CHƯƠNG HAI
"NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH M̀NH"


Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Anh em hăy yêu thương nhau như Thầy đă yêu thương anh em" (Ga 13,34).

2196   Để trả lời câu hỏi về điều răn trọng nhất Đức Giê-su nói "điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất; ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết ḷng, hết linh hồn, hết tâm trí và hết sức lực ngươi"; điều răn thứ hai là: "Ngươi phải yêu người thân cận như chính ḿnh". Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó" (Mc 12,29-31).

2822
Thánh Phao-lô tông đồ cũng nhắc: "Ai yêu người th́ đă chu toàn lề luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại t́nh, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn của người khác, cũng như các điều răn khác đều tóm lại trong lời này: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính ḿnh". Đă yêu thương th́ không làm hại cho người đồng loại; yêu thương là chu toàn lề luật vậy" (Rm 13,8-10).)


Mục 4
Điều Răn Thứ Tư

"Hăy trọng kính cha mẹ ngươi, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi" (Xh 20,12)

"Người hằng vâng phục các ngài" (Lc 2,51)

Chính Đức Giê-su cũng nhấn mạnh về "điều răn này của Thiên Chúa" (Mc 7,8-13). Thánh tông đồ Phao-lô cũng dạy: "Kẻ làm con, hăy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, v́ đó là điều phải đạo. "Hăy tôn kính cha mẹ". Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: "để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này" (Ep 6,13) (x. Đnl 5,16).

2197 (1897)  Điều răn thứ tư mở đầu phần hai của Thập Giới, ấn định trật tự của đức ái. Thiên Chúa muốn rằng sau Người, chúng ta phải tôn kính cha mẹ, v́ đă sinh thành dưỡng dục, và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải tôn kính những người được Thiên Chúa trao ban quyền hành để mưu ích cho chúng ta.

2198 (2419)  Điều răn này được tŕnh bày dưới h́nh thức tích cực, ấn định những bổn phận phải chu toàn, và chuẩn bị cho những điều răn tiếp theo, đ̣i buộc con người phải tôn trọng sự sống, hôn nhân, của cải trần thế và lời nói. Đấy là một trong những nền tảng của học thuyết xă hội của Hội Thánh.

2199  Điều răn thứ tư nói đến bổn phận con cái đối với cha mẹ, v́ đây là tương quan phổ quát nhất. Điều răn này c̣n rộng mở tới bổn phận của học tṛ đối với thầy, thợ với chủ, kẻ thuộc cấp đối với người chỉ huy, công dân đối với tổ quốc và với tất cả những người điều hành, cai trị đất nước.

Điều răn này cũng bao hàm và hiểu ngầm những bổn phận của cha mẹ, giám hộ, thầy cô, người lănh đạo, nhà cầm quyền, nghĩa là tất cả những ai có quyền trên kẻ khác hay trên một tập thể.

2200 (2304)  Điều răn thứ tư có kèm theo phần thưởng: "Ngươi hăy trọng kính cha mẹ để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi" (Xh 20,12; Đnl 5,16).
Ai tôn trọng điều răn này, ngoài những lợi ích thiêng liêng, c̣n nhận được những lợi ích trần thế là an b́nh và thịnh vượng. Ngược lại, vi phạm điều răn nầy sẽ gây nhiều thiệt hại lớn cho cộng đoàn và cho cá nhân.

I. GIA Đ̀NH TRONG KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA

Bản chất của gia đ́nh

2201 (1625)  Hôn nhân và gia đ́nh được thiết lập trên sự ưng thuận của đôi vợ chồng, nhằm vào lợi ích của họ cũng như vào việc sinh sản và giáo dục con cái. T́nh yêu vợ chồng và việc sinh sản con cái tạo ra những tương quan nhân vị và những trách nhiệm hàng đầu, giữa những phần tử trong gia đ́nh.

2202 (1882)  Vợ chồng và con cái tạo thành một gia đ́nh. Gia đ́nh tự h́nh thành và có trước sự công nhận của công quyền. Người ta xem gia đ́nh là nền tảng để từ đó xác định những tương quan khác trong thân tộc.

