyền ban "hồng ân thiêng
liêng" (x. LG 21) và "hạt giống tông đồ"
(x. LG 20). Các giám mục được tấn phong thành
sự, nghĩa là trong chuỗi kế nhiệm tông
đồ, có quyền tấn phong thành sự ba cấp
bậc của bí tích Truyền Chức (x. DS 794 & 8022; CIC,
khoản 1012; CCEO, khoản 744; 747).
VI- THỤ NHÂN BÍ TÍCH
1577 (551
861 862) "Chỉ
người nam đă chịu phép rửa tội mới
được lănh nhận bí tích Truyền Chức" (x.
CIC, khoản 1024) cách thành sự. Chúa Giê-su đă tuyển chọn
những người nam để lập nhóm Mười
Hai Tông Đồ (x. Mc 3,14-19; Lc 6,12-16) và các tông đồ
cũng làm như vậy khi tuyển chọn các cộng
sự viên (x.1Tm 3,11-13; 2Tm 1-6; Tt 1,5-9) để tiếp
nối sứ mạng của ḿnh (Thánh Cơ-lê-măng thành
Rô-ma, thư gửi tín hữu Cô-rin-tô 42,4; 44,3). Giám mục
đoàn cùng với các linh mục hiệp nhất với các
ngài trong chức tư tế, hiện tại hoá nhóm
Mười Hai cho đến ngày Chúa lại đến.
Hội Thánh bị ràng buộc với sự chọn
lựa của Chúa, nên không thể phong chức cho
người nữ (x.MD 26-27; CDF; décl.
"Inter.insigniores").
1578 (2121) Không ai có quyền đ̣i
được chịu chức thánh. Không ai được
coi ḿnh là xứng đáng với chức vụ này. Phải
được Chúa kêu gọi (x.Dt 5,4). Ai thấy ḿnh có
những dấu hiệu được Chúa kêu gọi lănh
nhận thừa tác vụ thánh, phải khiêm tốn tŕnh bày
nguyện vọng lên giáo quyền. Giáo quyền có trách nhiệm
và quyền gọi một người lănh nhận chức
thánh. Như mọi ân sủng, bí tích này chỉ
được lănh nhận như một hồng ân
nhưng không.
1579 (1618
2233) Trong Giáo Hội La-tinh,
trừ các phó tế vĩnh viễn, mọi thừa tác viên
có chức thánh thường được tuyển
chọn từ những người nam sống độc
thân và có ư giữ độc thân "v́ Nước
Trời" (Mt 19,12). Được mời gọi tận
hiến cho Chúa để "lo việc của
Người" (x.1Cr 7,32), các ngài hiến thân trọn
vẹn cho Thiên Chúa và con người. Đời sống
độc thân là dấu chỉ của sự sống
mới mà các thừa tác viên của Hội Thánh
được thánh hiến để phục vụ.
Nếu hân hoan đón nhận đời sống độc
thân này, các ngài sẽ loan báo Nước Trời hữu
hiệu hơn (x.
1580 Trong các Giáo Hội Đông
Phương, từ nhiều thế kỷ nay, có một
tập tục khác: chỉ các giám mục được tuyển
chọn trong những người độc thân; c̣n linh
mục và phó tế có thể được tuyển
chọn trong những người đă lập gia đ́nh.
Tập tục này từ lâu vẫn được coi là
chính đáng. Các linh mục này thi hành thừa tác vụ
hữu hiệu giữa cộng đoàn (x.
Ấn tín vĩnh viễn
1581 (1548) Nhờ ân sủng đặc
biệt của Chúa Thánh Thần, bí tích này làm cho thụ nhân
nên giống Đức Ki-tô để trở thành khí cụ
phục vụ Hội Thánh Người. Nhờ chức
thánh, các ngài có thể thi hành chức vụ của Đức
Ki-tô là Đầu Hội Thánh trong ba nhiệm vụ tư
tế, ngôn sứ và vương đế.
