1601 "Do hôn ước,
người nam và người nữ tạo nên một
cộng đồng sống chung suốt đời, tự
bản tính hôn ước hướng về thiện ích của
đôi vợ chồng và việc sinh sản cùng giáo dục
con cái. Đức Ki-tô đă nâng hôn ước giữa những
người đă chịu phép Thánh Tẩy lên hàng bí tích"
(x. CIC, khoản 1055, triệt 1).
I- HÔN NHÂN TRONG Ư ĐỊNH CỦA
THIÊN CHÚA
1602 (369,
796) Kinh Thánh
mở đầu với việc Thiên Chúa tạo dựng
người nam và người nữ theo h́nh ảnh và
giống như Người (x. St 1,26-27) và kết thúc
với viễn ảnh về "đám cưới Con
Chiên" (x. Kh 19,7.9). Từ đầu đến cuối,
Kinh Thánh nói về hôn nhân và "mầu nhiệm" hôn nhân,
về việc thiết lập và ư nghĩa mà Thiên Chúa đă
ban cho nó, về nguồn gốc và mục đích của hôn
nhân, về những biến chuyển qua ḍng lịch sử
cứu độ, về những khó khăn do tội và
việc canh tân trong Chúa (1Cr 7,39), trong Giao
Ước Mới giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh (x. Ep
5,31-32).
Hôn nhân trong trật tự tạo
thành
1603
1604 (355) V́ yêu thương, Thiên Chúa đă
dựng nên con người và mời gọi con người
đi vào t́nh thương, đó là ơn gọi nền
tảng và bẩm sinh của con người. Con
người được dựng nên theo h́nh ảnh và
giống như Thiên Chúa (x. St 1,27) là T́nh
Yêu (x. 1Ga 4,8.16). V́ Chúa đă dựng nên
người nam và người nữ, nên t́nh yêu hỗ
tương giữa họ trở thành h́nh ảnh của
t́nh yêu tuyệt đối và bền vững mà Thiên Chúa dành
cho con người. Dưới mắt Đấng Tạo
Hóa th́ t́nh yêu này tốt, rất tốt (x. St 1,31).
Thiên Chúa chúc phúc cho t́nh yêu hôn nhân để nó
được trở nên sung măn và thể hiện trong
việc bảo tồn công tŕnh sáng tạo: "Thiên Chúa chúc
phúc cho họ, Người phán: hăy sinh sôi nảy nở cho
đầy mặt đất và thống trị mặt
đất" (St 1,28).
1605
Hôn nhân dưới ách tội
lỗi
1606 Mọi người
đều có kinh nghiệm về sự dữ chung quanh ḿnh
và nơi chính ḿnh. Kinh nghiệm này cũng rơ
trong các mối tương quan giữa người nam và
người nữ. Qua các thời
đại, sự hiệp nhất của hôn nhân bị
đe dọa bởi bất hoà, óc thống trị, bất
trung, ḷng ghen tương và những xung đột có
thể đưa đến hận thù và đoạn
tuyệt. Sự xáo trộn này có thể bộc lộ
nhiều hay ít và có thể khắc phục nhiều ít tùy theo văn hoá, thời đại và cá nhân,
nhưng h́nh như đây là chuyện chung của nhân
loại.
1607 (1849 400) Theo đức tin, xáo trộn
đau xót này không xuất phát từ bản tính của
người nam và người nữ, cũng không do bản
chất của các mối tương quan giữa họ, mà
do tội lỗi. Sự đổ vỡ với Thiên Chúa do
nguyên tội dẫn đến hậu quả là phá vỡ sự
hiệp thông nguyên thủy giữa người nam và
người nữ. Tương quan giữa hai người
bị xáo trộn do việc đổ lỗi cho nhau (x. St
3,12); sự hấp dẫn phái tính là hồng ân riêng của
Đấng Sáng Tạo (x. St 2,22) biến thành tương quan
thống trị và ham muốn (x. St 3,16b); việc sinh sôi
nảy nở và thống trị mặt đất (x. St
1,28) vốn là ơn gọi cao đẹp của
người nam và người nữ, trở nên nặng
nề v́ những đau đớn khi sinh con và cực
nhọc khi kiếm ăn (x. St 3,16-19).
1608 (55) Trật tự
của công tŕnh sáng tạo vẫn tồn tại dù bị
xáo trộn nặng nề. Để chữa lành những
vết thương do tội lỗi, người nam
cũng như người nữ cần đến Chúa
trợ giúp bằng ân sủng mà với ḷng nhân hậu vô
biên, Người không bao giờ từ chối ban cho họ
(St 3,21). Không có sự
trợ giúp này, người nam và người nữ không
thể đạt tới sự hoà hợp trong cuộc
sống như Thiên Chúa đă muốn ngay từ "ban
đầu khi dựng nên họ".
Hôn nhân trong Cựu Ước
1609 (410) Thiên Chúa nhân
từ không bỏ con người tội lỗi. Những
đau khổ do tội như "đau đớn khi sinh
con" (x. St 3,16), lao động
"đổ mồ hôi trán" (St 3,19) là những
phương thuốc giảm bớt những tác hại
của tội. Sau khi con người sa
ngă, hôn nhân giúp vượt thắng t́nh trạng co cụm,
ích kỷ, t́m khoái lạc riêng để sẵn sàng mở
ra với tha nhân, tương trợ và hiến thân cho nhau.
1610 (1963 2387) Ư thức
đạo đức về sự duy nhất và bất
khả phân ly của hôn nhân được phát triển
dần trong Cựu Ước. Tục đa thê của các
tổ phụ và vua chúa chưa được đẩy
lui rơ rệt. Nhưng luật Mô-sê bênh vực
người nữ khỏi bị người nam áp
chế. Dầu vậy, như Đức Ki-tô nói luật
Cựu Ước c̣n mang những dấu vết của
"sự cứng ḷng" của người nam, do đó
Mô-sê đă cho phép bỏ vợ (x. Mt 19,8; Đnl 24,1).
