2083 (367) Đức Giê-su đă tóm tắt
các bổn phận của con người đối
với Thiên Chúa như sau: "Ngươi phải yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết ḷng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (x. Mt
22,37; x. Lc 10,27:"... "hết sức
lực "). Đây là âm vang trực tiếp của lời
mời gọi long trọng: “Nghe đây, hỡi
Ít-ra-en: Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy
nhất" (Đnl 6,4).
(199)
Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta trước. Lời
đầu tiên của Thập Giới nhắc lại t́nh
yêu của Thiên Chúa duy nhất. Các lệnh truyền
tiếp theo làm nổi bật lời
đáp trả yêu thương mà con người
được mời gọi để dâng lên Thiên Chúa.
Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
đă đưa ngươi ra khỏi đất
Ai-Cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi
không được có thần nào khác đối nghịch
với Ta. Ngươi không
được tạo tượng, vẽ h́nh bất
cứ vật ǵ ở trên trời cao cũng như
dưới đất thấp, hoặc ở trong
nước phía dưới mặt đất, để mà
thờ. Ngươi không được phủ
phục trước những thứ đó mà phụng
thờ (Xh 20,2-5) (Đnl 5,6-9).
Đă có lời chép rằng: "Ngươi phải thờ
lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải
thờ phượng một ḿnh Người mà thôi" (Mt 4,10).
I."CHÍNH
ĐỨC CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA
2084 (2057 398) Thiên Chúa tự mặc
khải bằng cách nhắc lại hành động
đầy quyền năng, nhân hậu và giải thoát
của Người trong lịch sử: "Ta đă đem
ngươi ra khỏi nhà Ai Cập, khỏi nhà nô
lệ". Lời đầu tiên chứa đựng
điều răn thứ nhất của Lề luật:
"Chính Đức Chúa Thiên Chúa của anh em là Đấng anh em
phải kính sợ, chính Người là Đấng anh em
phải phụng thờ...Anh emkhông được theo các
thần khác" (Đnl 6,13-14). Lời
mời gọi đầu tiên và yêu sách chính đáng của Thiên
Chúa là con người phải tiếp nhận và tôn thờ
Người.
2085
"Thưa ông Tri-phon, chưa bao giờ có
Thiên Chúa nào khác và từ muôn đời, cũng không hề
có Thiên Chúa nào khác (...) ngoài Đấng đă tạo dựng và
xếp đặt vũ trụ. Chúng tôi không nghĩ
rằng Thiên Chúa của chúng tôi khác với Thiên Chúa của
ông, Đấng đă đưa tổ tiên ông ra khỏi Ai
Cập "bằng bàn tay hùng mạnh và cánh tay giương
cao". Chúng tôi không hy vọng vào bất cứ Thiên Chúa nào
khác, v́ không có, nhưng vào cùng một Đấng như Thiên Chúa
của ông, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của
Gia-cóp. (T. Giút-ti-nô, đối thoại 11,1).
2086
Đức tin (1814-1816)
2087 (143) Đời sống luân lư của
chúng ta bắt nguồn trong ḷng tin vào Thiên Chúa, Đấng
mặc khải t́nh yêu của Người cho chúng ta. Thánh
Phao-lô nói đến "tin mà vâng phục Thiên Chúa" (Rm 1,5; 16, 26) như là một nghĩa vụ hàng
đầu. Theo thánh Phao-lô, "không nhận biết Thiên
Chúa" là nguyên nhân và lời giải thích cho mọi
lệch lạc luân lư (x. Rm 1,18-32).
Bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa là
tin vào Người và làm chứng về Người.
2088
Điều
răn thứ nhất buộc chúng ta nuôi dưỡng và
giữ ǵn đức tin cách cẩn trọng; đồng
thời loại bỏ tất cả những ǵ nghịch
cùng đức tin. Có nhiều tội
nghịch cùng đức tin.
(137) Cố
t́nh hoài nghi trong lănh vực đức tin là tội xem
thường hay không nh́n nhận là chân thật những điều
Thiên Chúa mặc khải và Hội Thánh dạy phải tin.