1582 (1121) Như trường hợp bí tích
Thánh Tẩy và Thêm Sức, việc tham dự vào chức
vụ của Đức Ki-tô nhờ bí tích Truyền Chức dù
được lănh nhận một lần ở mỗi
cấp. Bí tích Truyền Chức cũng in một ấn tín
thiêng liêng vĩnh viễn nên không thể lănh nhận
nhiều lần hay lănh nhận tạm thời (x. CĐ Trentô:
DS 1767; LG 21; 28;29;
1583 Người lănh nhận chức
thánh thành sự, v́ lư do hệ trọng, có thể
được chước miễn những bổn
phận và chức vụ gắn liền với chức
thánh hay bị cấm thi hành chức vụ (x. CIC, khoản
290-293; 1336, triệt 1, s3.s5; 1338, triệt 2), nhưng không
thể trở về bậc giáo dân đúng nghĩa (x. CĐ
Trentô: DS 1774) v́ ấn tín bí tích Truyền Chức không
thể xoá bỏ được. Ơn gọi và sứ
mạng đă lănh nhận trong ngày chịu chức thánh
vẫn tồn tại măi măi.
1584 (1128) Nói cho cùng, chính Đức Ki-tô hành
động và thực hiện ơn Cứu Độ qua
thừa tác viên có chức thánh, nên dù vị này bất
xứng, cũng không ngăn cản được Người
hành động (x. CĐ Trentô: DS 1612;DS 1154). Thánh Âu-tinh đă nói
cách mạnh mẽ:
(1550) Thừa tác viên kiêu căng sẽ
bị liệt vào hàng ma quỷ. Hồng Ân Đức Ki-tô không
v́ thế mà bị ô nhiễm. Dù chảy qua người
bất xứng, ơn Chúa vẫn tinh tuyền, vẫn làm
cho đất đai ph́ nhiêu... Sức thiêng của bí tích
khác nào ánh sáng: những ai cần được soi sáng
sẽ nhận được ánh sáng tinh tuyền, v́ ánh sáng
có ngang qua kẻ nhơ bẩn, th́ ánh sáng cũng không bị
nhơ bẩn (Tin Mừng thánh Gio-an 5,15).
Ơn Chúa Thánh Thần
1585 Ơn riêng Chúa Thánh Thần
được ban trong bí tích này làm cho thụ nhân vừa nên
giống, vừa nên thừa tác viên của Đức Ki-tô là
Thượng Tế, Thầy Dạy và Mục Tử.
1586 (2448) Giám mục lănh nhận
trước tiên là ơn sức mạnh ("Thánh Thần
Thủ Lănh": lời nguyện tấn phong giám mục
trong nghi lễ La-tinh), để ngài can đảm và khôn
ngoan bảo vệ và hướng dẫn Hội Thánh như
người cha và người mục tử quảng
đại yêu thương mọi người, nhất là
những người nghèo khổ, bệnh tật, thiếu
thốn (x. CD 1316). Ơn này thúc đẩy ngài loan báo Tin
Mừng cho mọi người, trở nên mẫu mực
cho đoàn chiên, đi tiên phong trên đường thánh
thiện bằng cách kết hiệp với Đức Ki-tô
Tư Tế và Hiến Lễ trong bí tích Thánh Thể, dám
hiến mạng sống v́ đoàn chiên.
1558 Lạy Cha! Đấng hằng
thấu suốt các tâm hồn, xin ban ơn cho tôi tớ mà
Cha đă chọn làm giám mục để ngài hướng
dẫn đoàn chiên thánh, và chu toàn tốt đẹp
chức tư tế cao cả bằng cách ngày đêm
phụng sự Cha, xin cho ngài luôn bày tỏ dung mạo nhân
từ của Cha và dâng lễ vật của Hội Thánh lên
Cha; nhờ chức tư tế cao cả, xin cho ngài
quyền tha thứ tội lỗi theo lệnh truyền
của Cha, phân phối các chức vụ theo ư Cha và dùng
quyền Cha ban cho các tông đồ mà tháo cởi mọi dây
ràng buộc, ước chi ngài được đẹp
ḷng Cha nhờ tấm ḷng trong sạch và dịu hiền
như hương thơm dâng lên Cha, nhờ Đức Giê-su
Ki-tô, Con Cha... (x Thánh Hi-pô-li-tô , truyền thống Tông đồ
3).