2203 (369)  Khi tạo dựng người nam và người nữ, Thiên Chúa đă thiết lập gia đ́nh và đặt nền tảng cơ bản cho nó. Các phần tử trong gia đ́nh đều b́nh đẳng về nhân phẩm. V́ lợi ích chung của các phần tử và của xă hội, gia đ́nh có một số trách nhiệm, quyền lợi và bổn phận.

Gia đ́nh Ki-tô giáo (1655-1658)

2204 (533)  "Gia đ́nh Ki-tô giáo bày tỏ và thể hiện một cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh v́ lẽ đó... phải được coi là một "Hội Thánh tại gia" (x. FC 21, x. LG 11), là một cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến (x. Ep 5,21-6,4, Col 3,18-21; 1 Pr 3,1-7). Tân Ước cho thấy gia đ́nh có một tầm quan trọng đặc biệt trong Hội Thánh.

2205 (1702)  Gia đ́nh Ki-tô giáo là một hiệp thông nhân vị là dấu chỉ và h́nh ảnh của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Việc sinh sản và giáo dục con cái phản ánh công tŕnh sáng tạo của Chúa Cha. Gia đ́nh được mời gọi tham dự vào sự cầu nguyện và hy tế của Đức Ki-tô. Kinh nguyện hằng ngày và chăm đọc Lời Chúa củng cố đức mến trong gia đ́nh. Gia đ́nh Ki-tô giáo mang sứ mạng loan báo Tin Mừng truyền giáo.

2206  Những mối tương quan trong gia đ́nh đưa tới những cảm nghĩ, những t́nh nghĩa, những sở thích, những quyền lợi giống nhau, nhất là do việc biết tôn trọng lẫn nhau. Gia đ́nh là một cộng đoàn ưu việt được mời gọi để thực hiện "sự đồng tâm nhất trí giữa vợ chồng và sự ân cần cộng tác của cha mẹ trong việc giáo dục con cái" (x. GS 52,1).

II. GIA Đ̀NH VÀ XĂ HỘI

2207 (1880 372 1603)  Gia đ́nh là tế bào căn bản của đời sống xă hội, là xă hội tự nhiên, nơi đó, người nam và người nữ được mời gọi tận hiến cho nhau trong t́nh yêu và trong việc thông truyền sự sống. Quyền bính, sự ổn định và đời sống tương giao nơi gia đ́nh là nền tảng cho tự do, an ninh và t́nh huynh đệ của xă hội.

Gia đ́nh là cộng đoàn, nơi đó từ thời thơ ấu, con người được học biết tôn trọng những giá trị luân lư, tôn thờ Thiên Chúa và biết sử dụng tự do. Đời sống gia đ́nh chuẩn bị cho đời sống xă hội.

2208  Gia đ́nh phải sống thế nào để các thành viên biết quan tâm và nhận trách nhiệm đối với những người trẻ và những người già, người đau yếu, tật nguyền và nghèo khổ. Có nhiều gia đ́nh đôi khi không đủ sức giúp nhau như vậy. Bấy giờ, những người khác, những gia đ́nh khác và xă hội, phải chăm lo cho những người này. "Thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ ḿnh cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian là đạo đức tinh tuyền và không t́ ố trước mặt Thiên Chúa Cha" (Gcb 1,27)

2209 (1883)  Gia đ́nh phải được xă hội giúp đỡ và bảo vệ bằng những biện pháp thích ứng. Nơi nào các gia đ́nh không đủ khả năng chu toàn phận vụ, các tổ chức xă hội khác có bổn phận trợ giúp và nâng đỡ cơ chế gia đ́nh. Theo nguyên tắc bổ trợ, những cộng đoàn lớn không được lấn quyền hay xen vào đời sống của các gia đ́nh.

2210  Gia đ́nh rất cần thiết cho đời sống và phúc lợi xă hội (x. GS 47,1), nên xă hội đặc biệt có trách nhiệm nâng đỡ và củng cố hôn nhân và gia đ́nh. "Chính quyền phải nh́n nhận, bênh vực và phát huy bản chất đích thực của hôn nhân và gia đ́nh, phải bảo vệ nền luân lư chung và giúp cho gia đ́nh được sung túc, v́ đó là những bổn phận mà chính quyền phải coi như một sứ mạng thiêng liêng phải chu toàn".

