"Thưa
Thầy, tôi phải làm ǵ...?"
2052 (1858) "Thưa Thầy, tôi
phải làm điều ǵ tốt để được
hưởng sự sống đời đời?"
Để trả lời cho người thanh niên, Đức Giê-su
nêu lên sự cần thiết phải nhận biết Thiên
Chúa như "Đấng tốt lành duy nhất", như
sự thiện tuyệt hảo và như nguồn mạch
của mọi điều thiện. Đoạn Đức Giê-su
tuyên bố: "Nếu anh muốn vào cơi sống, th́ hăy
giữ các điều răn". Rồi Người
liệt kê các điều răn về yêu người:
"Ngươi không được giết người,
ngươi không được ngoại t́nh, ngươi
không được trộm cắp, ngươi không
được làm chứng gian, ngươi phải
thảo kính cha mẹ". Sau hết, Đức Giê-su tóm
tắt các điều răn kể trên cách tích cực
rằng: "Ngươi phải yêu đồng loại
như yêu chính ḿnh” (Mt 19,16-19).
2053 (1968 1973) Đức Giê-su c̣n thêm: "Nếu
anh muốn nên hoàn thiện, th́ hăy về bán tài sản
của anh mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ
được một kho tàng trên trời, rồi hăy
đến theo tôi” (Mt 19,21). Câu trả lời
này không hủy bỏ câu trả lời trước.
Muốn đi theo Đức Giê-su, phải
tuân giữ các điều răn. Luật cũ không bị
băi bỏ (x. Mt 5,17), nhưng chúng ta
được mời gọi t́m thấy sự viên măn
của lề luật nơi con người của
Thầy ḿnh, Đấng chu toàn tuyệt hảo lề luật.
Trong Tin Mừng Nhất Lăm, lời Đức Giê-su mời
gọi anh thanh niên giàu có đi theo Người với ḷng
vâng phục của người môn đệ và tuân giữ
các điều răn, c̣n được kết hợp
với lời mời sống nghèo khó và khiết tịnh (x. Mt 19,6-12; 21.23-29). Các lời khuyên
Phúc Âm không thể tách khỏi các điều răn.
2054 (581) Đức Giê-su vẫn tôn
trọng mười điều răn, nhưng cho thấy
sức mạnh của Thánh Thần đang tác động
nơi các điều răn ấy. Người đă rao
giảng sự "công chính vượt trên sự công chính
của các kinh sư và Pha- ri-sêu” (Mt 5,20),
cũng như của dân ngoại (x.Mt 5,46-47). Người
cho thấy tất cả những đ̣i hỏi của các
điều răn. "Anh em đă nghe luật dạy
người xưa rằng: Chớ giết người...
c̣n Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh
em ḿnh th́ cũng đáng bị đưa ra ṭa rồi” (Mt 5,21-22).
2055 (129) Khi được hỏi:
"Điều răn nào là điều răn trọng
nhất?” (Mt 22,36), Đức Giê-su đáp:
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa
ngươi hết ḷng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi; đó là điều răn trọng nhất và
là điều răn thứ nhất. C̣n điều răn
thứ hai, cũng giống điều
răn ấy là: Ngươi phải yêu người thân
cận như chính ḿnh. Tất cả luật Mô-sê và các sách
ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn
ấy” (Mt 22, 37-40) (x.Đnl 6,5; Lv 19,18).
Thập Giới phải được giải thích
dưới ánh sáng của điều răn mến Chúa-yêu
người, v́ yêu thương là chu toàn lề luật:
"Các điều răn như: "Ngươi không
được ngoại t́nh, không được giết
người, không được trộm cắp, không
được ham muốn...", cũng như các
điều răn khác, đều tóm lại trong lời
này: Ngươi phải yêu đồng loại như yêu
chính ḿnh. Đă yêu thương th́ không làm hại người
đồng loại; yêu thương là chu
toàn lề luật vậy” (Rm 13, 9-10).
Thập
Giới trong Thánh Kinh.
2056 (700 62) Từ Hi lạp
"Dekalogos" trong Thánh Kinh có nghĩa là "Mười
Lời", chúng ta quen gọi là Thập Giới (x.Xh 34,28;
Đnl 4,13; 10,4). Thập Giới được
Thiên Chúa mặc khải cho dân Người trên núi thánh.
