"Ngươi
không được trộm cắp " (Xh 20, 15; Đnl 5,19).
"Ngươi không được trộm cắp" (Mt
19,18).
2401 (1807 952) Điều răn thứ
bảy cấm lấy hoặc giữ tài sản của
kẻ khác cách bất công, cấm làm hại của cải
họ bất cứ bằng cách nào. Điều răn này
dạy phải giữ công bằng và bác ái trong việc
quản lư những của cải trần thế và thành
quả lao động của con
người. V́ công ích, điều răn này đ̣i phải
tôn trọng quyền chung hưởng các
của cải trần thế và quyền tư hữu. Người Ki-tô hữu cố gắng sử
dụng mọi của cải trần thế để
phụng sự Thiên Chúa và thực thi bác ái huynh đệ.
I. QUYỀN CHUNG
HƯỞNG CỦA CẢI TRẦN THẾ VÀ QUYỀN
TƯ HỮU
2402
2403
Quyền tư hữu của cải do ḿnh làm ra hay
nhận được một cách chính đáng, không hủy
bỏ việc Thiên Chúa đă ban địa cầu cho toàn
thể nhân loại ngay từ nguyên thủy. Quyền
chung hưởng của cải
vẫn ưu tiên, cho dù sự thăng tiến công ích đ̣i
phải tôn trọng tư sản, quyền tư hữu và
việc hành sử quyền này.
2404 (307) "Khi sử dụng
của cải, con người phải coi của cải
vật chất mà ḿnh sở hữu cách chính đáng không
chỉ như của riêng ḿnh, nhưng c̣n là của chung nữa:
nghĩa là của cải đó có thể sinh ích không
những cho riêng ḿnh mà c̣n cho cả người khác
nữa" (x. GS 69,1). Người sở hữu một tài
sản là người được Thiên Chúa quan pḥng trao
cho nhiệm vụ quản lư, để làm cho của
cải này sinh hoa lợi và thông phần lợi ích cho
người khác, trước tiên là cho những người
thân của ḿnh.
2405
Chủ
nhân của những tư liệu sản xuất, vật
chất hoặc phi vật chất, như đất
đai hoặc cơ xưởng, những kỹ năng
hay nghệ thuật, phải biết chăm lo để
lợi tức của chúng đem lại ích lợi cho
nhiều người hơn. Những
người sở hữu các sản phẩm tiêu dùng,
phải sử dụng chừng mực, dành phần tốt
đẹp hơn cho người khách, người đau
ốm, người nghèo khổ.
2406 (1903) V́ công ích, chính quyền có quyền và bổn phận
điều tiết, việc hành sử chính đáng
quyền sở hữu (x. GS 71,4).
II. TÔN TRỌNG
CON NGƯỜI VÀ TÀI SẢN
2407 (1809 1807 1839) Trong lănh vực kinh tế,
việc tôn trọng nhân phẩm đ̣i chúng ta phải
sống tiết độ, biết tiết chế ḷng ham
muốn của cải trần gian; sống)công bằng,
biết tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của tha nhân; và sống)liên đới, theo "quy
luật vàng" và theo ḷng hào phóng của Chúa.
"Người vốn giàu sang phú quư đă tự ư trở
nên nghèo khó v́ anh em, để lấy cái nghèo của ḿnh mà
làm cho anh em trở nên giàu có" (2Cr 8,9).
Tôn trọng tài
sản tha nhân
2408
Điều
răn thứ bảy cấm trộm cắp, nghĩa là cấm
chiếm đoạt tài sản tha nhân bất chấp ư
muốn chính đáng của sở hữu chủ. Nếu có
thể đoán trước được sự ưng
thuận của chủ hoặc sự khước từ
của họ nghịch với lẽ phải và với
quyền chung hưởng của cải
trần thế th́ việc chiếm hữu tài sản không
c̣n là tội ăn cắp. Như thế, trong trường
hợp khẩn cấp và rơ ràng, và không c̣n cách nào để
đáp ứng cho các nhu cầu cấp thời và thiết
yếu (thức ăn, chỗ ở, áo quần...), th́
được quyền sử dụng tài sản tha nhân (x.
GS 69,1).
2409 (1867) Mọi
h́nh thức chiếm đoạt và cầm giữ cách
bất công tài sản tha nhân, dù không nghịch với dân
luật, vẫn nghịch với điều răn thứ
bảy, như cố t́nh không trả của đă
mượn, giữ lại của rơi, buôn gian bán
lận (x. Đnl 25,13-16), trả lương thiếu công
bằng (x. Đnl 24,14-15, Gcb 5,4), lợi dụng sự không biết
và khó khăn của tha nhân để tăng giá (x. Am 8,4-6).