1611 (219,2380 2361) Khi nh́n
giao ước của Chúa với Ít-ra-en dưới h́nh
ảnh của một t́nh yêu hôn nhân độc hữu và
chung thủy (x. Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31, Ed 16;23), các ngôn
sứ đă dọn ḷng Dân Tuyển Chọn để
họ ư thức sâu xa về tính duy nhất và bất
khả phân ly của hôn nhân (x. Ml 2,13-17). Sách Rút và Tô-bi-a
đă nêu lên những chứng từ cảm động
về ư nghĩa cao qúy của hôn nhân, của ḷng chung thủy và sự âu yếm của vợ
chồng. Truyền thống luôn nhận thấy trong sách
Diễm Ca lời diễn tả t́nh yêu con người theo
nghĩa là phản ánh t́nh yêu của Thiên Chúa, một t́nh yêu
"mănh liệt như sự chết" mà "thác lũ
không dập tắt được" (Dc 8,6-7).
Hôn nhân trong Chúa
1612 (521) Giao ước
giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en theo h́nh ảnh hôn nhân, chuẩn
bị một giao ước mới vĩnh cửu. Trong giao ước này, Con Thiên Chúa khi nhập
thể và hiến mạng ḿnh đă liên kết với toàn
nhân loại được Người cứu chuộc (x.
GS 22). Qua đó, Người chuẩn bị cho
tiệc cưới của Con Chiên ( Kh
19,7.9)
1613 Khởi đầu
đời sống công khai, Đức Ki-tô thực hiện
dấu chỉ đầu tiên trong lễ cưới, theo
lời yêu cầu của Mẹ Ma-ri-a (x. Ga 2,1-11). Hội Thánh coi việc Đức Ki-tô hiện
diện trong tiệc cưới Ca-na có một tầm quan
trọng đặc biệt. Hội Thánh
nh́n sự kiện này như Lời Chúa xác nhận hôn nhân là
việc tốt và công bố hôn nhân từ đây là dấu chỉ
hữu hiệu về sự hiện diện của
Đức Ki-tô.
1614 (2336 2382) Trong khi rao giảng, Đức Ki-tô
cho thấy rơ ràng ư nghĩa nguyên thủy của việc
phối hợp giữa người nam và người
nữ như thuở ban đầu Đấng Sáng Tạo
đă muốn. Việc Mô-sê cho phép bỏ vợ là một
nhượng bộ trước ḷng chai dạ đá
của người nam (Mt 19,8). Đúng ra,
sự phối hợp hôn nhân là bất khả phân ly: chính
Thiên Chúa đă quyết định như vậy:
"Sự ǵ Thiên Chúa đă kết hợp, loài người
không được phân ly" (Mt 19,6)
1615 (2364 1642) Khi Đức Ki-tô
nhấn mạnh rơ ràng hôn nhân là bất khả phân ly,
nhiều người ngỡ ngàng và coi đó là một
đ̣i hỏi không thể thực hiện được
(x. Mt 19,10). Tuy nhiên, Đức Ki-tô đă không
đặt cho các đôi vợ chồng một gánh quá
nặng không thể mang nổi (x. Mt 11, 29-30), nặng
hơn luật Mô-sê. Khi tái lập trật tự ban
đầu của công tŕnh sáng tạo đă bị tội
lỗi làm xáo trộn, Người đă ban sức mạnh
và ân sủng để các đôi vợ
chồng sống đời hôn nhân trong chiều kích mới
của Nước Thiên Chúa. Khi từ bỏ ḿnh và vác
thập giá theo Đức Ki-tô (x. Mc 8,34) các
đôi vợ chồng "có thể hiểu
được" (x. Mt 19,11) ư nghĩa nguyên thủy
của hôn nhân và sống đời hôn nhân nhờ sự
trợ giúp của Đức Ki-tô. Ân
sủng của hôn nhân Ki-tô giáo là hoa quả của Thánh Giá
Đức Ki-tô, nguồn mạch mọi đời sống
ki-tô hữu.
1616 Thánh Phao-lô cho thấy
điều đó khi nói: "Người làm chồng hăy yêu
thương vợ như Đức Ki-tô đă yêu thương
Hội Thánh, và hiến ḿnh v́ Hội Thánh để
Người thánh hoá Hội Thánh" (Ep 5,25-26). Ngài c̣n nói
thêm: "Chính v́ thế, người nam sẽ ĺa cha mẹ
mà gắn bó với vợ ḿnh và cả hai sẽ thành
một xương một thịt. Mầu
nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về
Đức Ki-tô và Hội Thánh" (Ep 5,31-32).
1617 (796) Toàn bộ đời sống Ki-tô
giáo mang dấu ấn của t́nh yêu "hôn nhân" giữa
Đức Ki-tô và Hội Thánh. Bí tích Thánh Tẩy, cửa ngơ
dẫn vào dân Thiên Chúa, đă là mầu nhiệm "hôn
nhân", nên cũng được gọi là "thanh
tẩy chuẩn bị hôn nhân" (x. Ep 5,26-27)
trước khi dự tiệc cưới là bí tích Thánh
Thể. Hôn nhân Ki-tô giáo là dấu chỉ hữu hiệu, là
bí tích của giao ước giữa Đức Ki-tô và Hội
Thánh. Hôn nhân giữa hai người đă được rửa
tội là một bí tích thực sự của Giao
Ước Mới, v́ biểu thị và thông ban ân sủng cho họ (x. DS 1800; CIC 1055, 2).