Mười lời này "tự ngón tay Người"
đă viết (Xh 31,18; Đnl 5,22), khác
với các điều luật khác do Mô-sê viết (x. Đnl
31,9-24). Thập Giới là Lời Chúa theo một nghĩa
rất đặc biệt và được lưu
truyền đến chúng ta trong sách Xuất Hành (x. Xh 20,1-17) và sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5,6-22).
Từ thời Cựu Ước, các Sách Thánh luôn quy
chiếu về "Thập Giới” (x. ví dụ Hs 4,2; Cn
7,9; Ed 18,5-9), nhưng ư nghĩa của chúng chỉ
được mặc khải trọn vẹn trong thời
Tân Ước, nơi Đức Giê-su.
2057 (2084) Trước
hết, Thập Giới phải được hiểu
trong bối cảnh của cuộc Xuất Hành, biến
cố giải phóng vĩ đại của Thiên Chúa ở
trung tâm của giao ước cũ. Dù được
viết dưới h́nh thức tiêu cực, cấm đoán
hay dưới h́nh thức tích cực (như "hăy tôn kính
cha mẹ"), "Thập Giới" đưa ra
những điều kiện của một đời
sống được giải thoát khỏi ách nô lệ
tội lỗi. Thập Giới là một con
đường sống:
"Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa
của anh em, đi theo đường lối của
Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ,
quyết định của Người, để anh em
được sống, được thêm đông đúc”
(Đnl 30,16).
Chúng ta thấy rơ sức mạnh giải
thoát của Thập Giới, thí dụ điều răn
nghỉ ngày hưu lễ, áp dụng cho cả người
ngoại kiều và nô lệ:
"Ngươi hăy nhớ, ngươi
đă làm nô lệ tại đất Ai Cập và Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đă dang cánh tay mạnh
mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó” (Đnl
5,15).
2058 (1962) "Thập Giới" tóm
tắt và công bố Luật của Thiên Chúa: "Những
lời ấy Đức Chúa đă lớn tiếng phán với
toàn thể đại hội anh em, trên núi từ trong
đám lửa, giữa mây đen mù mịt. Người
không thêm ǵ cả và viết những lời ấy trên hai
bia đá rồi ban cho tôi” (x. Đnl 5,22). V́
thế, hai bia đá này được gọi là "Bia
Chứng Ước” (Xh 25,16), v́ ghi
khắc các điều khoản của giao ước
đă kư kết giữa Thiên Chúa và dân Người. Các
"Bia Chứng Ước” (x. Xh 31,18;
32,15; 34,29)phải được đặt vào "Ḥm Bia
Chứng Ước” (Xh 25,16; 40,1-2).
2059
2060 (62) Việc ban tặng các
điều răn và lề luật là thành phần của giao
ước do Thiên Chúa kư kết với những kẻ
thuộc về Người. Theo sách Xuất Hành,
"Thập Giới" được mặc khải
giữa lúc đề nghị (x. Xh 19) lập giao
ước và lúc kư kết giao ước (x. Xh 24), sau khi dân
chúng đă cam kết "thi hành và tuân theo tất cả
những ǵ Đức Chúa đă phán” (Xh 24,7).
Thập Giới được truyền đạt trong
tương quan với Giao Ước. ("Đức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta, đă thiết lập một giao
ước với chúng ta tại núi Kho-rép": Đnl 5,2).
2061
Các
điều răn chỉ có ư nghĩa trọn vẹn trong
Giao Ước. Theo Sách Thánh, đời sống luân lư
của con người chỉ đầy đủ ư
nghĩa trong và nhờ giao ước. Điều thứ
nhất của "Thập Giới" nhắc lại sáng
kiến t́nh yêu Thiên Chúa dành cho dân Người:
2086
"Khi phạm tội, con người bị
đuổi khỏi địa đàng tự do và sa vào
kiếp nô lệ trần thế. V́ thế, câu
đầu tiên của Thập Giới
2062
2063 (878) Giao
Ước và cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa
và con người c̣n được xác nhận qua sự
kiện: trong các điều răn, Thiên Chúa luôn nói ở
ngôi thứ nhất ("Ta là Đức Chúa") và nói với
con người ở ngôi thứ hai ("ngươi").