Về phương diện luân lư, những
việc sau đây bất hợp pháp: đầu cơ, làm
biến động giá cả cách giả tạo với
mục đích trục lợi cho ḿnh nhưng làm thiệt
hại cho tha nhân; hối lộ, làm sai lệch phán đoán
của những người có bổn phận quyết
định theo luật pháp; chiếm đoạt và sử
dụng tài sản tập thể làm của riêng; làm ăn
thiếu trách nhiệm, lậu thuế, giả mạo các
chi phiếu và hóa đơn, chi tiêu quá mức, lăng phí. Cố ư gây thiệt hại tài sản tư nhân
hoặc công cộng là nghịch với luật luân lư và
phải bồi thường.
2410 (2101) Phải giữ lời
hứa, và thực hiện đầy đủ các)hợp
đồng đă cam kết trong mức độ công
bằng và hợp lư. Đời sống kinh tế và xă hội
tùy thuộc rất nhiều vào các hợp đồng
thương mại, những giao kèo thuê mướn
hoặc lao động. Mọi
hợp đồng đều phải được
thỏa thuận và thi hành với thiện ư.
2411 (1807) Các hợp đồng phải
tuân theo công bằng giao hoán
quy định những sự trao đổi giữa các cá
nhân và giữa các tổ chức trong sự tôn trọng
đúng mức các quyền lợi của nhau. Công bằng giao hoán phải được
triệt để tôn trọng, v́ nó buộc con
người bảo toàn các quyền tư hữu, hoàn
trả nợ nần và tuân giữ các nghĩa vụ đă
tự do giao kết. Không có công bằng
giao hoán th́ không thể có một h́nh thức công bằng nào
khác.
Cần phân biệt công bằng giao hoán
với công bằng pháp lư quy định những bổn
phận công b́nh của ngựi công dân đối với
cộng đồng, và với công bằng phân phối qui
định việc cộng đồng phải thực
hiện cho người công dân tương xứng với
những đóng góp và những nhu cầu của họ.
2412 (1459) Công bằng giao hoán đ̣i
chúng ta phải đền bù điều bất công đă
làm bằng cách hoàn lại của cải đă lấy
cắp cho sở hữu chủ:
2487
Đức
Giê-su khen Da-kêu v́ lời hứa của ông: "Nếu tôi
đă lường gạt ai cái ǵ, tôi xin đền gấp
bốn" (Lc 19,8). Những ai đă trực tiếp
hoặc gián tiếp chiếm đoạt tài sản tha nhân,
buộc phải hoàn lại, hoặc nếu đồ
vật đó không c̣n nữa, phải trả lại
bằng hiện vật hay tiền mặt tương
đương, kèm theo tiền lời và
các lợi lộc khác mà sở hữu chủ của nó
đă có thể hưởng được cách chính
đáng. Tất cả những người đă tham gia vào
việc trộm cắp một cách nào đó, hoặc đă
thừa hưởng mà biết rơ là của phi pháp,
đều phải hoàn trả cân xứng theo
trách nhiệm và lợi lộc đă hưởng, ví dụ
những người đă truyền lệnh hoặc giúp
đỡ, hoặc tàng trữ, che giấu.
2413 Các tṛ đỏ đen (cờ
bạc v.v...) hoặc cá cược, tự chúng không
nghịch với phép công bằng, nhưng về
phương diện luân lư, không thể chấp nhận
được khi chúng cướp đi những cái
cần thiết để nuôi sống bản thân và
người khác. Cờ bạc biến kẻ
ham mê thành nô lệ. Cờ gian bạc
lận là một lỗi nặng, trừ khi gây thiệt
hại rất nhẹ đến độ người
bị thiệt thấy việc đó không đáng kể.
2414 (2297) Điều
răn thứ bảy nghiêm cấm bất cứ hành vi
hoặc dịch vụ nào - v́ bất cứ một lư do ǵ,
v́ ích kỷ hoặc v́ ư thức hệ, lợi nhuận
hoặc độc tài - dẫn
tới việc nô lệ hóa con
người, không nh́n nhận nhân phẩm của họ, mua
bán hoặc trao đổi họ như hàng hóa. Tội này
xúc phạm đến nhân phẩm và những quyền
căn bản của con người v́ dùng bạo lực
biến họ thành một vật dụng hoặc nguồn
lợi. Thánh Phao-lô đă ra lệnh cho một chủ nhân
Ki-tô hữu phải đối xử với người
nô lệ đồng đạo "không như một nô
lệ, nhưng như một người anh em rất thân
mến...như một con người, trong Đức Chúa"
(Plm 16).
