Ngươi không được kêu tên
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi mà làm điều
bất xứng (Xh 20,7; Đnl 5,11).
"Anh em c̣n nghe luật dạy
người xưa rằng: "Ngươi chớ bội
thề... c̣n Thầy, Thầy bảo cho anh em biết,
đừng thề chi cả" (Mt 5,33-34).
I. DANH THIÊN CHÚA LÀ
THÁNH (2807-2815)
2142 Điều răn thứ hai dạy
phải tôn kính danh Thiên Chúa. Cũng như điều
răn trước, điều răn
này thuộc về nhân đức thờ phượng và
đặc biệt quy định việc sử dụng
ngôn từ để diễn đạt các sự thánh.
2143 (203 435) Trong các lời mặc
khải, lời mặc khải về Danh Thiên Chúa chiếm
vị trí hàng đầu. Thiên Chúa bày tỏ Danh Người
cho những kẻ tin, mặc khải cho họ chính mầu
nhiệm bản thân Người. Điều này cho thấy
Thiên Chúa tín nhiệm và thân thiết với con người.
"Danh của Thiên Chúa là Thánh", nên con người không
được lạm dụng. Họ phải ghi nhớ
Danh Thánh ấy trong kính cẩn tôn thờ và yêu mến (Gcr 2,17). Chỉ được kêu cầu Danh
Thánh để chúc tụng, ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa mà
thôi (x. Tv 29,2 ; 96, 2; 113,1-2).
2144
Tôn
kính Danh Thiên Chúa là tôn kính chính Thiên Chúa và mọi thực
tại thánh. Cảm thức về sự thánh thiêng
thuộc nhân đức thờ phượng:
"Những tâm t́nh kính sợ và cảm
thức về linh thánh có phải là những tâm t́nh Ki-tô giáo
không ? Không ai có thể nghi
ngờ điều đó. Đó chính là tâm t́nh mà chúng ta
phải có, và sẽ tăng lên mănh liệt, nếu chúng ta
thấy được Thiên Chúa uy linh. Đó là
những tâm t́nh mà chúng ta phải có, nếu chúng ta nhận
ra sự hiện diện của Người. Chúng ta
sẽ có những tâm t́nh ấy, tùy mức độ chúng ta
tin vào sự hiện diện của Người. Không có
những tâm t́nh ấy, tức là không nhận ra, không tin
Người hiện diện" (Newman, par. 5,2).
2145 (2472 427) Người tín hữu
phải làm chứng cho Danh Thiên Chúa, bằng cách can
đảm tuyên xưng đức tin (x. Mt 10,32; 1Tm 6,12). Việc rao giảng và huấn giáo phải
được thực hiện trong tinh thần thờ
phượng và tôn kính đối với Thánh Danh Đức
Giê-su, Chúa chúng ta.
2146
Điều
răn thứ hai cấm lạm dụng Danh Thiên Chúa,
nghĩa là sử dụng bất xứng đối với
danh của Thiên Chúa, của Đức Giê-su Ki-tô, Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a và toàn thể các thánh.)
2147 (2101) Những
lời hứa với tha nhân nhân danh Thiên Chúa, đều
liên hệ đến danh dự, sự trung thành, sự chân
thật và uy quyền của Thiên Chúa, nên phải
được tôn trọng theo lẽ công b́nh. Thất
hứa là lạm dụng danh Thiên Chúa, và biến Thiên Chúa
thành kẻ nói dối (1Ga 1,10).
2148
L
ộng ngôn vi phạm trực tiếp điều răn
thứ hai. Lộng ngôn là xúc phạm đến Thiên Chúa
trong ḷng hay ngoài miệng bằng những lời hận
thù, than trách, thách thức; là nói xấu Thiên Chúa, bất kính
trong lời nói, và lạm dụng Danh Thánh Thiên Chúa. Thánh
Gia-cô-bê khiển trách những kẻ nói xúc phạm
đến Danh Thánh cao đẹp "của Chúa Giê-su"
đă được kêu khấn trên họ (Gcb 2,7). Luật cấm nói lộng
ngôn, cũng cấm nói phạm đến Hội Thánh Chúa
Ki-tô, các thánh và những sự thánh. Người ta
cũng phạm tội lộng ngôn khi lạm dụng danh
Thiên Chúa để che đậy những hành vi
tội ác, để bắt các dân tộc làm nô lệ,
để tra tấn hoặc giết người. Lạm dụng danh Thiên Chúa để phạm
tội ác là gây cớ cho người ta ghét đạo.