Tất cả các điều răn đều dùng
đại từ nhân xưng ở)số
ít để chỉ định người nghe. Khi bày
tỏ thánh ư cho toàn dân, Thiên Chúa cũng bày tỏ thánh ư cho
riêng từng người:
Chúa ra lệnh phải yêu mến Thiên Chúa và
dạy giữ công b́nh đối với người thân
cận, để con người khỏi bất chính và
bất xứng trước mặt Thiên Chúa. Cho nên, nhờ
Thập Giới, Thiên Chúa chuẩn bị con người
trở thành bạn hữu của Người và một
ḷng một dạ với tha nhân...Thập Giới vẫn
giữ nguyên giá trị đối với chúng ta (những
ki-tô hữu), v́ khi Chúa đến, Thập Giới chẳng
những không bị hủy bỏ, mà c̣n được
trọn nghĩa và triển nở (T. I-rê-nê, chống
lạc giáo 4,16, 3-4).
Thập Giới
trong Truyền Thống Hội Thánh
2064 Trung thành với Thánh Kinh và theo gương Đức Giê-su, truyền
thống của Hội Thánh nh́n nhận Mười
Điều Răn có tầm quan trọng và ư nghĩa hàng
đầu.
2065 Từ thời thánh
Âu-tinh, Mười Điều Răn đă có một vị trí
quan trọng trong huấn giáo cho dự ṭng và tín hữu. Vào thế
kỷ XV, Mười Điều Răn thường
được diễn tả bằng những công thức
theo văn vần, dễ nhớ và tích
cực, vẫn c̣n thông dụng ở nhiều nơi
tới ngày nay. Các sách giáo lư của Hội Thánh
thường tŕnh bày luân lư Ki-tô giáo theo
thứ tự của "Mười điều
Răn".
2066 Việc phân chia và đánh số các
điều răn có thay đổi theo
ḍng lịch sử. Quyển Giáo Lư này theo
cách phân chia của thánh Âu-tinh đă trở thành truyền
thống trong Hội Thánh Công Giáo. Các giáo phái Lu-ther cũng theo cách phân chia này. Các giáo
phụ Hi- lạp phân chia hơi khác; cách chia này c̣n gặp
thấy trong Giáo Hội Chính thống và các cộng đoàn
Cải Cách.
2067 (1853) Mười Điều Răn
nêu ra các đ̣i hỏi của t́nh mến Chúa yêu
người. Ba điều răn đầu đề
cập đến t́nh yêu đối với Thiên Chúa, và
bảy điều sau, đến t́nh yêu đối với
tha nhân.
"Như Chúa đă đúc kết tất cả lề
luật và các tiên tri vào trong hai giới răn yêu mến...;
Mười Điều Răn cũng được chia thành
hai bảng. Ba điều khắc trên một bảng, và
bảy điều trên bảng kia” (T.Âu-tinh bài giảng 33,2,3).
2068 (1993 888) Công Đồng Tren-tô dạy
rằng: các Ki-tô hữu buộc phải giữ Mười
Điều Răn, và người đă được công
chính hóa cũng có bổn phận phải tuân giữ các
điều răn ấy (x. DS 1569-1570). Công Đồng Va-ti-can
II cũng khẳng định: "Các giám mục v́ là
người kế nhiệm các tông đồ, nhận
từ nơi Chúa...sứ mạng dạy dỗ muôn dân và rao
giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, để
mọi người được rỗi nhờ lănh
nhận đức tin, phép rửa và việc chu toàn các
điều răn” (x. LG 24).
Tính thống
nhất của Thập Giới
2069 (2534) Thập Giới hợp thành
một thể thống nhất. Mỗi "lời” (điều
răn) qui chiếu về từng lời và tất cả
các lời khác, các lời tương thuộc lẫn nhau.
Hai Bảng Luật soi sáng cho nhau, hợp thành một
khối thuần nhất. Vi phạm một điều
răn là phạm tới tất cả các điều
răn khác (x. Gcb 2,10-11). Không
thể tôn trọng người khác mà không chúc tụng Thiên
Chúa, Đấng Sáng Tạo họ. Không
thể tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương tất
cả mọi người là thụ tạo của Thiên
Chúa. Mười điều răn thống nhất
đời sống đối thần với đời
sống xă hội của con người.
Thập Giới
và luật tự nhiên
2070 (1955) Thập Giới là một
phần mặc khải của Thiên Chúa; đồng
thời dạy chúng ta biết nhân tính đích thực
của con người. Thập Giới làm sáng tỏ
những bổn phận thiết yếu; do đó gián
tiếp cho thấy những quyền cơ bản gắn
liền với bản tính của nhân vị. Mười
Điều Răn là một cách tŕnh bày "luật tự
nhiên" đặc sắc.
"Từ nguyên thủy,
Thiên Chúa đă ghi sâu trong ḷng con người các giới
luật tự nhiên. Sau đó
người chỉ cần nhắc lại các điều
luật ấy cho họ. Đó chính là Thập Giới (T.