Tội)vô t́nh hoài nghi là do dự không tin,
không cố gắng vượt qua những vấn nạn
đức tin hay khủng hoảng trước bóng tối
của đức tin. Nếu cố chấp,
hoài nghi sẽ làm cho tâm trí nên mù quáng.
2089 (162,817) Vô tín là khinh thường chân
lư mặc khải hay cố t́nh từ chối không tin.
"Lạc giáo là khi người tín hữu đă chịu
phép Rửa Tội lại ngoan cố phủ nhận hay nghi
ngờ một chân lư phải tin nhận, theo đức tin
đối thần và công giáo.)Bội giáo là tội chối
bỏ toàn bộ đức tin Ki-tô giáo. Ly giáo là từ
chối tùng phục Đức Giáo Hoàng hay từ chối
hiệp thông với các phần tử của Hội Thánh
đang phục quyền Người" (x. CIC Can 751).
Đức cậy (1817-1821)
2090 (1996) Khi Thiên Chúa tự mặc
khải và kêu gọi con người, con người không
thể đáp trả trọn vẹn t́nh yêu của Chúa
bằng sức riêng ḿnh. Họ phải trông cậy Chúa
sẽ ban cho khả năng, để đáp trả t́nh yêu
của Người và hành động cho phù hợp với
các điều răn của đức mến. Cậy trông là hết ḷng mong đợi
được Thiên Chúa chúc phúc cho diện kiến Tôn Nhan
Người. Cậy trông c̣n bao hàm thái
độ sợ mất ḷng Chúa và bị trừng phạt.
2091
Điều
răn thứ nhất cũng nhắm đến các tội
nghịch cùng đức cậy, như ngă ḷng và tự
phụ:
(1864) Con
người ngă ḷng, khi không c̣n trông cậy Chúa sẽ ban cho
ḿnh ơn cứu độ, trợ giúp ḿnh đạt
ơn cứu độ hay tha thứ tội lỗi của
ḿnh. Điều này nghịch với Thiên Chúa là Đấng nhân
từ, công bằng, bởi Chúa luôn trung thành với mọi
lời Người hứa và giàu ḷng thương xót.
2092 (2732) Có hai loại tự phụ:
quá tin vào sức riêng (tưởng ḿnh có thể tự
cứu rỗi mà không cần sự giúp đỡ của
ơn trên); hoặc ỷ lại vào Thiên Chúa toàn năng và
giàu ḷng thương xót (tưởng ḿnh sẽ được
tha thứ mà không cần hối cải và được
vinh quang mà không cần lập công).
Đức mến 1822-1829
2093 Khi tin vào
t́nh yêu Thiên Chúa, con người phải đáp trả t́nh
yêu của Người bằng một t́nh yêu chân thành.
Điều răn thứ nhất dạy chúng ta phải yêu
mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu toàn thể
thụ tạo v́ Người và cho Người (Đnl 6,4-5).
2094 (2733 2303) Có nhiều tội nghịch
với t́nh yêu Thiên Chúa. Lănh đạm là tội xem
thường hay không lưu tâm đến t́nh yêu Thiên Chúa,
không biết đến bản chất và sức mạnh
của t́nh yêu Thiên Chúa. Vong ân là tội
quên lăng hay từ chối nhận biết t́nh yêu Thiên Chúa và
đáp trả t́nh yêu Thiên Chúa bằng t́nh yêu của ḿnh.
Nguội lạnh là tội do dự, chểnh mảng trong
việc đáp lại t́nh yêu của Thiên Chúa, hay từ
chối dấn thân theo đức
mến. Tội lười biếng trong việc thiêng liêng
có thể đưa tới từ khước niềm vui
Thiên Chúa ban và khinh chê mọi lợi ích thiêng liêng. Tội)oán ghét Thiên Chúa là do kiêu ngạo, chống
lại t́nh yêu của Người, cho rằng Người
không tốt lành và chối từ Thiên Chúa v́ Người
cấm phạm tội và trừng trị bằng h́nh
phạt.
II.