2211  Cộng đoàn chính trị có bổn phận tôn trọng, trợ giúp và nhất là bảo đảm cho gia đ́nh có được các quyền sau đây:

·         Quyền tự do lập gia đ́nh, quyền sinh con cái và giáo dục chúng theo những xác tín luân lư và tôn giáo của ḿnh;

·         Quyền bảo toàn dây liên kết vững bền của hôn nhân và cơ chế gia đ́nh;

·         Quyền tự do tuyên xưng đức tin và thông truyền đức tin, quyền giáo dục đức tin cho con cái bằng những phương tiện và cơ chế cần thiết;

·         Quyền tư hữu, tự do làm việc, có việc làm, có nhà ở, tự do di cư;

·         Quyền được chăm sóc y tế trợ cấp tuổi già, phụ cấp gia đ́nh, tùy theo cơ chế của các quốc gia;

·         Quyền được bảo vệ an ninh và cuộc sống lành mạnh, tránh các nguy cơ như: x́ ke ma túy, dâm ô đồi trụy, nghiện rượu v.v....

·         Quyền tự do liên kết với các gia đ́nh khác để lập hội đoàn và như thế, được đại diện bên cạnh công quyền (x. FC 46).

2212 (225 1931)  Điều răn thứ tư cũng làm sáng tỏ các mối tương quan khác trong xă hội: Anh chị em ruột, là con cái của cha mẹ chúng ta; anh chị em họ, là những con cái của tổ tiên chúng ta; đồng bào là con cái của tổ quốc; các tín hữu là con cái của Mẹ Hội Thánh; mỗi con người là một người con của Đấng chúng ta gọi là "Cha chúng con". Do đó, các mối tương quan với tha nhân đều là những tương quan nhân vị. Tha nhân không phải là một "cá nhân" giữa tập thể, nhưng là "một con người" phải được mọi người đặc biệt lưu tâm và tôn trọng.

2213 (1939)  Con người họp thành những cộng đồng nhân loại. Để quản trị các cộng đồng một cách tốt đẹp, không những phải bảo đảm các quyền chu toàn các bổn phận, tuân giữ các khế ước, nhưng phải có ḷng nhân hậu của người biết mưu cầu công b́nh và t́nh huynh đệ, nhờ đó có được quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ, giữa nhà cầm quyền và công dân.

III- BỔN PHẬN CỦA CÁC PHẦN TỬ TRONG GIA Đ̀NH

Bổn phận con cái

2214 (1858)  T́nh phụ tử của Thiên Chúa là nguồn mạch của t́nh phụ tử nơi loài người (Eph 3,14). Vinh dự của cha mẹ đặt trên nền tảng này. Ḷng tôn kính của con cái c̣n vị thành niên hay đă trưởng thành, phát sinh từ ḷng yêu mến tự nhiên liên kết chúng với cha mẹ (x Pr 1,8 ;Tb 4,3-4). Chính luật Chúa đ̣i hỏi ḷng tôn kính ấy (x. Xh 20,12).

2215  Ḷng tôn kính của con cái đối với cha mẹ (hiếu thảo) phát xuất từ sự biết ơn đối với những người đă cho chúng được sống và nhờ t́nh yêu và công lao của họ, giúp chúng lớn lên về tầm vóc, khôn ngoan và ân sủng. "Hăy hết ḷng tôn kính cha con, và đừng quên ơn mẹ đă mang nặng đẻ đau. Hăy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy con lấy chi đáp đền cho cân xứng"? (Hc 7,27-28)

2216 (532)  Ḷng hiếu thảo được bày tỏ qua sự ngoan ngoăn và)vâng phục chân thành. "Hỡi con, lệnh cha con truyền, hăy lo tuân giữ; lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai... Những lời đó sẽ hướng dẫn con lúc con đi, sẽ giữ ǵn con khi con nằm, sẽ cùng con chuyện tṛ khi con thức dậy" (Cn 6,20-22). "Con khôn giữ lời cha nghiêm huấn, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời sửa dạy" (Cn 13,1).

