1803 "Những
ǵ là chân thật, cao quư, những ǵ là chính trực, tinh
tuyền, những ǵ đáng mến và đem lại danh
thơm tiếng tốt, những ǵ là đức hạnh,
đáng khen, th́ xin anh em hăy để ư" (Pl 4,8).
1733 (1768) Nhân đức là một xu
hướng thường xuyên và kiên định để
làm điều thiện, không những giúp thực hiện
những hành vi tốt, mà c̣n cống hiến hết khả
năng của ḿnh. Người nhân
đức hướng về điều thiện với
tất cả năng lực thể xác và tinh thần.
Họ cố gắng theo đuổi
điều thiện và dứt khoát thực hiện bằng
những hành động cụ thể.
"Mục
đích của đời sống đức hạnh là nên
giống Thiên Chúa" (Thánh Ghê-gô-ri-ô thành Ni-xê, các
mối phúc 1).
I. CÁC ĐỨC TÍNH
NHÂN BẢN
1804 (2500) Các đức tính nhân bản
là những thái độ kiên định, những xu
hướng bền vững, thói quen hướng thiện
của lư trí và ư chí, giúp con người điều
chỉnh các hành vi, điều tiết các đam mê, và
hướng dẫn cách ăn nết ở của ta theo lư
trí và đức tin. Các đức tính này đem lại cho
con người sự thoải mái, tự chủ và an vui, để sống một cuộc
đời tốt lành. Người nhân
đức tự nguyện làm điều thiện.
1827
Muốn
có được các đức tính luân lư này, con
người phải cố gắng tập luyện. Đây là
hoa trái đồng thời cũng là mầm mống cho
những hành vi tốt. Các đức tính
hướng mọi năng lực của con người
đến sự hiệp thông với t́nh yêu Thiên Chúa.
Các đức tính căn bản
1805
Có
bốn đức tính đóng vai tṛ "bản lề,"
quy tụ các đức tính khác, gọi là các đức tính
"căn bản": khôn ngoan, công b́nh, can đảm và
tiết độ. "Con người mến chuộng
điều chính trực ư ? th́ chính Khôn Ngoan sản sinh các nhân đức:
Quả vậy, Khôn Ngoan dạy cho biết sống tiết
độ, khôn ngoan, công b́nh và can đảm" (Kn 8,7). Các
đức tính này c̣n được Kinh Thánh khen ngợi
dưới nhiều tên gọi khác .
1806 (1788 1780) Khôn ngoan là đức tính giúp
lư trí thực tiễn trong mọi hoàn cảnh nhận ra
điều thiện đích thực và chọn lựa
những phương thế tốt để đạt
tới. "Người khôn ngoan th́ đắn đo từng
bước" (Cn 14,15). "Anh em hăy
sống chừng mực và tiết độ để có
thể cầu nguyện được" (1 Pr 4,7). Như Aristote, thánh Tô-ma cũng viết:
"khôn ngoan là quy tắc đúng đắn để hành
động" (x. S.th 2-2, 47,2). Không nên lầm lẫn đức tính khôn ngoan
với tính nhút nhát và sợ sệt, tráo trở hay giả
h́nh. Khôn ngoan là)người dẫn
đường cho các đức tính, hướng dẫn
các đức tính khác bằng cách vạch ra quy tắc và mức
độ phải giữ. Đức khôn ngoan
trực tiếp hướng dẫn phán đoán của
lương tâm. Dựa theo phán
đoán này, người khôn ngoan chọn cách ứng xử
của ḿnh. Nhờ đức tính này, chúng ta
áp dụng đúng đắn các nguyên tắc luân lư vào
từng trường hợp cụ thể, và không c̣n do dự
về điều thiện phải làm và điều ác
phải tránh.