"NGƯƠI PHẢI THỜ PHƯỢNG MỘT M̀NH
NGƯỜI MÀ THÔI"
2095 (1807) Các nhân đức đối
thần: tin, cậy, mến, định h́nh và đem
lại sức sống cho các đức tính luân lư. Đức mến đ̣i buộc chúng ta là thụ
tạo phải cảm tạ ơn Thiên Chúa cho xứng
đáng, v́ đă mang ơn Người. Nhân
đức thờ phượng giúp chúng ta sống tâm t́nh
này.
Thờ lạy (2628)
2096 Hành vi
đầu tiên của nhân đức thờ phượng
là thờ lạy Thiên Chúa, nghĩa là nhận biết
Người là Thiên Chúa, là Đấng Sáng Tạo và Cứu
Chuộc, là Chúa và Thầy của mọi loài, là T́nh Yêu vô
biên và giàu ḷng thương xót. Dựa vào sách Đệ Nhị
Luật (Đnl 6, 13), Đức Giê-su nói: "Ngươi phải
thờ lạy Đức Chúa, là Chúa của ngươi, và
phải thờ phượng
2097 Thờ
lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối thần
phục Người v́ nhận biết "tính hư không
của thụ tạo", biết sự hiện hữu
của chúng hoàn toàn nằm trong tay Người. Như
Đức Ma-ri-a trong kinh Magnificat, chúng ta thờ lạy Thiên
Chúa bằng cách ca ngợi, chúc tụng Người, khiêm
tốn tuyên xưng với ḷng biết ơn rằng Thiên
Chúa đă làm những việc trọng đại và Danh
Người chí thánh (Lc 1,46-49). Việc thờ lạy Thiên
Chúa duy nhất, giải thoát con người khỏi thái
độ khép kín, khỏi nô lệ tội lỗi và sự
sùng bái thế giới như ngẫu tượng.
Cầu
nguyện
(2558)
2098 (613) Các hành vi tin cậy mến,
như điều răn thứ nhất đ̣i buộc,
được hoàn tất trong kinh nguyện. Nâng
tâm hồn lên tới Thiên Chúa để chúc tụng, tạ
ơn, chuyển cầu và van xin là một cách thờ
lạy Người. Cầu nguyện là điều
kiện thiết yếu, giúp ta tuân giữ giới răn
của Thiên Chúa: "Phải cầu nguyện luôn, không
được nản chí" (Lc 18,1).
Lễ tế
2099
Con
người phải dâng lên Thiên Chúa những lễ tế
để tỏ ḷng thờ phượng, tạ ơn,
khẩn cầu và sự hiệp thông với Người.
"Mọi hành vi con người thực hiện
để được kết hiệp với Thiên Chúa và
được vinh phúc, đều là lễ tế đích
thực" (FTh. Âu Tinh, Thành Đô Thiên Quốc 10,6).
2100 (2711 614 618) Con người cần
phải có tâm t́nh bên trong để lễ tế bên ngoài
được chân thực: "Hy lễ đẹp ḷng
Chúa là tấm ḷng tan nát khiêm cung..." (Tv 51,19). Các ngôn
sứ thời Cựu Ước thường lên án các
lễ tế mà người dâng thiếu tâm t́nh bên trong (x.
Am 5,21-25) hay không có t́nh thương đối với tha nhân
(x. Is 1,10-20). Đức Giê-su nhắc lại lời của ngôn
sứ Hô-sê: "Ta muốn ḷng nhân chứ đâu cần
lễ tế" (x. Mt 9,13 ; 12,7; Hs 6,6). Chỉ có một
lễ tế hoàn hảo duy nhất là lễ tế Đức
Ki-tô dâng trên bàn thờ thập giá, để tận
hiến cho t́nh yêu của Chúa Cha và để cứu
chuộc chúng ta. Kết hợp với lễ tế này,
chúng ta biến cuộc đời ḿnh thành lễ tế dâng
lên Thiên Chúa.