2217  Bao lâu c̣n chung sống với cha mẹ, con cái phải tuân giữ mọi điều cha mẹ dạy, v́ lợi ích của ḿnh và của gia đ́nh. "Kẻ làm con hăy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, v́ đó là điều đẹp ḷng Chúa" (Cl 3,20) (x. Eph 6,1). Trẻ em c̣n phải vâng lời thầy cô và người giám hộ. Theo lương tâm, nếu thấy vâng theo một lệnh truyền nào đó là làm điều xấu, th́ con cái không buộc phải vâng lời.

1831   Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ, biết đón trước ư muốn của các ngài, sẵn sàng bàn hỏi và chấp nhận những lời khuyên cáo đúng đắn của cha mẹ. Khi không c̣n chung sống với cha me,) con cái vẫn phải tôn kính, v́ ḷng tôn kính này bắt nguồn từ sự kính sợ Thiên Chúa, một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần.

2218   Điều răn thứ tư c̣n cho những người con đă trưởng thành biết trách nhiệm của họ đối với cha me, về vật chất cũng như tinh thần, khi các ngài già yếu, bệnh tật, cô đơn hay hoạn nạn. Chúa Giê-su nhắc lại bổn phận biết ơn này (x. Mc 7,10-12).)

"Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang v́ con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai tôn kính cha th́ bù đắp lỗi lầm, ai trọng kính mẹ th́ tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng v́ con cái, khi cầu nguyện họ sẽ được lắng nghe. Ai trọng quí cha sẽ được trường thọ và ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an ḷng" (Hc 3,2-6).

"Con ơi, hăy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già, bao lâu người c̣n sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy ḿnh sung sức mà khinh dể người. Ai bỏ rơi cha ḿnh th́ khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ ḿnh, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa" (Hc 3, 12-13, 16).

2219  Ḷng hiếu thảo tạo bầu khí thuận ḥa trong đời sống gia đ́nh, ảnh hưởng đến các)mối tương quan giữa anh chị em. Ḷng hiếu thảo sưởi ấm bầu khí gia đ́nh. "Con cháu là vinh quang của tuổi già" (Cn 17,6). "Anh em hăy ăn ở khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại". Hăy lấy t́nh bác ái mà chịu đựng lẫn nhau" (Eph 4,2).

2220  Các Ki-tô hữu c̣n phải biết ơn những kẻ đă giúp ḿnh lănh nhận đức tin, ân sủng bí tích Thánh Tẩy và đời sống trong Hội Thánh. Những người này có thể là cha mẹ, ông bà, những phần tử khác của gia đ́nh, các vị mục tử, giáo lư viên, thầy cô giáo hay bạn bè. "Tôi hồi tưởng lại ḷng tin không giả h́nh của anh, là ḷng tin đă có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh và nơi bà Eu-ni- kê mẹ anh và tôi xác tín rằng nơi anh cũng vậy" (2 Tm 1, 5).

Bổn phận của cha mẹ

2221 (1653)  T́nh yêu vợ chồng không chỉ triển nở qua việc sinh con, mà c̣n qua việc giáo dục đời sống luân lư và tâm linh cho chúng nữa. "Vai tṛ của cha mẹ) trong việc giáo dục quan trọng đến nỗi không ǵ thay thế được" (x. GE 3). Quyền và bổn phận giáo dục con cái là quyền và bổn phận căn bản, bất khả nhượng (x. FC 36).

2222 (494)  Cha mẹ phải xem con cái như những người con của Thiên Chúa và tôn trọng chúng như những nhân vị. Họ phải dạy cho con cái biết chu toàn luật Thiên Chúa, bằng cách chính họ cũng cho thấy ḿnh vâng phục thánh ư Cha trên trời.