Khiết tịnh v́ Nước
Trời
1618 (2232 1579) Đức Ki-tô là
tr ọng tâm của toàn bộ đời sống Ki-tô giáo.
Phải coi trọng mối liên kết với Chúa hơn
mọi mối liên kết khác, dù là gia đ́nh hoặc xă
hội (x. Lc 14,26; Mc 10,28-31). Ngay thuở
ban đầu của Hội Thánh, đă có những
người nam và nữ từ bỏ sự tốt lành
của đời sống hôn nhân để theo Con Chiên bất
cứ nơi nào (x. Kh 14,4), chuyên lo việc
của Chúa, t́m cách làm đẹp ḷng Người (x. 1Cr
7,32), và sẵn sàng để đón Tân Lang đang
đến (x. Mt 25,6). Đức Ki-tô đă mời gọi
một số người sống theo
gương mẫu của Người:
"Có
những người không kết hôn v́ từ khi lọt ḷng
mẹ, họ đă không có khả năng; có những
người không thể kết hôn v́ bị người ta
hoạn; lại có những người tự ư không
kết hôn v́ Nước Trời. Ai hiểu
được th́ hiểu" (Mt 19,12).
1619 (922-924) Khiết
tịnh v́ Nước Trời là một hoa trái đặc
biệt của ân sủng bí tích Thánh Tẩy, một dấu
chỉ nổi bật về sự trổi vượt
của mối liên kết với Đức Ki-tô, sự nóng
ḷng chờ đợi Chúa lại đến, và là một
dấu chỉ nhắc nhớ hôn nhân là một thực
tại của một thế giới đang qua đi (x.Mc
12,25; 1Cr 7,31).
1620 (2349) Bí tích Hôn
Phối và đời sống Khiết Tịnh v́
Nước Trời đều phát xuất từ Đức
Ki-tô. Người đem lại cho hai lối sống này ư
nghĩa và ban ân sủng cần thiết để ở
bậc nào người ta cũng có thể sống đúng
theo thánh ư Người (x.Mt 19,3-12). Vừa phải đề cao đời sống
khiết tịnh v́ Nước Trời (x.LG 42; PC 12; OT 10)
vừa phải tôn trọng hôn nhân công giáo. Chẳng
vậy, chúng ta sẽ không hiểu được ư nghĩa
và giá trị của cả hai:
Nếu
hạ giá hôn nhân, th́ đồng thời hạ giá
đức khiết tịnh; nếu hôn nhân được
ca ngợi, th́ đức khiết tịnh cũng
được đề cao... Điều ǵ chỉ tốt khi
so sánh với điều xấu, th́ chưa phải là
tốt thật, nhưng nếu tốt hơn những
điều được công nhận là tốt, th́
mới là điều tuyệt hảo (Thánh Gio-an Kim
Khẩu, về sự Khiết Tịnh, 10,1;
x. FC 16).
Nghi thức bí tích Hôn Phối
1621 (1323 1368) Trong nghi lễ
La-tinh, hôn nhân giữa hai người công giáo thường
được cử hành trong thánh lễ, v́ các bí tích
đều liên hệ với mầu nhiệm Vượt
Qua của Đức Ki-tô (x. SC 61). Trong thánh
lễ, chúng ta tưởng niệm Giao Ước Mới,
trong đó Đức Ki-tô kết hiệp vĩnh viễn
với Hội Thánh là Hiền Thê được
Người yêu mến và hiến thân để thánh hoá (x.
LG 6). Do đó, bí tích Hôn Phối được cử
hành trong thánh lễ thật là thích hợp: đôi hôn
phối bày tỏ sự ưng thuận hiến thân cho nhau
bằng việc liên kết với Đức Ki-tô hiến thân
cho Hội Thánh, điều được hiện tại
hoá trong thánh lễ, và bằng việc rước lễ
để nhờ kết hợp với Ḿnh và Máu Đức
Ki-tô, họ "trở thành một thân thể" trong
Người (x. 1Cr 10,17).
1622 (1422) "Xét như
một hành vi bí tích để thánh hoá, Hôn Phối phải
được cử hành thế nào để bí tích
được thành sự, xứng đáng và sinh hiệu
qua" (x. FC 67). Do đó, đôi hôn phối nên lănh nhận
bí tích Giao Hoà để chuẩn bị cử hành bí tích Hôn
Phối.
1623 Theo truyền thống La-tinh,
chính đôi hôn phối là thừa tác viên ân sủng Đức
Ki-tô; họ ban bí tích Hôn Phối cho nhau khi họ bày tỏ
sự ưng thuận kết hôn trước mặt
Hội Thánh. Trong truyền thống các Giáo
Hội Đông Phương, linh mục hay giám mục chủ
lễ làm chứng việc đôi hôn phối trao đổi
lời ưng thuận kết hôn (x.CCEO 817), nhưng lời
chúc hôn của các ngài cũng cần thiết để bí
tích thành sự (x. CCEO 828).
1624 (736) Các
lễ nghi phụng vụ có nhiều lời nguyện xin
chúc lành và xin ơn Thánh Thần, khẩn cầu Chúa ban tràn
đầy ân sủng và phúc lộc cho đôi tân hôn,
đặc biệt cho người vợ. Nhờ lời
nguyện xin ơn Thánh Thần của bí tích này, đôi hôn
phối lănh nhận Chúa Thánh Thần là sự hiệp thông
t́nh yêu giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh (x. Ep 5,32). Chính Chúa
Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của họ,
là nguồn mạch t́nh yêu của họ, là sức mạnh
giúp họ chung thủy.