Lời hứa
và lời khấn
2101 (1237 1064) Trong
nhiều hoàn cảnh, người Ki-tô hữu
được mời gọi để tuyên hứa
với Thiên Chúa. Các bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Hôn
Phối và Truyền Chức Thánh luôn kèm theo những lời
hứa. Do ḷng đạo đức cá nhân, người
Ki-tô hữu có thể hứa với Chúa thực hiện
một hành động, một kinh nguyện, một
việc bố thí, một cuộc hành hương hay
một điều tương tự. Việc trung thành tuân
giữ lời hứa với Chúa, chứng tỏ ḷng kính
trọng Thiên Chúa uy linh và t́nh yêu đối với Thiên Chúa
hằng trung tín.
2102 "Lời
khấn là một lời hứa có suy tính và tự do dâng lên
Thiên Chúa, về một điều thiện tốt hơn
và có thể thi hành được.
V́ thuộc về đức thờ
phượng, lời khấn buộc phải
được chu toàn" (x. CIC,1191,1). Lời khấn là
một hành vi đạo đức, nhờ đó
người tín hữu tự hiến cho Thiên Chúa hay hứa
thực hiện một việc tốt dâng kính
Người. Qua việc chu toàn lời khấn, họ dâng
lên Thiên Chúa điều họ đă hứa và thánh hiến.
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy thánh Phao-lô luôn lo
lắng chu toàn điều đă khấn.
2103 (1973) Hội
Thánh công nhận giá trị gương mẫu của
những lời khấn sống theo các lời khuyên Phúc âm:
(914) "Hội
Thánh là Mẹ chúng ta, vui mừng khi thấy trong ḷng ḿnh có
nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Đấng
Cứu Thế và tỏ lộ rơ ràng hơn mầu nhiệm
tự hủy của Người. Họ chấp nhận
nghèo khó trong tự do của con cái Chúa và từ bỏ ư riêng:
hơn cả mức đ̣i buộc của giáo luật,
họ tự nguyện tùng phục một con người,
tùng phục v́ Chúa, trong những ǵ liên hệ tới sự
trọn lành, hầu nên giống Chúa Ki-tô vâng lời cách hoàn
toàn hơn" (x. LG 42).
Trong một số trường hợp,
Hội Thánh có thể miễn chuẩn những lời
khấn và lời hứa, v́ những lư do chính đáng.
Tự do tôn giáo
2104 (2467 851) "Mọi
người đều có trách nhiệm đi t́m chân lư,
đặc biệt là những ǵ liên quan tới Thiên Chúa và
Hội Thánh của Người. Khi đă nhận ra chân lư,
họ phải tiếp nhận và trung thành với chân lư
ấy" (x. DH 1). Trách nhiệm này xuất phát từ
"chính bản tính của con người" (x. DH 2),
không ngăn cản chúng ta "chân thành tôn trọng" các
tôn giáo khác "thường cũng mang lại những tia
sáng của chân lư đang chiếu soi cho mọi
người" (x.
2105 (854 898) Cá
nhân cũng như xă hội đều phải tôn thờ
Thiên Chúa cách xứng hợp. Đây là "giáo lư truyền
thống công giáo về trách nhiệm luân lư của con
người và của xă hội đối với tôn giáo
chân thực và Hội Thánh duy nhất của Đức
Ki-tô" (x. DH 1). Khi không ngừng loan báo Tin Mừng của
Chúa, Hội Thánh "cố gắng đem tinh thần Ki-tô
giáo thấm nhuần năo trạng, phong tục, luật
lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ
sống"(x. AA 13). Người Ki-tô hữu có trách
nhiệm xă hội là khơi dậy trong ḷng mọi
người t́nh yêu đối với chân lư và sự
thiện, và phải trân trọng t́nh yêu đó. Trách nhiệm
này buộc họ phải truyền bá việc tôn thờ
của tôn giáo duy nhất và chân thực, đang thể
hiện trong Hội Thánh công giáo và tông truyền (x. DH 1).
Người Ki-tô hữu được mời gọi
trở thành ánh sáng thế gian (x. AA 13). Nhờ đó,
Hội Thánh minh chứng vương quyền của
Đức Ki-tô trên vạn vật, đặc biệt là trên xă
hội loài người (x. Lêô XIII; Piô XI).