1587 (1564) Kinh nguyện riêng của nghi
lễ By-zan-tin làm nổi bật ơn Chúa Thánh Thần ban
cho người chịu chức linh mục. Khi đặt
tay, vị giám mục nói:
Lạy
Chúa, xin ban tràn đầy Thánh Thần xuống cho
người được Chúa thương nâng lên hàng linh
mục để ngài xứng đáng đứng
trước bàn thờ Chúa, loan báo Tin Mừng Nước
Chúa, chu toàn việc phục vụ Lời Chân Lư, dâng lên Cha
của lễ và hy tế thiêng liêng, canh tân Dân Cha bằng
nước tái sinh, để ngài được gặp
Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Cha là Thiên Chúa và là Đấng
Cứu độ chúng con trong ngày Người quang lâm và
nhờ ḷng nhân từ của Cha, được lănh
nhận phần thưởng v́ đă trung thành với
chức vụ (Euchologion).
1588 (1569) "Được ân sủng bí tích
bồi bổ, các phó tế hiệp thông với giám mục
và linh mục đoàn, chăm sóc dân Thiên Chúa, với "vai
tṛ phục vu" trong phụng vụ, trong việc rao
giảng và bác ái" (x. LG 29).
1589 Đứng trước ơn thánh cao
cả và chức vụ tư tế, các thánh tiến sĩ
tha thiết mời gọi những người lănh
nhận chức thánh hoán cải để sống xứng
đáng với Đấng đă dùng bí tích đặt họ làm
thừa tác viên. V́ thế, thánh Ghê-gô-ri-ô thành Na-di-a-nô khi c̣n
là linh mục trẻ, đă kêu lên:
(460) Trước tiên phải thanh
luyện ḿnh rồi mới thanh luyện kẻ khác,
phải học rồi mới dạy dỗ, phải
trở nên ánh sáng rồi mới chiếu soi, phải đến
với Chúa rồi mới kéo kẻ khác được,
phải tự thánh hoá mới thánh hoá kẻ khác, phải
đưa tay dẫn dắt và cho những lời khuyên
bảo khôn ngoan (x. Or 2,71). Tôi biết chúng ta là thừa tác
viên của ai, chúng ta ở địa vị nào, chúng ta
hướng về ai. Tôi biết Thiên Chúa cao cả và con
người yếu đuối, và biết cả sức
lực của con người (x. sđd 74). Vậy linh
mục là ai ? Là người bảo vệ chân lư, được
đứng chung với các thiên thần, cùng ca hát với các
tổng lănh thiên thần, mang lễ vật lên bàn thờ
thiên quốc, chia sẻ chức tư tế với Đức
Ki-tô, canh tân vạn vật, phục hồi h́nh ảnh Thiên
Chúa trong vũ trụ, tái tạo thế giới cho trời
mới đất mới; nói cho cùng, ngài được tôn
vinh hơn).
(1551) Cha thánh xứ Ars nói: "Linh
mục tiếp nối công tŕnh cứu độ trên trái
đất..." "Nếu hiểu rơ linh mục là ai,
người ta sẽ chết không phải v́ sợ hăi, mà v́
yêu mến..." "Linh mục chính là t́nh thương
của Thánh Tâm Chúa Giê-su" (Nodet, Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê).
TÓM LƯỢC
1590 Thánh Phao-lô nói với Ti-mô-thê môn
đệ của ḿnh: "Tôi nhắc anh phải khơi
lại đặc sủng của Thiên Chúa, đặc
sủng anh đă nhận được khi tôi đặt
tay trên anh" (2Tm 1,6) và "Ai mong được làm giám
quản, người ấy ước muốn một
nhiệm vụ cao cả" (1Tm 3,1). Ngài nói với Ti-tô:
"Tôi đă để anh ở lại đảo Kê-ta,
chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và
đặt những kỳ mục trong mỗi thành như
tôi đă truyền cho anh" (Tt 1,5).