III- SỰ ƯNG THUẬN KẾT
HÔN
1625 (1734) Người kư
kết giao ước hôn nhân phải là một người
nam và một người nữ đă rửa tội,
tự do để kết hôn và công khai bày tỏ sự
ưng thuận kết hôn. "Tự do" nghĩa là:
·
không
bị ép buộc;
·
không
bị ngăn trở theo luật tự nhiên hay giáo luật
1626 (2201) Hội Thánh coi
việc hai người bày tỏ sự ưng thuận
kết hôn là yếu tố cần thiết "làm nên hôn
nhân" (x. CIC 1057, 1). Thiếu sự ưng
thuận này th́ không có hôn nhân.
1627 (1735) Sự ưng
thuận là "hành vi nhân linh, trong đó đôi vợ
chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau" (x.
GS 48,1); (x. CIC 1057, 2): "Anh nhận em làm vợ";
"Em nhận anh làm chồng" (x. OcM 45). Sự ưng
thuận này nối kết hai vợ chồng lại
với nhau, được thể hiện trọn vẹn
khi hai người "trở nên một thân thể" (x.
St 2, 24; Mc 10, 8; Ep 5,31).
1628 Sự ưng thuận phải là
hành vi ư chí của mỗi người phối ngẫu, không
bị cưỡng bức v́ bạo lực hay quá sợ hăi
do một nguyên cớ ngoại tại (x. CIC 1103). Không có
thế lực nhân loại nào có thể thay thế sự
ưng thuận này (x. CIC 1057, 1) .
Thiếu sự tự do, hôn nhân không
thành.
1629 V́ lư do này (hay những lư do khác làm
cho hôn nhân trở nên vô hiệu (x. CIC 1095-1107) , sau khi nhờ
toà án xét duyệt hoàn cảnh đầy đủ, Hội
Thánh có thể tuyên bố một hôn nhân nào đó là "vô
hiệu", nghĩa là hôn nhân ấy trước đó
đă không thành sự. Trong trường hợp này, hai
người được tự do kư kết một hôn
ước khác, dù vậy họ vẫn phải giữ
những nghĩa vụ tự nhiên xuất phát từ dây
ràng buộc trước (x. CIC 1071) .
1630 Linh mục (hay phó tế),
chứng giám nghi thức Hôn Phối, nhân danh Hội Thánh
nhận lời ưng thuận của đôi hôn phối và
chúc lành cho họ. Sự hiện diện của thừa tác
viên Hội Thánh (và của những người làm
chứng), cho thấy rơ ràng hôn nhân là một bậc sống
trong Hội Thánh.
1631 V́ lư do này, Hội Thánh thường
đ̣i buộc các tín hữu phải kết hôn theo thể
thức của Hội Thánh (x. CĐ Trentô: DS 1813-1816; CIC 1108).
Qui định này có những lư do sau:
·
(1069)
hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh, có
những nghĩa vụ và quyền lợi giữa đôi
vợ chồng và đối với con cái;
·
(1537)
bí tích Hôn Phối là một hành vi
phụng vuề. Do đó, nên cử hành trong nghi thức
phụng vụ công khai của Hội Thánh;
·
v́
hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh, nên
phải có sự chắc chắn (v́ thế buộc
phải có những người làm chứng);
·
(2365)
việc công khai bày tỏ sự ưng thuận bảo
vệ lời cam kết và giúp vợ chồng sống chung thủy.
1632 Chuẩn bị hôn nhân là
điều rất quan trọng để lời cam
kết của đôi hôn phối trở thành một hành vi
tự do và có trách nhiệm, cũng như hôn ước có được
nền tảng tự nhiên và siêu nhiên, vững chắc và lâu
dài:
·
(2206)Tấm
gương và bài học của cha mẹ cũng như
của các gia đ́nh là bước chuẩn bị ưu
tiên.
·
Các
vị mục tử và cộng đoàn tín hữu
được xem như là "gia đ́nh Thiên Chúa",
giữ một vai tṛ quan trọng không thể thay thế
được trong việc chuyển giao giá trị tự
nhiên và siêu nhiên của hôn nhân và gia đ́nh (x. CIC 1063). Nhất
là trong thời đại chúng ta, giới trẻ đă
phải chứng kiến những cảnh gia đ́nh tan
vỡ, việc chuẩn bị lại càng khẩn thiết
hơn:
(2350) Phải biết giáo dục thanh
thiếu niên hợp thời và hợp cách về phẩm
giá, phận sự và hành vi thể
hiện t́nh yêu vợ chồng, nhất là trong chính khung
cảnh gia đ́nh. Nhờ đó, một khi đă
được rèn luyện để giữ đức
khiết tịnh, đến tuổi thích hợp, họ có
thể tiến tới hôn nhân sau khi sống đúng
đắn giai đoạn đính hôn ( x.
GS 49,3).
Hôn phối hỗn hợp và khác
đạo
1633 Trong nhiều quốc gia,
thường có những hôn phối hỗn hợp (giữa
người công giáo và người được rửa
tội ngoài công giáo). T́nh trạng này đ̣i các
đôi vợ chồng cũng như các mục tử
phải lưu tâm đặc biệt. Trong
trường hợp hôn phối khác đạo (giữa
người công giáo và người chưa được rửa
tội) càng phải dè dặt hơn.
1634 (817) Hôn
nhân hỗn hợp có thể gặp nhiều khó khăn,
nhưng không phải là không thể vượt qua, nếu
họ cố gắng kết hợp những ǵ đă lănh
nhận nơi cộng đoàn của họ và cùng nhau
học hỏi để sống trung thành với Đức
Ki-tô. Dầu vậy, không được coi
thường những khó khăn trong hôn nhân hỗn hợp.