2223 (1804)  Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái. Họ thể hiện trách nhiệm này qua việc)xây dựng một mái ấm gia đ́nh dựa trên) t́nh âu yếm, ḷng tha thứ, tôn trọng lẫn nhau, chung thủy và tinh thần phục vụ vô vị lợi. Mái ấm gia đ́nh là nơi thích hợp cho việc)giáo dục các đức tính, nơi đây con cái học biết hy sinh, phán đoán lành mạnh, tự chủ, là những điều kiện cho tự do đích thực. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết "coi trọng các chiều kích tâm linh hơn là những ǵ thuộc thể lư và bản năng" (x. CA 36). Cha mẹ có trách nhiệm quan trọng là phải nên gương tốt cho con cái. Khi biết nh́n nhận những thiếu sót của ḿnh trước mặt con cái, cha mẹ có uy tín hơn để hướng dẫn và sửa dạy con cái:

"Thương con cho roi cho vọt, ai biết giáo dục con sẽ được thỏa ḷng về con" (Hc 30,1-2). "Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hăy giáo dục chúng bằng cách khuyên răn và sửa dạy thay mặt Chúa" (Eph 6,4).

2224 (1939)  Gia đ́nh là môi trường tự nhiên để chuẩn bị con người sống t́nh liên đới và nhận các trách nhiệm trong cộng đồng. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết tránh những thái độ thỏa hiệp và sa đọa đang đe dọa xă hội loài người.

2225 (1656)  Nhờ ơn bí tích Hôn Phối, cha mẹ nhận trách nhiệm và đặc quyền giáo dục đức tin cho con cái. Cha mẹ là những sứ giả đầu tiên của đức tin, khai tâm cho con về các mầu nhiệm đức tin từ lúc chúng c̣n nhỏ. Họ phải đưa con cái, ḥa nhập vào đời sống của Hội Thánh ngay từ lúc c̣n thơ bé. Nếp sống gia đ́nh có thể tạo nên những tâm t́nh tốt đẹp, chuẩn bị và nâng đỡ đức tin sống động cho con trong suốt cuộc đời.

2226 (2179)  Cha mẹ phải giáo dục đức tin cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ. Việc giáo dục này khởi đầu ngay khi các phần tử trong gia đ́nh giúp nhau lớn lên trong đức tin, nhờ chứng từ của một đời sống đạo phù hợp với Tin Mừng. Việc dạy giáo lư trong gia đ́nh đi trước, đồng hành và làm phong phú thêm các h́nh thức giáo dục đức tin khác. Cha mẹ có sứ mạng dạy cho con cái biết cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi làm con Thiên Chúa (x. LG 11). Giáo xứ là cộng đồng Thánh Thể và là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đ́nh Ki-tô giáo, nên là nơi tốt nhất để giáo dục đức tin cho trẻ em và cha mẹ chúng.

2227 (2013)  Con cái cũng góp phần giúp cho cha mẹ sống thánh thiện (x. GS 48,4). Mọi người và mỗi người phải biết quảng đại và sẵn sàng tha thứ cho nhau khi gặp những xúc phạm, gây gỗ, bất công và thiếu quan tâm (x. Mt 18,21-22, Lc 17,4). T́nh yêu thương lẫn nhau và đức ái của Chúa Ki-tô đ̣i buộc như thế.

2228  Khi con cái c̣n nhỏ, cha mẹ tôn trọng và yêu thương chúng qua việc chăm sóc và lưu tâm dưỡng dục, đáp ứng những nhu cầu thể xác và tâm linh của chúng. Khi chúng lớn lên, cha mẹ tôn trọng và tận tụy giáo dục con cái biết sử dụng lư trí và tự do.

2229  Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái, nên có quyền) chọn lựa cho con cái một trường học theo ư ḿnh. Quyền này là quyền căn bản. Cha mẹ phải cố gắng chọn lựa trường học nào giúp chu toàn tốt nhất trách vụ của người giáo dục đức tin (x. GE 6). Nhà Nước có bổn phận bảo đảm và giúp đỡ để cha mẹ thực thi quyền ấy.

2230 (1625)  Khi đến tuổi trưởng thành, con cái có bổn phận và có quyền chọn lựa nghề nghiệp và bậc sống. Con cái có những trách nhiệm mới nhưng vẫn giữ tương quan đầy tín nhiệm đối với cha mẹ, sẵn sàng bàn hỏi, lắng nghe ư kiến và lời khuyên bảo của cha mẹ. Cha mẹ phải tránh ép buộc con cái trong việc chọn nghề, cũng như trong việc chọn người bạn đời. Dù phải dè dặt, cha mẹ vẫn có thể giúp đỡ con cái bằng những ư kiến khôn ngoan, nhất là khi con cái chuẩn bị lập gia đ́nh.