I-rê-nê chống lạc giáo 4,15,1).
2071 (1960) Thập
Giới là mặc khải của Thiên Chúa, dù với lư trí
con người có thể tự biết được
nhưng để hiểu biết đầy đủ và
chắc chắn về các đ̣i hỏi của luật
tự nhiên, loài người tội lỗi cần
đến mặc khải nầy:
Trong t́nh trạng tội lỗi, ánh sáng lư
trí bị lu mờ và ư chí bị sai
lệch, con người cần đến một tŕnh bày
đầy đủ về các điều răn của
Thập Giới.
1777
Chúng
ta biết được các điều răn nhờ
mặc khải được rao giảng trong Hội Thánh
và nhờ tiếng nói của lương tâm.
Mọi
người phải tuân giữ Thập Giới
2072 (1858 1958) Thập
Giới nêu lên những bổn phận cơ bản của
con người đối với Thiên Chúa và với tha nhân,
nên tự bản chất là những nghĩa vụ quan
trọng. Thập Giới bất biến và có
giá trị cho mọi thời và mọi nơi. Không ai
có thể chuẩn miễn Mười Điều Răn
được Thiên Chúa ghi khắc trong tâm khảm con
người.
2073
Trách
nhiệm tuân giữ Mười Điều Răn c̣n buộc
ta giữ những nghĩa vụ theo chất thể tự
nó là nhẹ. Chẳng hạn điều răn thứ
năm ngăn cấm nhục mạ kẻ khác bằng
lời nói; điều này có thể trở thành một tội
nặng tùy hoàn cảnh và ư định của người
nói.
"Không có
Thầy, anh em không làm ǵ được"
2074 (2732 521) Đức Giê-su nói: "Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai luôn kết hợp với Thầy và
Thầy luôn kết hợp với người ấy,
người ấy sinh hoa kết quả dồi dào, v́ không
có Thầy, anh em không làm được ǵ” (Ga 15,5). Hoa quả ở đây là
sự thánh thiện của một đời sống phong
phú, nhờ kết hợp với Đức Ki-tô. Khi chúng
ta tin vào Đức Giê-su Ki-tô, thông hiệp vào các mầu
nhiệm của Người và giữ các điều
răn của Người, Đấng Cứu Thế sẽ
đích thân đến trong chúng ta để yêu thương
Cha của Người và các anh em của Người
cũng là Cha và anh em chúng ta. Nhờ Thánh
Thần, chính Đức Giê-su trở thành qui luật nội tâm
sống động cho mọi hoạt động của
chúng ta. "Đây là điều răn của Thầy,
anh em hăy yêu thương nhau như Thầy đă yêu
thương anh em” (Ga 15,12).
TÓM LƯỢC
2075
"Tôi
phải làm điều ǵ tốt để được
hưởng sự sống đời đời? Nếu
anh muốn vào cơi sống, hăy giữ các điều răn”
(Mt 19,16-17).
2076
Qua
đời sống và lời giảng dạy, Đức Giê-su
đă xác nhận Thập Giới có tính thường
tồn.
2077
Thiên
Chúa ban tặng Thập Giới cũng là Giao Ước kư
kết giữa Thiên Chúa với dân Người. Mười Điều Răn chỉ có ư nghĩa
đích thực trong và nhờ Giao Ước.
2078
Trung
thành với Thánh Kinh và theo gương Đức Giê-su,
Truyền thống Hội Thánh nh́n nhận Thập Giới
có tầm quan trọng và ư nghĩa hàng đầu.
2079 Thập
Giới hợp thành một khối thuần nhất, trong
đó mỗi "lời" hay mỗi "điều
răn" đều qui chiếu về toàn thể. Vi
phạm một điều răn là vi phạm toàn thể
lề luật (x. Gcb 2,10-11).
2080
Thập
Giới là một cách tŕnh bày đặc sắc của
luật tự nhiên. Chúng ta biết được Thập
Giới nhờ mặc khải của Thiên Chúa và nhờ lư
trí của con người.
2081
Thập
Giới tự bản chất là những nghĩa vụ
quan trọng. Tuy nhiên, việc tuân giữ các giới
luật này cũng bao gồm những nghĩa vụ theo chất thể tự nó là nhẹ.
2082 Thiên Chúa
ban ân sủng trợ lực để
chúng ta thi hành được điều Người
truyền dạy.