1756
Lộng
ngôn nghịch lại với bổn phận tôn trọng
Thiên Chúa và Danh thánh Người. Lộng ngôn là
một tội trọng (x. CIC, 1369).
2149
Kêu
tên Chúa vô cớ, dù không có ư xúc phạm cũng là thiếu tôn
kính Thiên Chúa. Điều răn thứ hai cấm sử
dụng Danh Thiên Chúa vào việc ma thuật.
Danh Thiên Chúa thật cao cả, khi
được kêu cầu cách tôn kính, xứng với sự
vĩ đại và uy nghi của
Người. Danh của Chúa thật thánh thiện, khi
được kêu cầu với ḷng sùng mộ và sợ)xúc phạm tới Người (T.Âutinh, bài
giảng. Dom 2,45-19).
II. LẠM
DỤNG DANH THIÊN CHÚA
2150
Điều
răn thứ hai cấm thề gian. Thề là
lấy Chúa làm chứng cho điều ḿnh xác quyết, là kêu
cầu Thiên Chúa chân thật để bảo đảm
ḿnh nói thật. Lời thề là lời cam kết nhân
danh Thiên Chúa "Chính Thiên Chúa là Đấng anh em phải kính
sợ, là Đấng anh em phải phụng thờ; anh em
sẽ nhân danh Người mà thề" (x. Đnl 6,13).
2151 (215) Người tín hữu có
bổn phận phải bài trừ thói thề gian. V́ Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và là Đức Chúa,
nên Người là mẫu mực mọi sự chân thật.
Lời nói của con người có thể phù hợp hay trái
nghịch với Thiên Chúa là chính Sự Thật. Lời
thề chân thật và chính đáng cho thấy lời nói con
người phù hợp với chân lư của Thiên Chúa. Thề gian là kêu cầu Thiên Chúa làm chứng cho
một lời nói dối.
2152 (2476 1756) Bội thề là thề
hứa một điều ǵ, nhưng không có ư giữ hay
không giữ lời thề. Người
bội thề thiếu ḷng tôn kính nghiêm trọng đối
với Thiên Chúa, họ làm một việc xấu là phạm
đến thánh danh Thiên Chúa.
2153 (2466) Trong Bài Giảng Trên Núi:
Đức Giê-su đă nói đến điều răn thứ
hai: "Anh em nghe luật dạy người xưa
rằng: "Chớ bội thề nhưng hăy giữ
trọn lời thề với Chúa. C̣n Thầy, Thầy
bảo cho anh em biết, đừng thề chi cả...
Nhưng hễ "có" th́ phải nói "có";
"không" th́ phải nói "không". Thêm thắt
điều ǵ là do ma quỉ" (Mt 5,33-34.37)
(x. Gcb 5,12). Như thế Đức Giê-su dạy
rằng, mọi lời thề luôn qui chiếu về Thiên
Chúa, và trong mọi lời nói của ta, phải tôn trọng
sự hiện diện cũng như sự chân thật
của Thiên Chúa. Cẩn trọng khi kêu cầu danh Thiên
Chúa, là cách chúng ta tỏ ḷng tôn kính sự hiện diện
của Người: lời chân thật tôn vinh sự
hiện diện của Chúa, lời nói dối xúc phạm
đến Người.
2154
Theo
gương thánh Phao-lô (x. 2Cr 1,23; Ga 1,20), truyền thống
Hội Thánh vẫn hiểu lời của Đức Giê-su là
không cấm thề nếu có lư do nghiêm trọng và chính
đáng (ví dụ trước ṭa án) "Lời thề là
kêu cầu đến danh Thiên Chúa để làm chứng cho
sự thật, nên chỉ được thề khi nói
sự thật, có suy xét và theo công lư" (x. CIC 1199,1).