Những khó khăn này xuất phát từ
sự chia rẽ giữa các ki-tô hữu đến nay
vẫn chưa giải quyết được. Đôi vợ chồng có thể cảm nghiệm thảm
kịch các ki-tô hữu chia rẽ ngay trong gia đ́nh của
ḿnh. Hôn nhân khác đạo c̣n gặp
nhiều khó khăn hơn. Những
bất đồng quan điểm về đức Tin và
hôn nhân, cũng như những năo trạng tôn giáo khác nhau, có
thể dẫn đến những căng thẳng trong gia đ́nh,
nhất là về việc giáo dục con cái. Một nguy
hiểm khác là người ta có thể dửng dưng
về tôn giáo.
1635 Theo luật hiện hành của
Giáo Hội La-tinh, Hôn Phối hỗn hợp chỉ hợp
pháp khi có phép minh thị của giáo quyền ( x. CIC 1124), Hôn
phối khác đạo chỉ thành sự khi có phép chuẩn
minh thị ( x. CIC 1086.) . Muốn được phép hay
được chuẩn, hai đương sự phải
biết và chấp nhận những mục đích và
đặc tính chính yếu của hôn nhân và bên công giáo xác
nhận cam kết giữ đức tin của ḿnh, bảo
đảm cho con cái được rửa tội và giáo
dục trong Hội Thánh Công Giáo, cũng phải cho bên không
công giáo biết rơ những điều ấy (x. CIC 1125) .
1636 (821) Trong nhiều
miền, nhờ đối thoại đại kết,
một số cộng đoàn ki-tô hữu đă tổ
chức mục vụ chung cho các đôi hôn phối hỗn
hợp. Mục vụ này giúp các đôi vợ chồng này
biết sống hoàn cảnh đặc biệt của
họ dưới ánh sáng đức tin. Đồng
thời, cũng giúp họ lướt thắng các căng
thẳng giữa một bên là bổn phận vợ
chồng đối với nhau và một bên là bổn
phận đối với Giáo Hội của họ.
Mục vụ này phải khuyến khích triển khai các
điểm chung trong đức tin và tôn
trọng những điều c̣n phân cách họ.
1637 Trong trường hợp hôn
phối khác đạo, bên công giáo có trách nhiệm
đặc biệt: "Chồng ngoại đạo
được thánh hoá nhờ vợ và vợ ngoại
đạo được thánh hoá nhờ chồng có
đạo" (1Cr 7,14). Thật là một niềm vui
lớn cho bên công giáo và cho Hội Thánh nếu "việc
thánh hoá này" đưa người không công giáo tự
nguyện đón nhận đức tin Ki-tô giáo (x. 1Cr 7,16).
Chính t́nh yêu hôn nhân chân thành, việc khiêm tốn và kiên
nhẫn thực thi những nhân đức gia đ́nh và
siêng năng cầu nguyện có thể chuẩn bị cho người
không có đạo được ơn làm con Chúa.
IV- HIỆU QUẢ BÍ TÍCH HÔN
PHỐI
1638 "Do hôn phối hữu
hiệu, giữa vợ chồng phát sinh một mối dây
ràng buộc vĩnh viễn và độc nhất tự
bản chất. Ngoài ra, trong hôn phối Ki-tô giáo, do một
bí tích riêng biệt, vợ chồng được củng
cố và như thế được thánh hiến nhằm
tới thiên chức và những trách nhiệm của bậc
sống" (x. CIC 1134).
Dây Hôn Phối
1639 Chính Thiên Chúa đóng ấn xác
nhận lời giao ước qua đó hai người
ưng thuận kết hôn, tự hiến cho nhau và đón
nhận nhau (x. Mc 10,9). Từ hôn ước của họ
"phát sinh một định chế vững chắc theo
ư định của Thiên Chúa và có giá trị trước
mặt xă hội" (x. GS 48,1). Hôn
ước được liên kết với giao
ước Thiên Chúa kư kết với nhân loại: "T́nh
yêu vợ chồng đích thực được kết
nhập trong t́nh yêu Thiên Chúa" (x. GS 48,2).
1640 (2365) Dây hôn phối do chính Thiên Chúa liên
kết nên hôn nhân thành sự và hoàn hợp, giữa hai
người đă được rửa tội, không bao
giờ được tháo gỡ. Dây liên kết này là
kết quả của việc hai người tự
nguyện kết hôn và do sự hoàn hợp của hôn
phối. Đây là một thực tại không
thể đảo ngược và trở thành một giao
ước được Thiên Chúa Trung Tín bảo đảm.
Hội Thánh không có quyền nói ngược lại sự an bài khôn ngoan của Thiên Chúa (x. CIC 1141).
Ân sủng bí tích Hôn Phối
1641 "Các đôi vợ chồng Ki-tô
giáo được những ơn riêng cho bậc sống
của ḿnh trong Dân Chúa" (x. LG 11). Ân
sủng đặc biệt của bí tích Hôn Phối
kiện toàn t́nh yêu vợ chồng, củng cố sự
hiệp nhất bất khả phân ly của họ. Nhờ
ân sủng này, "họ giúp nhau nên thánh trong đời
sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con
cái" (x. LG 11; x.LG 41)
1642 (1615 796) Đức Kitô là
nguồn mạch của ân sủng này. "Tôi sẽ múc đâu ra sức
mạnh để nói cho thoả về niềm hạnh phúc
của cuộc hôn nhân được Hội Thánh lo
liệu, được lễ dâng xác nhận,
được lời chúc lành niêm ấn, được
các thiên thần công bố và được Cha trên trời
chuẩn y... Có đôi bạn nào đẹp bằng đôi
bạn Ki-tô hữu, được kết hiệp do cùng
một niềm hy vọng, cùng một ước nguyện,
cùng một nề nếp, cùng một công việc phục
vụ. Cả hai cùng là con một Cha, cùng phục vụ
một Chúa; không ǵ phân rẽ họ nổi, trong tinh
thần cũng như trong xác thịt; ngược lại,
họ là hai trong cùng một xác thịt. Ở
đâu có cùng một xác thịt, cũng có cùng một tinh
thần" (x. Tông Huấn Gia Đ́nh 13).