2106 (160, 1782 1738)
Tự do tôn giáo có nghĩa là "trong phạm vi tôn
giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với
lương tâm, cũng như không bị ngăn trở,
cách kín đáo hay công khai, để hành động theo
lương tâm trong những giới hạn họ
được phép", như một cá nhân đơn
độc hay liên hệ với những người khác (x.
DH 2). Quyền này căn cứ trên chính bản tính con
người v́ nhân phẩm cho họ được tự
do để thuận theo chân lư thiên linh vượt trên
trật tự trần thế. Do đó, "những ai
không thực hiện trách nhiệm t́m kiếm và gắn bó
với chân lư" (x. DH 2) cũng có quyền này.
2107 "Nếu
như, v́ những hoàn cảnh đặc biệt, như
trong một số dân tộc hiện nay, một tôn giáo nào
đó được luật pháp nhà nước nh́n
nhận, th́ mọi người vẫn phải công nhận
và tôn trọng quyền tự do tôn giáo của mọi công
dân cũng như của những tập thể tôn giáo
khác" (x. DH 6).
2108 (1740) Quyền
tự do tôn giáo không cho phép lương tâm con người
được đi theo (x. Lê-ô XIII, thông điệp
"Libertas praestantissimum".) hay phổ biến
điều sai lạc (x. Pi-ô XII, diễn văn
2109 (2244 1906) Quyền
tự do tôn giáo không phải là vô hạn (x. Pi-ô VI, bảng
tóm lược "Quod aliquantum".), cũng không thể
giới hạn hẹp do "trật tự công
cộng" theo chủ nghĩa thực nghiệm hay tự
nhiên (x. Pi-ô IX, thông điệp "Quanta cura"). Chính
quyền phải có một đường lối chính
trị khôn ngoan để xác định những
"giới hạn thích đáng" của quyền tự
do tôn giáo cho mỗi hoàn cảnh xă hội, căn cứ vào
những đ̣i hỏi của công ích. Những giới
hạn này phải được chính quyền xác nhận
"theo những quy tắc pháp lư phù hợp với trật
tự luân lư khách quan" (x. DH 7).
III.
"NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC CÓ THẦN NÀO KHÁC ĐỐI
NGHỊCH VỚI TA"
2110 Điều
răn thứ nhất cấm tôn thờ những thần
khác ngoài Đức Chúa Độc Nhất đă tự mặc
khải cho dân, cấm mê tín và vô tôn giáo. Có thể nói mê tín là
một ḷng đạo quá mức và sai trái. Vô tôn giáo là
một thói xấu nghịch với nhân đức thờ
phượng v́ thiếu ḷng đạo.
Mê tín
2111 Mê tín là
lệch lạc trong tâm t́nh tôn giáo và trong cách thể hiện
tâm t́nh này. Mê tín cũng có thể xảy đến khi chúng
ta thờ phượng Thiên Chúa chân thật; ví dụ như
gán một ư nghĩa ma thuật cho một số thực
hành vốn chính đáng hay cần thiết. Nếu cho
rằng chỉ cần đọc các lời kinh hay làm các
dấu chỉ bí tích là có hiệu quả, bất chấp
những tâm t́nh phải có bên trong, người ta rơi vào
mê tín (x. Mt 23,16-22).
Thờ ngẫu
tượng
2112 (210) Điều
răn thứ nhất lên án thuyết đa thần,
buộc con người không được tin vào thần
nào khác ngoài Thiên Chúa, không được tôn kính các thần
linh nào khác ngoài Thiên Chúa duy nhất. Thánh Kinh luôn nhắc
lại việc từ bỏ các ngẫu tượng
"bằng vàng, bằng bạc, do tay người làm
ra", "có miệng mà không nói được, có mắt
mà không thấy được"... Các ngẫu
tượng là hăo huyền nên ai thờ ngẫu
tượng sẽ trở thành hăo huyền, kẻ làm ra
hoặc tin ở tượng thần cũng giống
như chúng vậy" (x. Tv 115,4-5.8; x. Is 44,9-20; Gr 10,1-16; Dn
14,1-30; Br 6; Kn 13,1-15,19). Ngược lại, Thiên Chúa là
"Đấng Hằng Sống", Đấng làm cho sống (x.