Tôn trọng
sự toàn vẹn của các thụ tạo
2415 (226, 358 378 373) Điều răn thứ
bảy dạy phải tôn trọng sự toàn vẹn
của vạn vật. Thiên Chúa đă ban thú vật, thực
vật và những vật vô tri, nhằm phục vụ
lợi ích chung của nhân loại trong quá khứ, hiện
nay và tương lai (x. St 1,28-31). Khi
sử dụng các nguồn tài nguyên khoáng chất, thực
vật và động vật trong vũ trụ, con
người phải tôn trọng các đ̣i hỏi của
luân lư: Đấng Sáng Tạo đă ban cho con người
quyền bá chủ trên các vật vô tri và những sinh
vật khác, nhưng không phải quyền tuyệt
đối, v́ phải để ư đến ảnh
hưởng trên đời sống của tha nhân, kể cả
những thế hệ tương lai; quyền này đ̣i
chúng ta phải trân trọng sự toàn vẹn của
vạn vật (x. CA 37 -38).
2416 (344) Thú vật là những thụ
tạo của Thiên Chúa và được Người ân
cần chăm sóc (Mt 6,2). Chúng hiện hữu
để ca tụng và tôn vinh Người (x. Đn 3, 57 -58).
Do đó, con người phải biết thương chúng. Các thánh như Phan-xi-cô Át-xi-di hoặc Phi-lip-phê Nê-ri
đều đối xử dịu hiền với thú
vật.
2417 (2234) Thiên Chúa đă dựng nên con
người giống h́nh ảnh Người và trao phó
quyền quản lư các thú vật (x. St 2,19-20; 9,1-4). Do đó
con người được phép ăn
thịt thú vật và lấy da làm y phục, có thể
thuần hóa chúng để trợ lực con người
trong lao động và giải trí. Những thí
nghiệm y học và khoa học trên thú vật có thể
chấp nhận được về phương diện
luân lư, miễn là ở trong những giới hạn hợp
lư và góp phần vào việc chữa bệnh hoặc cứu
lấy mạng sống con người.
2418 (2446) Hành hạ hay giết hại
thú vật cách vô ích là điều trái với phẩm giá con
người. Cũng thế, chi phí những
số tiền quá đáng cho thú vật, lẽ ra phải
ưu tiên làm giảm bớt sự khốn cùng của con
người, th́ cũng là một việc bất xứng.
Người ta có thể thương thú
vật, nhưng không được dành cho chúng t́nh yêu,
chỉ xứng với con người.
Học thuyết xă hội của Hội Thánh
2419 (1960 359) "Mặc khải Ki-tô giáo
đưa ta đến sự hiểu biết sâu xa hơn
về những luật lệ của đời sống xă
hội" (x. GS 23,1). Qua Tin Mừng, Hội Thánh nhận
được mặc khải trọn vẹn chân lư về
con người. Khi chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng,
Hội Thánh nhân danh Đức Ki-tô, xác nhận cho con
người biết phẩm giá riêng và ơn gọi
hiệp thông của con người. Hội Thánh dạy cho
con người biết các yêu sách của công lư và ḥa b́nh,
hợp với ư định khôn ngoan của Thiên Chúa.
2420
Trong
lănh vực kinh tế và xă hội, Hội Thánh chỉ
đưa ra một phán đoán luân lư "khi các quyền
căn bản của con người hoặc phần
rỗi các linh hồn đ̣i hỏi" (x. GS 76,5). Về
mặt luân lư, Hội Thánh có sứ mạng khác với chính
quyền: Hội Thánh quan tâm đến các khía cạnh
trần thế của công ích v́ chúng qui hướng về
Sự Thiện tối thượng, là cứu cánh tối
hậu của chúng ta. Hội Thánh cố
gắng phổ biến những lập trường
đúng đắn đối với của cải
trần thế và với các quan hệ kinh tế xă hội.
2421
Học
thuyết xă hội của Hội Thánh được phát
triển vào thế kỷ thứ XIX khi Tin Mừng tiếp
xúc với xă hội kỹ nghệ tân tiến, với các
cơ cấu mới để sản xuất các sản
phẩm tiêu thụ, với khái niệm mới về xă
hội, về quốc gia và quyền bính, với các h́nh
thức mới của lao động và quyền sở
hữu. Sự phát triển học thuyết kinh tế và xă
hội của Hội Thánh, xác nhận giá trị vững
bền của quyền giáo huấn, cũng như cho
thấy ư nghĩa đích thực của Truyền Thống
luôn luôn sống động và tích cực (x. CA 3).