1591 Toàn thể Hội Thánh là một
dân tư tế. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, mọi tín
hữu tham dự vào chức tư tế của Đức
Ki-tô. Sự tham dự này được gọi là
"chức tư tế cộng đồng". Trên
nền tảng của chức tư tế cộng
đồng và để phục vụ chức tư
tế này, c̣n có sự tham dự khác vào sứ mạng
của Đức Ki-tô, đó là chức tư tế thừa
tác được trao ban qua bí tích Truyền Chức,
với trách nhiệm phục vụ trong cộng đoàn nhân
danh Đức Ki-tô và thi hành chức vụ thủ lănh của
Người.
1592 Tự bản chất, chức
tư tế thừa tác khác với chức tư tế
cộng đồng, v́ ban cho thụ nhân quyền thánh
chức để phục vụ các tín hữu. Các thừa
tác viên có chức thánh phục vụ dân Chúa qua việc
giảng dạy, cử hành Phụng vụ và hướng
dẫn Mục vụ.
1593 Từ ban đầu, thừa tác
vụ thánh được trao ban và thể hiện theo ba
bậc: giám mục, linh mục và phó tế. Các thừa tác
vụ được trao ban qua bí tích truyền chức
không thể thiếu được cho cấu trúc hữu
cơ của Hội Thánh: không thể quan niệm một
Hội Thánh mà không có giám mục, linh mục và phó tế (x.
Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, Thơ gửi Tra-li-a-nô, 3,1).
1594 Giám mục lănh nhận cách tṛn
đầy bí tích Truyền Chức. Qua đó, các ngài gia
nhập giám mục đoàn và trở thành thủ lănh hữu
h́nh của Hội Thánh địa phương
được giao cho các ngài. Với tư cách là
người kế nhiệm các tông đồ và là thành viên
của giám mục đoàn, các giám mục chia sẻ trách
nhiệm tông đồ và sứ mạng của toàn thể
Hội Thánh dưới quyền Đức Giáo Hoàng, Đấng
kế nhiệm thánh Phê-rô.
1595 Các linh mục liên kết với
giám mục trong phẩm chức tư tế và tùy thuộc
các ngài trong công tác mục vụ. Các linh mục
được mời gọi để trở thành
cộng sự viên khôn ngoan của các giám mục, họp
thành linh mục đoàn quanh giám mục, cùng chia sẻ trách
nhiệm với ngài về giáo hội địa phương.
Các linh mục được giám mục trao trách nhiệm
chăm sóc một cộng đoàn giáo xứ, hay chỉ
định một công việc phục vụ Hội Thánh.
1596 Các phó tế là những thừa
tác viên được phong chức để phục
vụ Hội Thánh. Các phó tế không có chức tư tế
thừa tác, nhưng qua việc phong chức, các ngài lănh
nhận nhiệm vụ quan trọng trong thừa tác vụ
rao giảng Lời Chúa, lo việc phụng tự, chăm
sóc cộng đoàn và thực thi bác ái. Đó là những
nhiệm vụ các ngài phải chu toàn dưới quyền
mục vụ của giám mục.
1597 Bí tích Truyền Chức
được trao ban qua việc đặt tay của giám
mục. Sau đó là lời nguyện phong chức trọng
thể, cầu xin Chúa ban cho tiến chức những ân
sủng cần thiết cho thừa tác vụ. Bí tích
Truyền Chức in ấn tín vĩnh viễn.
1598 Hội Thánh chỉ truyền
chức cho người nam đă được rửa tội
sau khi kiểm tra chắc chắn họ có khả năng
thi hành chức vụ được giao. Chỉ giáo
quyền có trách nhiệm và có quyền chọn một
người lănh nhận chức thánh.
1599 Trong Giáo Hội La-tinh,
thường chỉ truyền chức linh mục cho các
ứng viên tự nguyện sống độc thân và công
khai biểu lộ ư muốn này v́ yêu mến Nước
Trời và phục vụ tha nhân.
1600 Chỉ có giám mục mới đủ
thẩm quyền tấn phong ba cấp bậc của bí tích
Truyền Chức.