Gs 3,10; Tv 42,3; ...) và can thiệp vào lịch sử.
2113
2114 Khi tôn
thờ Thiên Chúa Duy nhất, con người thống
nhất đời sống. Điều răn dạy tôn
thờ Đức Chúa duy nhất làm cho con người trở
nên tập trung, khỏi bị phân tán. Thờ ngẫu
tượng là t́nh trạng cảm thức tôn giáo vốn
bẩm sinh nơi con người bị suy đồi .
Kẻ thờ ngẫu tượng "gán ư niệm về
Thiên Chúa bất diệt cho bất cứ thứ ǵ không
phải là Thiên Chúa" (Origène, odeis 2,40).
Bói toán và ma
thuật
2115 (305) Thiên
Chúa có thể cho các ngôn sứ hay các thánh nhân biết về
tương lai. Tuy vậy, thái độ đúng đắn
của ki-tô hữu là phó thác hoàn toàn trong tay Chúa Quan Pḥng
những ǵ thuộc về tương lai và từ bỏ
mọi thứ ṭ ṃ thiếu lành mạnh trong lănh vực này.
Thế nhưng, ai không tiên liệu là người thiếu
trách nhiệm.
2116 Phải
loại bỏ mọi h́nh thức bói toán: cậy nhờ
Xa-tan hay ma quỉ, gọi hồn người chết hay
những cách khác ngỡ rằng sẽ đoán
được tương lai (x. Đnl 18,10; Gr 29,8). Coi tử
vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải điều mộng, xin
xăm, bói toán quá khứ vị lai, đồng bóng, là
những h́nh thức che giấu ước muốn có
quyền trên thời gian, trên lịch sử và trên cả con
người, cũng như ước muốn liên kết
với các thế lực huyền bí. Điều này nghịch
lại với ḷng tôn kính và thần phục chỉ dành cho
Thiên Chúa.
2117 Ai muốn dùng ma thuật hay pháp
thuật để chế ngự các thế lực
huyền bí, bắt chúng phục vụ ḿnh và nắm
được quyền lực siêu phàm trên người khác
dù là để chữa bệnh, cũng lỗi nặng nhân
đức thờ phượng. Các việc nầy càng
đáng lên án hơn nữa khi có dụng ư hại
người, hay nhờ đến sự can thiệp
của ma quỉ. Mang bùa cũng là điều đáng trách.
Chiêu hồn thường đi kèm cả bói toán hay ma
thuật. Hội Thánh cảnh giác các tín hữu phải xa
lánh các điều ấy. Khi dùng các phương thuốc
gia truyền, không được kêu cầu các thế
lực ma quỉ cũng như lợi dụng sự
nhẹ dạ của người khác.
Những tội
nghịch với đức thờ phượng
2118 Điều
răn thứ nhất kết án những tội nghịch
với đức thờ phượng: thử thách Thiên
Chúa bằng lời nói hay hành động; phạm thánh và
mại thánh.
2119
2120 (1374) Phạm
thánh là xúc phạm hay cư xử bất xứng
đối với các bí tích và các hành vi phụng vụ khác,
cũng như đối với người, đồ
vật và các nơi đă thánh hiến cho Thiên Chúa. Phạm
thánh là một tội nặng, đặc biệt khi
phạm đến Thánh Thể, bởi v́ trong bí tích
nầy, chính Đức Ki-tô hiện diện thực sự
với chúng ta (x. CIC, can 1367-1376).
2121 Mại
thánh (x. Cv 8,9-24) là mua hay bán những thực tại
thiêng liêng. Khi phù thủy Si-mon muốn mua quyền năng
Thánh Thần mà ông thấy đang hoạt động
nơi các tông đồ, Phê-rô đă trả lời:
"Bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, và anh
tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ
của Thiên Chúa" (x. Cv 8,20). Như thế, vị tông
đồ đă hành động phù hợp với lời
Đức Giê-su: "Anh em đă được cho không,
cũng hăy cho không" (x. Mt 10,8 ; x. Is 55,1). Không thể
chiếm hữu những của cải thiêng liêng và sử
dụng như chủ hay người có toàn quyền,
bởi v́ những điều ấy là do Thiên Chúa ban
tặng nên con người chỉ có thể đón nhận
như quà tặng nhưng không từ Thiên Chúa.