2231  Có những người không lập gia đ́nh để chăm sóc cha mẹ, anh chị em, hoặc để dồn hết tâm trí vào một nghề nghiệp hay một lư do cao đẹp khác. Họ có thể góp phần lớn lao vào lợi ích của gia đ́nh nhân loại.

IV. GIA Đ̀NH VÀ NƯỚC TRỜI

2232 (1618)  Các liên hệ gia đ́nh rất quan trọng nhưng không tuyệt đối. Đứa trẻ càng lớn lên, vươn tới tuổi trưởng thành và tự chủ về mặt nhân bản và thiêng liêng, ơn gọi riêng do Thiên Chúa ban càng được khẳng định rơ ràng và mạnh mẽ hơn. Cha mẹ phải tôn trọng và cổ vơ con cái đáp trả và đi theo ơn gọi ấy. Phải xác tín rằng ơn gọi đầu tiên của Ki-tô hữu là đi theo Đức Giê-su (x. Mt 16,25). "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy th́ không đáng làm môn đệ Thầy, ai yêu con trai hay con gái ḿnh hơn Thầy th́ không đáng làm môn đệ Thầy" (Mt 10,37).

2233 (542)  Trở thành môn đệ Đức Giê-su, là chấp nhận lời mời gọi thuộc về gia đ́nh Thiên Chúa và sống như Người: "Ai thi hành ư muốn của Cha Ta, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em và là mẹ Ta" (Mt 12,49).

Với tâm t́nh vui mừng và biết ơn, cha mẹ phải đón nhận và tôn trọng ơn Thiên Chúa mời gọi một trong số con cái ḿnh đi theo Người, trong đời sống trinh khiết v́ Nước Trời, trong đời thánh hiến, hay trong thừa tác vụ tư tế.

V.- QUYỀN BÍNH TRONG XĂ HỘI DÂN SỰ

2234 (1897)  Điều răn thứ tư cũng dạy ta phải tôn trọng tất cả những ai được Thiên Chúa trao ban một quyền bính trong xă hội để mưu ích cho chúng ta. Điều răn này soi sáng các bổn phận của những người thực thi quyền bính cũng như những kẻ được phục vụ.

Bổn phận của chính quyền dân sự

2235 (1899)  Những người cầm quyền phải thực thi quyền bính như người phục vụ: "Ai muốn làm lớn giữa anh em th́ phải làm đầy tớ anh em" (Mt 20, 26). Về mặt luân lư, việc thực thi quyền bính phải căn cứ vào Thiên Chúa là Đấng ban quyền, vào lư trí tự nhiên và đối tượng đặc thù của quyền này. Không ai được quyền truyền lệnh hay thiết lập điều ǵ trái với nhân phẩm và luật tự nhiên.

2236 (2411)  Phải thực thi quyền bính theo trật tự chính đáng các giá trị giúp mọi người dễ dàng sử dụng tự do và trách nhiệm. Cấp trên phải khôn ngoan thực thi công bằng phân phối bằng cách quan tâm đến nhu cầu và phần đóng góp của mỗi người, để tạo sự ḥa thuận. Họ phải lưu tâm đừng để cho các luật lệ và các qui định được ban hành tạo ra nguy cơ đối nghịch lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể (x. CA 25).

2237 (357)  Chính quyền phải tôn trọng các quyền căn bản của con người. Phải thực thi công b́nh với ḷng nhân đạo khi tôn trọng quyền của từng người, nhất là quyền của các gia đ́nh và những người khốn cùng.

Các quyền chính trị gắn liền với tư cách công dân, có thể và phải được công nhận theo các đ̣i hỏi của công ích. Các quyền ấy không thể bị công quyền đ́nh chỉ khi không có lư do chính đáng và tương xứng. Việc thực thi các quyền chính trị nhằm mưu cầu lợi ích chung của quốc gia và của cộng đồng nhân loại.