V- ÍCH LỢI VÀ Đ̉I HỎI CỦA
T̀NH YÊU HÔN NHÂN
1643 (2361) "T́nh yêu vợ chồng bao
gồm một tổng thể trong đó có đủ
mọi yếu tố cấu tạo nên ngôi vị: tiếng
gọi của thân xác và của bản năng, sức
mạnh của cảm tính và của ḷng yêu mến, khát
vọng của tinh thần và của ư chí; t́nh yêu
thương ấy nhắm đến một sự
hiệp nhất sâu xa về ngôi vị, không chỉ là
sự kết hiệp thành một thân xác, nhưng là sự
hiệp nhất đến độ chỉ c̣n một trái
tim, một linh hồn; t́nh yêu ấy đ̣i hỏi sự
bất khả phân ly và trung tín trao hiến cho nhau một
cách dứt khoát, nó mở ngỏ cho việc sinh sản.
Tắt một lời, đó chính là những yếu tố
thông thường của t́nh yêu vợ chồng nhưng
với một ư nghĩa mới mẻ, một ư nghĩa
không chỉ thanh luyện và củng cố những yếu
tố ấy nhưng c̣n nâng chúng lên cao đến
độ biến chúng thành lời diễn tả những
giá trị đặc biệt của Ki-tô giáo" (x. Tông
Huấn Gia Đ́nh 13).
Tính đơn nhất và bất
khả phân ly của Hôn Nhân
1644 Ngay tự bản chất, t́nh
yêu vợ chồng đ̣i hỏi sự đơn nhất
và bất khả phân ly cho cộng đoàn nhân vị bao trùm
toàn bộ đời sống họ. "Họ không c̣n là
hai, mà là một xương một thịt" (x. Mt 19,6; x St 2,24). "Họ
được mời gọi không ngừng lớn lên trong
t́nh hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày
với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn
vẹn cho nhau" (x. Tông Huấn Gia Đ́nh 19). Sự hiệp thông nhân vị này được củng
cố, được thanh luyện, và hoàn thiện nhờ
bí tích Hôn Phối đem lại sự hiệp thông trong
Đức Ki-tô. Sự hiệp thông này càng
thâm sâu hơn nhờ cùng chia sẻ một đức tin và
cùng đón nhận Ḿnh Thánh Chúa.
1645 (369) “Phải nh́n nhận phẩm giá cá
nhân b́nh đẳng giữa vợ chồng trong t́nh
tương ái trọn vẹn để nhờ đó,
biểu hiện rơ ràng tính đơn nhất của hôn nhân
đă được Chúa xác nhận" (x. GS 49,2). Tục
đa thê trái với phẩm giá b́nh đẳng này và với
t́nh yêu vợ chồng, v́ t́nh yêu vợ chồng có tính
đơn nhất và độc hữu (x.Tông Huấn Gia
Đ́nh 19).
Chung thủy trong t́nh yêu vợ
chồng (2364-2365)
1646 Tự bản chất, t́nh yêu hôn
nhân đ̣i hỏi hai vợ chồng phải chung thủy.
Đây là hệ quả của việc hai vợ chồng
tự hiến cho nhau. T́nh yêu đ̣i hỏi phải dứt
khoát, không được tạm bợ. "Sự liên
kết mật thiết vẫn là sự tự hiến
của hai người cho nhau, cũng như lợi ích
của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn
trung tín và đ̣i hỏi họ kết hợp với nhau
bất khả phân ly" (x. GS 48,1).
1647 Lư do sâu xa nhất đ̣i hỏi
hai vợ chồng phải chung thủy, căn cứ trên
sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước của
Người, sự trung tín của Đức Ki-tô với
Hội Thánh. Nhờ bí tích Hôn Phối, hai vợ chồng
được ban ơn để diễn tả và làm
chứng cho sự trung tín ấy. Do bí tích, tính bất
khả phân ly của hôn nhân tiếp nhận một ư
nghĩa mới và sâu xa hơn.
1648 Ràng buộc suốt đời
với một người khác có thể là một
điều khó và không thể thực hiện
được. Do đó, cần phải loan báo Tin Mừng:
Thiên Chúa đă yêu chúng ta bằng một t́nh yêu vĩnh
viễn và không bao giờ rút lại; t́nh yêu vợ chồng
được tham dự vào t́nh yêu này; t́nh yêu này
hướng dẫn và nâng đỡ họ; nhờ chung
thủy với nhau, họ có thể làm chứng nhân cho t́nh
yêu trung tín của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng của Thiên
Chúa, những đôi vợ chồng sống chứng từ
ấy, lắm lúc trong những hoàn cảnh rất khó
khăn, đáng được cộng đoàn Hội Thánh
biết ơn và nâng đỡ (x. Tông Huấn Gia Đ́nh 20).
1649 (2383) Có những hoàn cảnh thực
tế hai vợ chồng không thể tiếp tục
sống chung được v́ nhiều lư do khác nhau. Trong
những trường hợp này, Hội Thánh chấp
nhận để họ ly thân và không sống chung nữa.
Họ vẫn là vợ chồng trước mặt Thiên
Chúa và không được tự do để kết hôn.