2422 (2044) Học thuyết xă hội
của Hội Thánh là tập hợp các lời dạy
của Hội Thánh về các biến cố lịch sử,
dưới ánh sáng mặc khải của toàn bộ Lời
Chúa, và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần (x.
2423
Học
thuyết xă hội của Hội Thánh đề ra
những nguyên tắc suy tư, những tiêu chuẩn phán
đoán, những đường hướng hành
động:
Bất kỳ thể chế nào chỉ
căn cứ vào các yếu tố kinh tế để
quyết định những mối tương quan xă
hội, đều nghịch với bản chất của
con người và của các hành vi nhân
linh (x. CA 24).
2424 (2317) Về mặt luân lư, không
thể chấp nhận một lư thuyết coi lợi nhuận
là qui luật tuyệt đối và mục đích tối
hậu của sinh hoạt kinh tế. Sự ham mê tiền
của quá độ đưa đến những hậu
quả tai hại. Đây là một trong
những nguyên nhân gây rối loạn trật tự xă
hội (x. GS 63,3; LE 7; CA 35).
Những thể chế "đ̣i hy sinh những quyền
lợi căn bản của cá nhân và đoàn thể cho
tổ chức sản xuất tập thể"
đều đi ngược với phẩm giá con
người (x. GS 65). Những ǵ biến con người
thành phương tiện thuần túy để trục
lợi, đều nô lệ hóa con người, đưa
tới việc tôn thờ tiền bạc và góp phần
truyền bá chủ nghĩa vô thần. "Anh em không
thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của
được" (x. Mt 6,24; Lc 16,13).
2425
IV. HOẠT
ĐỘNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XĂ HỘI
2426 (1928) Phát
triển kinh tế và gia tăng sản xuất đều
nhằm phục vụ những nhu cầu của con
người. Đời sống kinh tế không chỉ nhằm
vào việc gia tăng các sản phẩm, lợi nhuận
hoặc quyền lực, nhưng trước tiên là
để phục vụ con người: con người
toàn diện và toàn thể cộng đồng nhân loại.
Hoạt động kinh tế được điều
hành theo những phương pháp riêng nhưng phải tôn trọng
các khuôn khổ luân lư và công bằng xă hội, để
đáp ứng ư định của Thiên Chúa về con
người (x. GS 64).
2427 (307 378 531)
Lao động là công tŕnh trực tiếp của
những con người được sáng tạo theo h́nh
ảnh của Thiên Chúa, và được mời gọi
cùng nhau tiếp nối công tŕnh sáng tạo khi làm chủ
địa cầu (x. St 1, 28; GS 34; CA 31). Do đó, lao
động là một bổn phận: "Ai không chịu
làm việc th́ cũng đừng ăn" (x. 2 Th 3,1-10;1 Th
4,11). Khi lao động, con người biểu dương
các ân huệ của Đấng Sáng Tạo và những tài
năng Chúa ban. Lao động c̣n có giá trị cứu
chuộc (x. St 3,14-19). Khi kết hợp với Đức
Giê-su, người thợ làng Na-da-rét và cũng là Đấng
chịu đóng đinh trên Đồi Sọ, con người
qua những vất vả lao động được
cộng tác với Con Thiên Chúa trong công tŕnh cứu
độ. Họ chứng tỏ ḿnh là môn đệ
của Đức Ki-tô khi vác thập giá hằng ngày, qua
việc chu toàn những bổn phận trong sinh hoạt (x.
LE 27). Lao động có thể là một phương
thế thánh hóa và thấm nhuần các thực tại
trần thế bằng thần khí của Đức Ki-tô.
2428 (2834 2185) Trong
lao động, con người sử dụng và thể
hiện một phần các khả năng tự nhiên
của ḿnh. Giá trị hàng đầu của lao động
hệ tại ở chính con người, là tác giả và là
người thụ hưởng nó. Lao động v́ con
người, chớ không phải con người v́ lao
động (x. LE 6).
Mỗi người có quyền nhờ lao động mà có
được các phương thế để nuôi
sống bản thân và những người thân, cũng
như phục vụ cộng đồng nhân loại.