2122 "Khi ban
các bí tích, thừa tác viên không được đ̣i thêm cái
ǵ khác ngoài số tiền dâng cúng mà thẩm quyền Hội
Thánh đă ấn định, và cũng c̣n phải cẩn
thận đừng để những người nghèo
không được lănh nhận bí tích v́ lư do túng
thiếu" (x. CIC can 848). Thẩm quyền Hội Thánh
ấn định các của dâng cúng này theo nguyên tắc dân
Ki-tô giáo phải cấp dưỡng cho các thừa tác viên.
"Thợ th́ đáng được nuôi ăn" (Mt
10,10) (x. Lc 10,7, 1Cr 9,5-18, 1 Tm 5,17-18).
Chủ nghĩa
vô thần
2123 (29) "Có
nhiều người đương thời với chúng ta
không nhận ra hoặc công khai loại bỏ mối liên
kết mật thiết và sống động giữa con
người với Thiên Chúa. V́ thế, chủ nghĩa vô
thần phải được kể là một trong
những sự kiện nghiêm trọng nhất trong thời
đại này" (x. GS 19,1).
2124 Từ
"chủ nghĩa vô thần" chỉ nhiều hiện
tượng rất khác nhau. H́nh thức thông thường
là chủ nghĩa duy vật thực hành; chủ nghĩa này
giới hạn nhu cầu và tham vọng của con
người trong không gian và thời gian. Chủ nghĩa nhân
bản vô thần nhận định sai lầm, khi coi
"con người là chính cùng đích cho ḿnh, là kẻ
tạo nên và điều khiển lịch sử riêng
ḿnh" (x. GS 20,1). Một h́nh thức khác của chủ
nghĩa vô thần hiện nay muốn giải phóng con
người bằng một cuộc giải phóng kinh tế
và xă hội; "h́nh thức vô thần này cho rằng
tự bản chất tôn giáo ngăn cản sự giải
phóng trên, v́ khi gây cho con người niềm hy vọng hăo
huyền vào cuộc sống mai hậu, tôn giáo đă làm cho họ
xao lăng việc xây dựng xă hội trần thế" (x.
GS 20,2).
2125 (1535) Chủ
nghĩa vô thần là một tội nghịch nhân
đức thờ phượng, v́ từ chối hay
phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa (x. Rm
1,18). Trách nhiệm tinh thần về lỗi nầy có
thể giảm bớt nhiều ít, tùy ư định và hoàn
cảnh mỗi người. "Người tín hữu có
thể chịu phần trách nhiệm không phải là nhỏ
trong việc khai sinh vô thần, hoặc bởi xao lăng
việc giáo dục đức tin, hoặc tŕnh bày sai
lạc về giáo lư, hoặc do những thiếu sót trong
đời sống tôn giáo, luân lư và xă hội. Phải nói
rằng họ che giấu hơn là bày tỏ chân dung đích
thực của Thiên Chúa và tôn giáo" (x. GS 19,3).
2126 (396 154) Chủ
nghĩa vô thần thường đặt nền tảng
trên một quan niệm sai lạc về quyền tự
lập của con người, đến độ
phủ nhận mọi lệ thuộc vào Thiên Chúa (x. GS 20,1).
"Hội Thánh cho rằng nh́n nhận Thiên Chúa không có ǵ
nghịch lại với phẩm giá con người, v́
phẩm giá ấy đặt nền tảng và nên hoàn
hảo trong chính Thiên Chúa" (x. GS 21, 3). "Hội Thánh
biết rơ sứ điệp của ḿnh phù hợp với
những khát vọng thầm kín nhất của ḷng
người" (GS 21,7).
Chủ nghĩa
bất khả tri
2127 (36) Chủ
nghĩa bất khả tri có nhiều dạng thức. Trong
một số trường hợp, người theo chủ
nghĩa này không phủ nhận Thiên Chúa, nhưng tin có
một Đấng siêu việt không tự mặc khải nên
không ai nói được ǵ về Người. Trong
những trường hợp khác, người theo chủ
nghĩa này không đề cập đến Thiên Chúa, v́ cho
rằng không thể chứng minh, xác nhận hay phủ
nhận về Người.