Trong hoàn cảnh khó khăn, giải pháp tốt nhất,
nếu có thể, là ḥa giải với nhau. Cộng đoàn
tín hữu được mời gọi giúp họ sống
đời Ki-tô hữu trong hoàn cảnh ấy, trung thành
với dây liên kết hôn nhân không thể tháo gỡ
được (x. Tông Huấn Gia Đ́nh 83; CIC, khoản
1151-1155).
1650 (2384) Nhiều người Công Giáo,
ở một số quốc gia, đă ly dị và tái hôn theo
luật đời. Hội Thánh trung thành với lời
của Đức Ki-tô: "Ai bỏ vợ và cưới
người khác, là phạm tội ngoại t́nh; ai bỏ
chồng để lấy người khác th́ cũng
phạm tội ngoại t́nh" (x. Mc 10, 11-12). Nếu hôn
nhân lần đầu đă thành sự, Hội Thánh không
thể công nhận liên kết mới là thành sự. Nếu
những người đă ly dị, tái hôn theo luật
đời, họ rơi vào t́nh trạng khách quan đi
ngược lại luật Thiên Chúa. V́ thế, bao lâu c̣n
sống trong t́nh trạng này, họ không được
rước lễ. Cũng vậy, họ không thể đảm
nhận một số trách nhiệm trong Hội Thánh.
Chỉ những người hối hận v́ ḿnh đă vi
phạm đến dấu chỉ giao ước và sự
trung thành với Đức Ki-tô, và cam kết sống tiết
dục trọn vẹn, mới được giao ḥa
nhờ bí tích Thống Hối.
1651 Đối với những tín hữu
đang sống trong hoàn cảnh như vậy, vẫn
giữ đức tin và ao ước giáo dục con cái theo
tinh thần công giáo, linh mục và cộng đoàn phải có
thái độ ân cần đặc biệt, để
họ đừng coi như bị tách ĺa khỏi Hội
Thánh và nếp sống tín hữu mà họ có thể và
phải giữ v́ đă được rửa tội:
"Họ
được mời gọi nghe Lời Chúa, tham dự hy
tế thánh lễ, kiên tŕ cầu nguyện, góp phần vào
các công cuộc bác ái và các sáng kiến của cộng
đoàn để phục vụ công lư, giáo dục con cái
trong đức tin công giáo, vun trồng tinh thần sám
hối và làm các việc đền tội, để ngày
qua ngày thành khẩn nài xin ân sủng Thiên Chúa (x. Tông Huấn
Gia Đ́nh 84).
Sẵn
sàng đón nhận con cái Chúa ban (2366-2367)
1652 (972) "Tự
bản chất, chính định chế hôn nhân và t́nh yêu
lứa đôi quy hướng về việc sinh sản và
giáo dục con cái như chóp đỉnh hoàn thành hôn nhân"
(x. GS 48, 1):
"Con cái là ân huệ cao quư nhất
của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến
tạo hạnh phúc của cha mẹ. Thiên Chúa đă phán:
"Đàn ông ở một ḿnh không tốt" (St 2,18).
Người là Đấng: "... từ buổi đầu,
đă dựng nên một người nam và một
người nữ" (Mt 19,4); chính Người muốn
thông ban cho con người cộng tác một phần
đặc biệt vào công việc tạo dựng của
Người, Người đă chúc lành cho người nam
và người nữ rồi nói: "Các ngươi hăy
tăng gia, sinh sản" (St 1,28). Do đó, việc thể
hiện đích thực t́nh yêu vợ chồng cũng
như toàn thể tổ chức đời sống gia
đ́nh phát sinh từ việc thể hiện ấy,
đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm
sẵn sàng cộng tác với t́nh yêu của Đấng Tạo
Hóa và Cứu Thế, mặc dù không loại bỏ các
mục đích khác của hôn nhân. Nhờ đời
sống lứa đôi, Người làm cho gia đ́nh của
Người ngày càng tiến triển và phong phú" (x.GS 50,
1).
1653 (2231) T́nh
yêu vợ chồng c̣n phong phú nhờ những hoa quả
của đời sống luân lư, tinh thần và siêu nhiên
được cha mẹ truyền cho con cái qua việc giáo
dục (x. GE 3). Theo nghĩa này, mục tiêu nền tảng
của hôn nhân và gia đ́nh là phục vụ cho sự
sống (x. Tông Huấn Gia Đ́nh 28).
1654 Những gia đ́nh Chúa không ban cho con cái, vẫn có thể
sống đời hôn nhân đầy ư nghĩa, cả trên
b́nh diện tự nhiên cũng như b́nh diện đức
tin. Hôn nhân của họ có thể chiếu toả tinh thần
bác ái, đón nhận và hy sinh.
VI. GIA Đ̀NH
LÀ HỘI THÁNH THU NHỎ
1655 (759) Đức
Ki-tô đă muốn sinh ra và lớn lên trong gia đ́nh thánh
Giu-se và Mẹ Ma-ri-a. Hội Thánh là "gia đ́nh của
Thiên Chúa". Ngay từ đầu, Hội Thánh
được h́nh thành thường từ những
người "cùng với cả gia đ́nh", trở
thành tín hữu (x. Cv 18,8). Khi theo đạo, họ ao
ước cho "cả nhà" được ơn
cứu độ (x. Cv 16,3; 11,14). Những gia đ́nh tín
hữu này là những ḥn đảo mang sự sống Ki-tô
giữa một thế giới ngoại giáo.