2429 Mỗi
người có quyền có sáng kiến trong sinh hoạt kinh
tế, sử dụng chính đáng các tài năng của ḿnh
để góp phần làm ra nhiều của cải cho mọi
người được hưởng, và gặt hái
những hiệu quả chính đáng do các nỗ lực
của ḿnh. Họ phải để tâm tuân theo các qui
định do chính quyền hợp pháp đề ra v́ công
ích (x. CA 32,34).
2430 Đời
sống kinh tế liên can đến nhiều quyền
lợi khác nhau, thường đối nghịch nhau, nên
thường xảy ra các xung đột (x. LE, 11). Phải
cố gắng giải quyết các xung đột bằng
thương lượng, dựa trên sự tôn trọng các
quyền lợi và bổn phận của mọi thành phần
xă hội: ban điều hành các xí nghiệp, đại
diện công nhân, thí dụ các tổ chức nghiệp
đoàn, và đại diện chính quyền.
2431 (1908 1883) Trách
nhiệm của Nhà Nước. "Hoạt động
kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị
trường, cần đến những định
chế, pháp luật và chính sách. Hoạt động kinh tế
phải được bảo đảm bằng tự do
cá nhân và quyền tư hữu, ngoài ra phải có hệ
thống tiền tệ ổn định và các dịch
vụ công cộng hữu hiệu. Nhiệm vụ chính
yếu của Nhà Nước là bảo đảm sự an
toàn để người lao động có thể
hưởng hiệu quả công việc làm của họ và
do đó họ sẽ cảm thấy được
khuyến khích làm việc cách hiệu quả và lương
thiện... Nhà Nước cũng có bổn phận giám sát
và hướng dẫn việc thực thi nhân quyền trong
lănh vực kinh tế. Tuy nhiên trong lănh vực này trách
nhiệm đầu tiên không phải của nhà nước
nhưng của các cá nhân, các đoàn nhóm khác nhau và các
hiệp hội là thành viên của xă hội (x. CA 48).
2432 (2415) Những
người lănh đạo xí nghiệp chịu trách
nhiệm trước xă hội về mặt kinh tế và
sinh-thái của công việc làm ăn của ḿnh (x. CA 37).
Họ quan tâm đến lợi ích của con người
chứ không lo gia tăng lợi nhuận. Dĩ nhiên,
lợi nhuận cần thiết v́ giúp thực hiện
những đầu tư bảo đảm tương lai
của xí nghiệp và bảo đảm công ăn việc
làm của công nhân.
2433 Mọi
người phải được quyền làm việc và
chọn nghề, không bị kỳ thị bất công, nam
hay nữ, người khỏe mạnh hay tàn tật,
người địa phương hay người nơi
khác (x. LE 19,22-23). Tùy hoàn cảnh xă hội phải giúp
đỡ để các công dân có công ăn việc làm (x. CA
48).
2434 (1867) Người
lao động có quyền hưởng đồng
lương công bằng. Không trả hoặc giữ
tiền lương lại, là một tội bất công
nghiêm trọng (x. Lv 19,13; Đnl 24,14-15; Gcb 5,4). Để
định giá tiền lương cho công bằng, phải
lưu ư đến các nhu cầu và đóng góp của
mỗi người. "Tùy theo nhiệm vụ và năng
suất của mỗi người, t́nh trạng của xí
nghiệp và công ích, việc làm phải được
trả lương sao cho con người có đủ
khả năng xây dựng cho ḿnh một đời sống
xứng hợp về phương diện vật chất,
xă hội, văn hóa và tinh thần" (x. GS 67,2). Về
phương diện luân lư, sự thỏa thuận giữa
chủ và thợ không đủ đễ định
mức lương.
2435 Về
mặt luân lư, đ́nh công là việc chính đáng, khi đó là
một phương thế không tránh được
hoặc cần thiết, để đạt
được lợi ích tương xứng. Đ́nh công không
thể chấp nhận được về mặt luân
lư, khi kèm theo bạo động hoặc khi chỉ
được dùng nhằm những mục tiêu không
trực tiếp liên hệ đến các điều
kiện làm việc hay trái nghịch với công ích.
2436 Không
đóng góp lệ phí cho những cơ quan an ninh xă hội do
chính quyền hợp pháp qui định là điều
bất công.
T́nh trạng thất nghiệp, đối
với nạn nhân, luôn xúc phạm đến phẩm giá
của họ và là một đe dọa cho thế quân b́nh
của đời sống. Ngoài sự thiệt hại mà cá
nhân người đó phải gánh chịu, thất
nghiệp c̣n đem lại nhiều mối nguy cho gia
đ́nh của họ (x. LE 18).