Bổn phận công dân

2238 (1900)  Những người phục tùng quyền bính phải coi cấp trên như người đại diện Thiên Chúa, Đấng đă đặt họ làm người phân phát các ân huệ của Người (x. Rm 13,1-2): "V́ Chúa, anh em hăy tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra. Hăy hành động như những con người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che đậy sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa" (1 Pr 2,13.16). Sự cộng tác trung thực của người công dân bao hàm quyền, đôi khi là bổn phận, phải lên tiếng phê phán những ǵ họ cho là có hại cho nhân phẩm và lợi ích của cộng đồng.

2239 (1915 2310)  Người công dân phải góp phần với chính quyền để mưu ích cho xă hội trong tinh thần tôn trọng chân lư, công bằng, liên đới và tự do. Ḷng yêu mến và phục vụ Tổ Quốc phát xuất từ bổn phận tri ân và đ̣i hỏi của đức ái. Nhiệm vụ tùng phục quyền bính hợp pháp và phục vụ công ích đ̣i hỏi người công dân chu toàn vai tṛ của ḿnh trong đời sống của cộng đồng chính trị.

2240 (2265)  Bổn phận tùng phục quyền bính và có trách nhiệm đối với công ích buộc người công dân phải đóng thuế, bầu cử và bảo vệ quê hương:

"Anh em nợ ai cái ǵ, hăy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đ̣i sưu, trả thuế cho người đ̣i thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính" (Rm 13,7)

"Người Ki-tô hữu cư ngụ trên quê hương ḿnh, như những ngoại kiều thường trú. Họ chu toàn mọi bổn phận công dân và gánh chịu tất cả như ngoại kiều... Họ vâng phục luật pháp hiện hành nhưng đời sống của họ vượt trên luật pháp... Thiên Chúa đă cho họ một địa vị cao quí đến độ họ không bỏ đi được" (Epitre à Diognète 5,5.19; 6,10).

(1900)  Thánh Phao-lô tông đồ cũng khuyến dụ chúng ta phải cầu nguyện và tạ ơn Chúa cho "vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh"(1Tm 2,2).

2241  Những quốc gia giàu hơn có bổn phận đón nhận theo khả năng, những người nước ngoài đến t́m kiếm an ninh và sinh kế mà họ không có được nơi chính quê hương họ. Chính quyền phải để tâm tôn trọng luật tự nhiên vốn đ̣i hỏi phải bảo vệ những khách kiều cư. V́ công ích, chính quyền có thể quy định một số điều kiện pháp lư cho quyền nhập cư, nhất là đ̣i hỏi các người di dân phải tôn trọng các bổn phận đối với quốc gia tiếp nhận họ). Người dân nhập cư phải biết ơn và tôn trọng di sản vật chất và tinh thần của xứ sở tiếp nhận họ, tuân thủ luật pháp và chia sẻ các trách vụ trong nước ấy.

2242 (1903 2313 450)  Theo lương tâm, người công dân không được tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự khi chúng ngược lại các đ̣i hỏi luân lư, nghịch với các quyền cơ bản của con người hay giáo huấn của Tin Mừng. Khi những đ̣i hỏi của chính quyền nghịch với đ̣i hỏi của lương tâm ngay thẳng, Ki-tô hữu từ chối vâng phục chính quyền, v́ phải phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. "Của Xê- da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mt 22,21). "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người" (Cv 5,29):

(1901)  "Khi công quyền vượt quá quyền hạn của ḿnh mà đàn áp công dân, th́ lúc đó chính công dân cũng không nên từ chối những ǵ khách quan xét thấy phù hợp với đ̣i hỏi công ích. Họ được phép bênh vực các quyền lợi riêng của ḿnh cũng như của đồng bào, chống lại những lạm dụng của công quyền, nhưng phải tôn trọng các giới hạn của luật tự nhiên cũng như luật Tin Mừng" (GS 74,5).