2128 (1036) Đôi
khi chủ nghĩa bất khả tri ẩn chứa một
cố gắng t́m kiếm nào đó về Thiên Chúa, nhưng
cũng có thể biểu hiện một thái độ
thờ ơ, một cách trốn thoát trước vấn
đề tối hậu của con người, và một
sự lười biếng của lương tâm. Chủ
nghĩa bất khả tri thường đồng nghĩa
với chủ nghĩa vô thần thực hành.
(1159-1162)
IV.
"NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC LÀM CHO M̀NH BẤT CỨ
H̀NH TƯỢNG NÀO VỀ THIÊN CHÚA..."
2129
2130 Tuy nhiên,
từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đă truyền
lệnh hay cho phép làm những h́nh tượng biểu
trưng ơn cứu độ nhờ Ngôi Lời nhập
thể: ví dụ con rắn đồng (x. Nb 21,4-9, Kn 16,5-14,
Ga 3,14-15), khám giao ước và các Kê-ru-bim (x. Xh 25,10-22; 1V
6,23-28; 7,23-26).
2131 (476) Dựa
vào mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể mà Công
Đồng chung thứ bảy, ở Nixêa (năm 787), đă
biện minh cho việc tôn kính ảnh tượng thánh,
như ảnh tượng Đức Ki-tô, Mẹ Thiên Chúa, các
thiên thần và tất cả các thánh, để chống
lại chủ trương bài ảnh tượng. Khi
nhập thể, Con Thiên Chúa đă mở ra một
"kế hoạch" mới cho ảnh tượng.
2132 Việc
các Ki-tô hữu tôn kính ảnh tượng, không nghịch
lại điều răn thứ nhất cấm thờ
ngẫu tượng. Thực vậy, "khi tôn kính một
ảnh tượng, chúng ta hướng tâm hồn lên
đến nguyên ảnh" (
"Chúng ta không thờ các ảnh
tượng như những thực tại, nhưng như
những h́nh ảnh đưa dẫn chúng ta đến cùng
Thiên Chúa nhập thể. Việc tôn kính không dừng lại
ở ảnh tượng, nhưng vươn tới chính
thực tại được biểu thị" (T.Tô-ma
A-qui-nô. s.th. 2-2, 81,3 ad 3).
TÓM LƯỢC
2133 "Hăy yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết ḷng, hết
dạ, hết sức anh em" (Đnl 6,5).
2134 Điều
răn thứ nhất kêu gọi con người tin vào Thiên
Chúa, trông cậy nơi Người và yêu mến
Người trên hết mọi sự.
2135 "Ngươi
phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi" (Mt 4,10). Thờ lạy Thiên Chúa, kêu cầu
Người, dâng lên Người việc phụng thờ
xứng hợp, chu toàn các lời khấn hứa cùng
Người, là những hành vi thuộc nhân đức
thờ phượng theo điều răn thứ nhất.
2136 Cá nhân
cũng như xă hội đều phải tôn thờ Thiên
Chúa cách xứng hợp.
2137 Con
người "phải có quyền tự do bày tỏ tôn
giáo của ḿnh cách thầm kín và công khai" (x. DH 15).
2138 Mê tín là
lệch lạc trong việc thờ phượng Thiên Chúa
chân thật, chẳng hạn thờ ngẫu tượng
hay trong các h́nh thức bói toán và ma thuật.
2139 Điều
răn thứ nhất cấm các hành vi vô đạo như
thử thách Thiên Chúa bằng lời nói hay hành động,
phạm thánh và mại thánh.
2140 Vô thần
là tội nghịch với điều răn thứ
nhất, v́ từ chối hay phủ nhận sự hiện
hữu của Thiên Chúa.
2141 Việc
tôn kính các ảnh tượng thánh đặt nền
tảng trên mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi
Lời Thiên Chúa và không nghịch lại điều răn
thứ nhất.