V. CÔNG BẰNG VÀ
T̀NH LIÊN ĐỚI GIỮA CÁC QUỐC GIA
2437 (1938) Trên
b́nh diện quốc tế, t́nh trạng các nguồn tài
nguyên và các phương tiện kinh tế không
được phân bố đồng đều,
đến độ gây nên một "hố sâu"
giữa các quốc gia (x.
2438 (1911 2315) Ngày
nay, "vấn đề xă hội mang một chiều kích
quốc tế" (x.
2439 Các
nước giàu phải có trách nhiệm đối với
những quốc gia không có những phương thế phát
triển hoặc không phát triển được v́
những biến cố lịch sử bi đát. Đây là
một bổn phận của t́nh liên đới và bác ái. Đó
cũng là một đ̣i hỏi của công b́nh, nếu
sự sung túc của các nước giàu là do những tài
nguyên của các nước nghèo, nhưng chưa
được trả giá đúng mức.
2440 Viện
trợ trực tiếp chỉ là phản ứng nhất
thời đáp ứng những nhu cầu trước
mắt và đột xuất, chẳng hạn do thiên tai hay
dịch tễ. Nhưng viện trợ này không đủ
để bù đắp những thiệt hại nặng
nề sau tai biến, cũng không thể trường
kỳ thỏa măn các nhu cầu được. Phải
cải tổ các thể chế kinh tế và tài chánh
quốc tế, để có thể có được
những trao đổi công bằng hơn với các
nước chậm phát triển (x.
2441 (1908) Nền
tảng cho mọi phát triển trọn vẹn xă hội
loài người đ̣i buộc phải nâng cao cảm
thức về Thiên Chúa và nhận thức về ḿnh. Sự
phát triển này làm gia tăng gấp bội tài sản
vật chất để phục vụ con người và
tự do, giảm bớt sự cùng khổ và bóc lột kinh
tế, tôn trọng bản sắc văn hóa và khai mở
chiều kích siêu việt (x.
2442 (899) Các
mục tử của Hội Thánh không có trách nhiệm nhúng
tay trực tiếp vào cơ cấu chính trị cũng
như việc tổ chức đời sống xă hội.
Trách nhiệm này là ơn gọi của)giáo dân; họ
cộng tác với đồng bào theo sáng kiến riêng ḿnh.
Có nhiều đường lối cụ thể rộng
mở cho việc tham gia chính trị của họ; nhưng
phải luôn nhắm tới công ích và thích ứng với
sứ điệp Tin Mừng cũng như giáo huấn
Hội Thánh. Người tín hữu có bổn phận
"tham gia vào lănh vực trần thế với sự
nhiệt t́nh của người Ki-tô hữu và sống
như những người kiến tạo ḥa b́nh và công
lư" (x.
VI. YÊU
THƯƠNG NGƯỜI NGHÈO 2544-2547
2443 (786 525,544, 853)
Thiên Chúa chúc phúc cho ai giúp đỡ người nghèo và
kết án ai lănh đạm với họ. "Ai xin th́ hăy
cho; ai muốn vay mượn, th́ đừng ngoảnh
mặt đi" (Mt 5,42) "Anh em đă được cho
không, th́ cũng phải cho không như vậy" (Mt 10,8).
Đức Giê-su Ki-tô nhận ra kẻ được
Người tuyển chọn (x. Mt 25,31-36) qua việc
họ đă làm cho người nghèo. Dấu chỉ sự
hiện diện của Đức Ki-tô là "kẻ nghèo
được nghe Tin Mừng" (Mt 11,5) (x. Lc 4,18).
2444 (1716) "Hội
Thánh vẫn luôn yêu thương người nghèo... Đây là
truyền thống ngàn đời của Hội Thánh" (x.
CA 57). Hội Thánh đă múc nguồn cảm hứng cho t́nh
yêu này từ Tin Mừng của Bát Phúc (x. Lc 6, 20-22), từ
chính sự nghèo khó của Đức Giê-su (x. Mt 8, 20) và từ
ḷng thương xót của Người đối với
kẻ nghèo (x. Mc 12,41-44). T́nh yêu đối với
người nghèo phải trở thành một trong những
động lực thúc đẩy tín hữu hoạt
động và "làm ăn, để có ǵ chia sẻ
với người túng thiếu" (Eph 4,28). Điều này
không phải chỉ giới hạn ở sự nghèo khó
về vật chất nhưng c̣n hướng tới
nhiều h́nh thức nghèo đói văn hóa và tôn giáo (x. CA 57).