2243 (2309)  Không được sử dụng vũ khí chống lại một chính quyền áp bức, trừ khi hội đủ các điều kiện sau đây:

1.     Có bằng cớ chắc chắn chính quyền vi phạm nghiêm trọng và lâu dài các quyền căn bản.

2.     Sau khi đă dùng mọi phương thế khác.

3.     Không gây ra những xáo trộn tệ hại hơn.

4.     Có đủ cơ sở để hy vọng thành công.

5.     Nếu không t́m được giải pháp nào khác tốt hơn.

Cộng đồng chính trị và Hội Thánh

2244 (1910 1881 2109)  Mọi cơ chế đều minh nhiên hay mặc nhiên dựa trên một nhân sinh quan. Từ đó, rút ra những tiêu chuẩn để phán đoán bậc thang các giá trị và đường lối hành động. Đa số các xă hội xây dựng cơ chế của ḿnh dựa trên một điểm ưu việt nào đó của con người so với vạn vật. Chỉ có tôn giáo được Thiên Chúa mặc khải, mới nhận ra được nguồn gốc và định mệnh của con người, nơi Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc. Hội Thánh mời gọi các chính quyền nên có những phán đoán và những quyết định dựa trên chân lư mặ)c khải về Thiên Chúa và con người.

Các xă hội không biết đến hay từ khước mặc khải này, v́ không muốn lệ thuộc vào Thiên Chúa, đều phải t́m nơi chính ḿnh hay vay mượn ở một ư thức hệ nào đó, những tiêu chuẩn và cứu cánh cho ḿnh. Khi không chấp nhận cho người ta bảo vệ một tiêu chuẩn khách quan về thiện ác, các xă hội ấy tự ban cho ḿnh một quyền lực độc tài chuyên chế trên con người và trên định mệnh con người, cách công khai hay ngấm ngầm, như lịch sử từng minh chứng (x. CA 45;46).

2245 (912)  Do sứ mạng và thẩm quyền của ḿnh, Hội Thánh không tự đồng hóa với cộng đồng chính trị, nhưng Hội Thánh vừa là dấu chỉ, vừa là người bảo vệ tính siêu việt của nhân vị. "Hội Thánh tôn trọng và cổ vơ tự do chính trị cũng như trách nhiệm của các công dân" (x. GS 76,3).

2246 (2032 2420)  Hội Thánh có sứ mệnh "nói lên nhận định luân lư của ḿnh cả trong những vấn đề liên quan tới lănh vực chính trị, khi các quyền căn bản của con người hay phần rỗi các linh hồn đ̣i hỏi, bằng cách sử dụng mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp với Tin Mừng và lợi ích của thời đại và hoàn cảnh khác nhau" (x. GS 76,5).

TÓM LƯỢC

2247  "Hăy thảo kính cha mẹ" (Dt 5,16, Mc 7,10).

2248  Theo điều răn thứ tư, Thiên Chúa muốn rằng, sau Người chúng ta phải tôn kính cha mẹ và những ai được Người trao ban quyền hành để mưu ích cho chúng ta.

2249  Hôn nhân được thiết lập trên giao ước và sự ưng thuận của đôi vợ chồng. Hôn nhân và gia đ́nh nhắm tới lợi ích của đôi vợ chồng, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái.

2250  "Sự lành mạnh của con người, của xă hội nhân loại và Ki-tô giáo liên kết chặt chẽ với t́nh trạng tốt đẹp của cộng đồng hôn nhân và gia đ́nh" (x. GS 47,1)).

2252  Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục đức tin, cầu nguyện và mọi đức tính tốt cho con cái tùy theo khả năng, cha mẹ có bổn phận đáp ứng những nhu cầu thể xác và tâm linh của con cái.

2253  Cha mẹ phải tôn trọng và tạo thuận lợi cho ơn gọi của con cái ḿnh. Họ phải ư thức và dạy dỗ cho con biết rằng theo Đức Giê-su là ơn gọi đầu tiên của Ki-tô hữu.

2254  Công quyền phải tôn trọng các quyền căn bản của con người và các điều kiện để con người thể hiện tự do.

2255  Người công dân phải cộng tác với chính quyền để xây dựng xă hội trong tinh thần tôn trọng chân lư, công bằng, liên đới và tự do.

2256  Theo lương tâm, người công dân không được tuân theo các luật lệ của chính quyền khi chúng ngược lại đ̣i hỏi luân lư. "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người" (Cv 5,29).

2257  Mọi tập thể đều phán đoán và hành động dựa trên một nhân sinh quan. Nếu không được ánh sáng Tin Mừng soi dẫn về Thiên Chúa và về con người, tập thể dễ trở thành độc tài.