1656 (2204) Ngày
nay, chúng ta đang sống trong một thế giới xa lạ
và đôi khi thù nghịch với đức tin. Gia đ́nh
tín hữu có tầm quan trọng bậc nhất v́ là những
ngọn đuốc đức tin sống động và chiếu
sáng. Công Đồng Va-ti-ca-nô II, dùng một thuật ngữ cổ,
gọi gia đ́nh là Hội Thánh thu nhỏ hay Hội Thánh tại
gia (Ecclesia domestica). "Trong gia đ́nh như một Hội
Thánh thu nhỏ, ước ǵ cha mẹ là những người
đầu tiên dùng gương lành và lời nói mà truyền
dạy đức tin cho con cái, cũng như cổ vơ
ơn gọi riêng của từng đứa con và phải
đặc biệt chăm sóc đến ơn kêu gọi
làm linh mục" (x. LG 11).
1657 (1268 2214 2685) Gia đ́nh là nơi thể
hiện đặc biệt chức tư tế cộng
đồng của người cha, người mẹ, con
cái và mọi phần tử trong gia đ́nh, "nhờ lănh
nhận các bí tích, kinh nguyện và tạ ơn, chứng
từ đời sống thánh thiện, hy sinh và đức
ái hữu hiệu" (x. LG 10). Gia đ́nh là trường
học đầu tiên về đời sống Ki-tô giáo và
là "một trường học phát triển nhân tính"
(x. GS 52,1). Chính trong gia đ́nh, người ta học
biết làm việc với sự nhẫn nại và niềm
vui, yêu thương huynh đệ, quảng đại tha
thứ luôn, nhất là phụng thờ Thiên Chúa qua kinh
nguyện và hy lễ đời sống.
1658 (2231 2233)
Chúng ta cũng phải nhớ đến một
số người, v́ những hoàn cảnh sống cụ
thể - thường là không muốn - phải sống
hết sức gần gũi với Trái Tim Chúa Giê-su và
đáng được Hội Thánh nhất là các mục
tử, yêu thương cũng như đặc biệt
quan tâm chăm sóc; đó là số đông những
người sống độc thân. Nhiều người trong
số này thường v́ nghèo đă không thể lập gia
đ́nh. Có người đảm nhận cuộc sống
này trong tinh thần Tám Mối Phúc Thật, phụng sự
Thiên Chúa và anh em một cách gương mẫu. Tất
cả những người này phải được các
gia đ́nh là "Hội Thánh thu nhỏ" và gia đ́nh
lớn là "Hội Thánh" mở rộng cửa nhà
đón tiếp. Trên đời này, không ai là không có gia
đ́nh: "Hội Thánh là nhà và là gia đ́nh của tất
cả mọi người, đặc biệt của
những người "lao nhọc và gánh nặng" (Mt
11,28)" (x. Tông huấn Gia Đ́nh 85).
TÓM
LƯỢC
1659 Thánh
Phao-lô nói: "Người làm chồng hăy yêu thương
vợ như Đức Ki-tô đă yêu thương Hội Thánh
... Mầu nhiệm này thật cao cả, Tôi muốn nói
về Đức Ki-tô và Hội Thánh" (Ep 5,25.32).
1660 Hôn
ước mà nhờ đó người nam và người
nữ tạo nên một cộng đồng sự sống
và t́nh yêu, đă được Đấng Sáng Tạo thiết
lập và phú cho những luật riêng. Tự bản
chất, hôn nhân hướng đến thiện ích của
đôi vợ chồng, việc sinh sản và giáo dục con
cái. Hôn nhân giữa những người đă chịu phép
thánh tẩy được Chúa Ki-tô nâng lên hàng bí tích (x. GS
48,1; CIC 1055, 1).
1661 Bí tích Hôn Phối biểu thị sự hợp nhất
giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Bí tích này ban ơn giúp các
đôi vợ chồng yêu thương nhau như Đức
Ki-tô đă yêu thương Hội Thánh. Ân sủng bí tích kiện
toàn t́nh yêu tự nhiên của các đôi vợ chồng, củng
cố sự hiệp nhất bất khả phân ly và thánh
hoá họ trong đời sống siêu nhiên (x. CĐ Trentô: Ds 1799)
.
1662 Hôn nhân
đặt nền tảng trên sự ưng thuận
của cả hai bên kết ước, nghĩa là trên ư
muốn dứt khoát hiến thân cho nhau để sống
giao ước t́nh yêu chung thủy và phong phú.
1663 Hôn nhân
đưa những người phối ngẫu vào một
bậc sống trong Hội Thánh. V́ thế, nên cử hành hôn nhân cách
công khai trong khung cảnh của một cử hành phụng
vụ trước sự chứng kiến của linh
mục (hay chứng nhân theo qui định của Hội
Thánh), những người làm chứng và cộng đoàn
tín hữu.
1664 Đặc tính chính yếu của hôn
nhân là đơn nhất, bất khả phân ly và đón
nhận con cái. Tục đa thê nghịch lại tính
đơn nhất của hôn nhân. Ly dị là phân ly
điều Thiên Chúa phối hợp. Từ chối sinh sản,
đời sống hôn nhân mất đi "hồng ân cao
quư nhất" là con cái (x. GS 50,1).
1665 Việc tái hôn của những
người đă ly dị khi người phối ngẫu
c̣n sống, nghịch lại ư định và lề luật
của Thiên Chúa mà Chúa Ki-tô đă dạy. Những
người này không bị tách ra khỏi Hội Thánh,
nhưng không được rước lễ; họ
vẫn sống đời Ki-tô hữu, nhất là giáo
dục con cái trong đức tin.
1666 Gia đ́nh tín hữu là nơi con
cái tiếp nhận nền móng đức tin. V́ vậy, gia
đ́nh được gọi rất đúng là Hội Thánh
thu nhỏ" hay "Hội Thánh tại gia", cộng
đồng ân sủng và cầu nguyện, trường
học phát triển các đức tính tự nhiên và
đức mến Ki-tô giáo.