2445 (2536) T́nh
yêu đối với kẻ nghèo không thể đi đôi
với ḷng ham muốn giàu sang quá độ cũng như
sử dụng của cải quá ích kỷ:
(2547) "Giờ
đây, hỡi những kẻ giàu có, các ngươi hăy than
van rên rỉ về những tai họa sắp đổ
xuống trên đầu các ngươi. Tài sản của
các ngươi đă hư nát, quần áo của các ngươi
đă bị mối ăn. Vàng bạc của các
ngươi đă bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy
là bằng chứng buộc tội các ngươi; nó sẽ
thiêu hủy xác thịt các ngươi như lửa. Các
ngươi đă lo tích trữ trong những ngày sau hết
này. Các ngươi đă gian lận mà giữ lại
tiền lương của những thợ đi cắt
lúa trong ruộng của các ngươi. Ḱa, tiền
lương ấy đang kêu lên oán trách các ngươi, và
tiếng kêu của những thợ gặt ấy đă
thấu đến tai Chúa Tể càn khôn. Trên cơi đời
này, các ngươi đă sống xa hoa, đă buông theo khoái
lạc, ḷng các ngươi đă được no
đầy thỏa măn trong ngày sát hại. Các người
đă kết án, đă giết hại người công chính,
và họ đă chẳng cưỡng lại các người"
(Gcb 5,1-6).
2446 (2402) Thánh
Gio-an Kim Khẩu nhắc lại trách nhiêm này với
những lời khẩn thiết: "Không cho kẻ nghèo
được chia sẻ của cải thuộc về
họ là ăn cắp và cướp lấy mạng
sống của họ. Của cải chúng ta đang nắm
giữ, không phải là của chúng ta, nhưng là của
họ" (Laz 1,6). "Phải thỏa măn những đ̣i
hỏi công b́nh trước đă, kẻo những tặng
phẩm đem cho, tưởng là v́ bác ái, mà thật ra là v́
đức công bằng phải đền trả" (x. AA
8).
"Khi tặng những thứ cần
thiết cho người nghèo, chúng ta không làm v́ ḷng quảng
đại cá nhân, nhưng là hoàn trả cho họ những
ǵ thuộc về họ. Qua đó, chúng ta chu toàn một
trách nhiệm công bằng hơn là thực hiện một
hành vi bác ái" (T. Ghê-gô-ri-ô Cả, 3,21).
2447 (1460 1038 1969)
Các việc từ thiện là những hành vi bác ái, qua
đó chúng ta giúp đỡ tha nhân những ǵ cần
thiết cho thể xác và tinh thần (x. Is 58,6-7; Dt 13,3).
Dạy dỗ, khuyên nhủ, an ủi, khích lệ, cũng
như tha thứ, nhẫn nhục, chịu đựng là
những hành vi bác ái về mặt tinh thần. Công việc
từ thiện về mặt vật chất phải
kể: cho kẻ đói ăn, cho kẻ vô gia cư tạm
trú, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng
bệnh nhân và kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết (x. Mt
25, 31-46). Trong các hành vi đó, bố thí (x. Tb 4,5-11; Kn 17,22) là
một trong những chứng cứ chính yếu của t́nh
bác ái huynh đệ; đó cũng là hành động
đẹp ḷng Thiên Chúa (Mt 6,2-4):
1004 "Ai có
hai áo, th́ chia cho người không có; ai có ǵ ăn, th́ cũng
làm như vậy" (Lc 3,11). "Tốt hơn, hăy bố
thí những ǵ các ngươi có, rồi th́ mọi sự
sẽ trở nên trong sạch cho các ngươi" (Lc
11,41). "Giả như có người anh em hay chị em
không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày,
mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hăy đi b́nh
an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không
cho họ những thứ thân xác họ đang cần, th́
nào có ích lợi ǵ ?" (Gcb 2,15-16; 1 Ga 3,17).
2448
2449 (1397) Sách
Đệ Nhị Luật khuyến cáo: "Người nghèo
không bao giờ vắng bóng trên đất nước. V́
thế, ta truyền cho ngươi: phải mở rộng
bàn tay cho người anh em nghèo đói, cùng khổ đang
sống trên đất nước của ngươi"
(Đnl 15,11). Đáp lại lời khuyến cáo này Cựu
Ước đă có những luật như: năm toàn xá,
cấm lấy lăi và xiết nợ, nộp thuế thập
phân, trả lương công nhật, quyền
được mót ở ruộng lúa và vườn nho.