2155 (1903) V́
danh Thiên Chúa là thánh, không được kêu tên Chúa vô cớ,
hoặc thề trong những hoàn cảnh có thể bị
cắt nghĩa là đồng t́nh nhà cầm quyền đ̣i
hỏi một cách không chính đáng. Khi chính
quyền bất hợp pháp buộc thề th́ có quyền
từ chối. Phải từ chối,
khi bị bắt buộc thề v́ những mục đích
trái với nhân phẩm hay nghịch với sự hiệp
thông của Hội Thánh.
III. DANH HIỆU
KI-TÔ HỮU
2156
2157 (1235 1668) Người Ki-tô hữu khi
thức dậy, khi bắt đầu kinh nguyện và
việc làm, đều làm dấu Thánh Giá "Nhân danh Chúa Cha
và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. A-men". Người tín
hữu dâng trọn vẹn ngày sống để tôn vinh
Thiên Chúa và kêu cầu Đấng Cứu Thế ban ân sủng giúp họ hành động trong Thánh
Thần như con thảo của Chúa Cha. Dấu Thánh Giá giúp
ta mạnh sức, để vượt qua các cơn cám
dỗ và những lúc khó khăn.
2158
Thiên
Chúa gọi từng người bằng chính tên của
họ (x. Is 43,1; Ga 10,3). Tên
của mỗi người là thánh thiêng. Tên
là người, nên phải được tôn trọng
như dấu chỉ nhân phẩm của người mang
tên đó.
2159
Mỗi
người sẽ mang tên của ḿnh măi măi. Chỉ trong Nước
Trời, tính độc đáo và huyền nhiệm của
những ai đă được ghi dấu bằng Danh Thiên
Chúa mới được bộc lộ trọn vẹn
trong ánh sáng "Ai chiến thắng ... Ta sẽ ban cho
một viên sỏi trắng, trên đó có khắc một tên
mới mà chẳng ai biết được, ngoài
người lănh nhận nó" (Kh 2,17). "Ḱa Con Chiên
hiện ra trước mắt tôi, đứng trên núi Xi-on,
cùng với một trăm bốn mươi bốn ngàn
người mang danh của Con Chiên và của Cha Con Chiên ghi
trên trán" (Kh 14,1).
TÓM LƯỢC
2160
"Ôi
lạy Chúa, Thiên Chúa chúng con, cao cả thay danh Chúa khắp
trên hoàn cầu" (Tv 8,2).
2161
Điều
răn thứ hai dạy phải tôn kính danh Thiên Chúa. Danh Thiên Chúa là thánh.
2162
Điều
răn thứ hai cấm mọi lạm dụng danh Chúa.
Lộng ngôn là tội xúc phạm đến Danh của Thiên
Chúa, của Đức Giê-su Ki-tô, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và các
thánh.
2163
Thề
gian là kêu cầu Thiên Chúa làm chứng cho một lời nói
dối. Bội thề là một tội
trọng xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng luôn trung
thành giữ lời đă hứa.
2164
"Đừng
thề nhân danh Đấng Sáng Tạo, cũng đừng
lấy thụ tạo mà thề, ngoại trừ khi thề
cách chân thật, v́ cần thiết và với ḷng tôn kính"
(T.I-nhă, Linh Thao 38).
2165
Qua
bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu nhận
được một tên riêng trong Hội Thánh. Cha mẹ, người đỡ đầu và cha
xứ cần lưu tâm để đặt cho họ
một tên ki-tô giáo. Vị thánh bổn
mạng nêu gương sống đức bác ái và luôn
chuyển cầu cho ta.
2166
Người Ki-tô hữu bắt đầu các kinh
nguyện và việc làm bằng dấu Thánh Giá "nhân danh
Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. A-men".
2167
Thiên
Chúa gọi từng người bằng chính tên của
họ (x. Is 43,1).