Phần III - Đoạn I Chương I
Muc 1
ĐOẠN THỨ NHẤT
SỐNG TRONG THÁNH THẦN
1699 Đời sống
trong Thánh Thần kiện toàn ơn gọi làm người
(chương một). Đó là sống trong t́nh yêu mến Thiên Chúa và liên
đới với mọi người (chương hai).
Thiên Chúa ban tặng đời sống này để
đưa ta đến ơn cứu độ
(chương ba).
1700
1701 (359) "Khi mặc khải mầu
nhiệm Chúa Cha và t́nh yêu của Người, Đức Ki-tô
đă cho con người biết rơ về chính bản
chất của họ và tỏ cho họ biết thiên
chức rất cao cả của họ" (x. GS 22,1). Trong
Đức Ki-tô "h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh"(Cl 1,15) (x. 2Cr 4,4), con người được
tạo dựng "theo h́nh ảnh và giống" Đấng
Sáng Tạo. H́nh ảnh này đă bị nguyên
tội làm biến dạng, nay được phục
hồi vẻ đẹp nguyên thủy trong Đức Ki-tô.
Đấng Cứu Chuộc và Cứu Độ, và c̣n
được ân sủng Thiên Chúa làm tăng thêm vẻ
rực rỡ (x. GS, 2 ).
1702 (1878) Mỗi con
người đều mang h́nh ảnh Thiên Chúa. H́nh ảnh
ấy rực sáng trong sự hiệp thông nhân vị,
giống sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa ( )xem chương hai).
1703
1704 (339 30) Con người được
tham dự vào ánh sáng và sức mạnh của Thánh Thần
Thiên Chúa. Nhờ lư trí, họ hiểu được
trật tự muôn loài do Đấng Sáng Tạo thiết
lập. Nhờ ư chí, họ có khả năng
hướng tới sự thiện hảo đích thực.
Con người đạt tới sự viên măn của ḿnh
bằng cách "t́m kiếm và yêu mến những ǵ là chân,
là thiện" ( x. GS 15,2 ).
1705 (1730) Nhờ có linh
hồn với các khả năng tinh thần là lư trí và ư chí,
con người được hưởng tự do,
"dấu chỉ rơ ràng nhất con người là h́nh
ảnh Thiên Chúa" ( x. GS 17 )
1706 (1776) Nhờ lư trí,
con người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa thúc
đẩy ḿnh "làm lành lánh dữ" ( x. GS 16 ). Mỗi
người phải vâng theo lề
luật ấy, luật đang âm vang trong lương tâm
ḿnh, và thực hiện trong t́nh yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Việc thực thi đời sống luân lư chứng
nhận phẩm giá của con người.
1707 (397) "Ngay từ
đầu lịch sử, con người bị thần
Dữ cám dỗ nên đă lạm dụng tự do của
ḿnh" ( x. GS 13,1 ). Họ đă sa
chước cám dỗ và làm điều ác. Dù
vẫn c̣n ước muốn điều thiện, nhưng
bản tính họ đă bị thương tổn v́ nguyên
tội. Con người nghiêng chiều về sự
dữ và có thể sai lầm :
"Trong chính con người đă có sự chia rẽ. V́
thế, tất cả cuộc sống con người, cá
nhân hay tập thể, đều biểu hiện như
một cuộc chiến bi thảm, giữa tốt và
xấu, giữa ánh sáng và tối tăm" (
x. GS 13,2 ).
1708 (617) Nhờ
cuộc khổ nạn, Đức Ki-tô giải thoát chúng ta
khỏi Xa-tan và tội lỗi; nhờ đó, chúng ta đáng
được hưởng đời sống mới trong
Chúa Thánh Thần. Ân sủng của Người phục
hồi những ǵ tội lỗi đă làm hư hỏng
nơi chúng ta.
1709 (1265
1050) Ai tin
vào Đức Ki-tô th́ trở nên con cái Thiên Chúa. Ơn nghĩa
tử này biến đổi con người bằng cách
giúp họ sống theo gương
Đức Ki-tô. Nhờ đó, họ có khả
năng hành động đúng đắn và thực thi
điều lành. Sống kết hiệp
với Đấng Cứu Độ, người môn đệ
đạt tới đức ái hoàn hảo, tới sự
thánh thiện. Đời sống luân lư được
trưởng thành trong ân sủng, sẽ
triển nở thành đời sống vĩnh cửu trong
vinh quang Nước Trời.
TÓM LƯỢC
1710 "Đức Ki-tô cho con
người biết trọn vẹn về chính họ và
thiên chức rất cao cả của họ" ( GS 22,1).
1711 Được ban cho một
linh hồn với các khả năng tinh thần là lư trí và ư
chí, ngay từ lúc tượng thai, con người
được Thiên Chúa tiền định để
hưởng hạnh phúc đời đời. Con
người cố gắng đạt tới sự viên măn
của ḿnh bằng cách "t́m kiếm và yêu mến
những ǵ là chân, là thiện" ( GS 15,2).
1712 Tự do đích thực là
"dấu chỉ rơ ràng nhất con người là h́nh
ảnh Thiên Chúa" ( GS 17 ).
1713 Con người phải vâng theo luân
lư thúc đẩy họ "làm lành, lánh dữ" (GS 16). Luật này âm vang trong lương tâm mỗi
người.
1714 Bản tính con
người đă bị thương tổn v́ nguyên
tội, nên khi sử dụng tự do, họ có thể sai
lầm và nghiêng chiều về sự dữ.
1715 Ai tin vào Đức Ki-tô sẽ sống
cuộc đời mới trong Thánh Thần. Đời
sống luân lư được lớn lên và trưởng
thành trong ân sủng, sẽ triển nở trong vinh quang
Nước Trời.