Đức Giê-su cũng tuyên bố: "Người nghèo th́ anh
em luôn có bên cạnh; c̣n Thầy, anh em không có luôn măi
đâu" (Ga 12,8). Và như vậy, Đức Giê-su không
giảm nhẹ lời các ngôn sứ xưa kia: "Chúng dùng
tiền để mua người cô thân, mua kẻ nghèo
bằng giá một đôi dép" (Am 8,6), nhưng mời
gọi chúng ta nhận ra Người trong những kẻ
nghèo đói là anh em của Người (Mt 25,40).
(786) Khi thánh
Rô-sa thành Li-ma bị mẹ trách v́ đă đem những
kẻ nghèo, những bệnh nhân vào nhà, thánh nữ trả
lời: "Khi chúng ta phục vụ người nghèo và
người bệnh là chúng ta phục vụ chính Đức
Giê-su. Chúng ta không được lơ là trong việc giúp
đỡ tha nhân, v́ chúng ta phục vụ Chúa Giê-su trong anh
em" (Vita).
TÓM LƯỢC
2450 "Ngươi
chớ trộm cắp" (Đnl 5,19). "Những kẻ
trộm cắp, tham lam... cướp bóc sẽ không
được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp"
(1 Cr 6,10).
2451 Điều
răn thứ bảy truyền phải thực thi công
bằng và bác ái khi quản lư của cải trần thế
và thành quả lao động.
2452 Thiên Chúa
sáng tạo vạn vật cho toàn thể nhân loại.
Quyền tư hữu không hủy bỏ quyền chung
hưởng những của cải này.
2453 Điều
răn thứ bảy cấm trộm cắp. Trộm
cắp là chiếm đoạt tài sản của kẻ khác
nghịch lại ư muốn chính đáng của sở
hữu chủ.
2454 Mọi
h́nh thức chiếm đoạt hay sử dụng tài
sản của kẻ khác cách bất công, đều vi
phạm điều răn thứ bảy. Bất công
đ̣i buộc phải đền bù. Công bằng giao hoán
buộc phải hoàn trả lại tài sản đă bị
chiếm đoạt.
2455 Luật
luân lư nghiêm cấm mọi hành vi nô lệ hóa con người
v́ lợi nhuận hay độc tài, hoặc mua bán, trao
đổi họ như hàng hóa.
2456 Đấng
Sáng Tạo đă ban cho con người quyền sử
dụng tài nguyên khoáng sản, thực vật và động
vật trên thế giới. Nhưng họ phải tôn
trọng những trách nhiệm luân lư, đối với
cả những thế hệ tương lai.
2457 Thiên Chúa
trao cho con người quyền trên các thú vật. Con
người phải chăm sóc chúng. Và được
sử dụng để đáp ứng những nhu cầu
chính đáng của con người.
2458 Trong lănh
vực kinh tế và xă hội, Hội Thánh có quyền lên
tiếng khi những quyền căn bản của con
người hay ơn cứu độ đ̣i buộc.
Hội Thánh quan tâm đến công ích thuộc lănh vực
trần thế của loài người, bao lâu công ích này qui
hướng vào sự thiện hảo tối cao là cùng
đích của chúng ta.
2459 Con
người là tác giả, trung tâm và cứu cánh của toàn
bộ đời sống kinh tế và xă hội. Mấu
chốt của vấn đề xă hội là làm thế nào
để của cải Thiên Chúa sáng tạo cho mọi
người hưởng dùng, được đến
tận tay mọi người theo lẽ công bằng và
tương trợ bác ái.
2460 V́ con
người vừa là tác giả, vừa là mục tiêu
của lao động, nên con người là yếu tố
quyết định cho giá trị chính yếu của lao
động. Qua lao động, con người tham gia vào
chương tŕnh sáng tạo của Thiên Chúa. Lao động
có thể có giá trị cứu độ, nếu con
người biết kết hợp với Đức Ki-tô.
2461 Phát
triển đích thực là phát triển con người toàn
vẹn, giúp họ thêm khả năng đáp lại ơn
gọi làm người, nghĩa là đáp lại lời
mời gọi của Thiên Chúa.
2462 Bố thí
là bằng chứng của bác ái huynh đệ và là hành vi
công bằng đẹp ḷng Thiên Chúa.
2463 Chẳng
lẽ chúng ta không nhận ra La-da-rô, người hành
khất đói khổ trong dụ ngôn của Đức Giê-su,
giữa bao người không cơm áo, không nhà cửa?
Chẳng lẽ chúng ta không nghe được tiếng
của Đức Giê-su: "Các ngươi đă không làm cho
chính Ta?" (Mt 25, 45).