1807 (2095 2401) Công b́nh là đức tính luân
lư thể hiện qua quyết tâm trả cho Thiên Chúa
những ǵ thuộc về Thiên Chúa và trả cho tha nhân
những ǵ thuộc về tha nhân. Công b́nh
đối với Thiên Chúa được gọi là "nhân
đức thờ phượng". Đối với
con người, công b́nh là tôn trọng quyền lợi
của mỗi người và sống hài ḥa bằng cách
đối xử minh chính đối với mọi
người và thực thi công ích.Theo Kinh Thánh, người
công chính sống ngay thẳng trong mọi tư tưởng
và cư xử chính trực với tha nhân. "Các
ngươi không được thiên vị người
yếu thế, cũng không được nể mặt
người quyền quư, nhưng hăy xét xử công minh cho
đồng bào" (Lv 19,15).
"Người làm chủ hăy đối xử công
bằng và đồng đều với các nô lệ, v́
biết rằng cả anh em nữa cũng có một
Chủ trên trời"(Cl 4,1).
1808 (2848 2473) Can đảm là đức
tính luân lư giúp chúng ta kiên tŕ và quyết tâm theo đuổi
điều thiện giữa những khó khăn trong
đời. Đức can đảm giúp ta cương quyết
chống lại các cơn cám dỗ và vượt qua các
chướng ngại trong đời sống luân lư. Nhờ
can đảm, ta thắng được sợ hăi, ngay
cả cái chết, đương đầu với
thử thách và bách hại, sẵn sàng hy sinh mạng sống
v́ chính nghĩa. "Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi
ca ngợi" (Tv 118,14). "Trong thế
gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can
đảm lên, Thầy đă thắng thế gian"(Ga 16,33).
1809 (2341 2517) Tiết độ là
đức tính luân lư giúp ta điều tiết sức lôi
cuốn của những lạc thú và sử dụng
chừng mực những của cải trần thế. Tiết độ giúp ư chí làm chủ các bản
năng và kềm chế các ham muốn trong giới hạn
chính đáng. Người tiết độ
hướng các thèm muốn giác quan về điều
thiện và luôn thận trọng, "không chiều theo
những đam mê của ḷng ḿnh" (Hc 5,2).
Cựu Ước thường khen ngợi đức
tiết độ: "Con đừng buông theo các tham
vọng của con, nhưng hăy kềm chế các dục
vọng" (Hc 18,30). Tân Ước
gọi tiết độ là "chừng mực" hay
"điều độ", chúng ta phải sống
"chừng mực, công chính và đạo đức
ở thế gian này" (Tt 2,12).
"Sống tốt lành không
ǵ khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết ḷng, hết linh
hồn và hết sức lực ḿnh. Chúng ta dành cho
Người một t́nh yêu trọn vẹn (nhờ tiết
độ), không ǵ lay chuyển nổi (nhờ can
đảm) , chỉ vâng phục một
ḿnh Người (nhờ công b́nh), luôn tỉnh thức
để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và
gian dối (nhờ khôn ngoan)" (T.Âu-tinh, những thói quen
của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).
Các đức
tính và ân sủng
1810 (1266) Ân sủng Thiên Chúa thanh
luyện và nâng cao các đức tính mà con người có
được nhờ giáo dục, nhờ các hành vi chủ
ư và nhờ kiên tŕ tập luyện. Nhờ
Thiên Chúa trợ giúp, các đức tính tôi luyện tính t́nh và
giúp ta dễ dàng làm điều thiện. Người đức độ phấn khởi
tập luyện các đức tính.
1811 (2015) V́ bị tội lỗi làm
tổn thương, con người khó giữ
được thế quân b́nh luân lư. Ơn cứu
độ của Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta ân sủng cần thiết để kiên tâm
trau dồi các đức tính. Mỗi người phải
luôn cầu xin ơn soi sáng, cậy nhờ đến các bí
tích, cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghe theo
tiếng Người gọi để yêu mến
điều thiện và lánh xa điều ác.
(2086-2094 2636-2638)
II. CÁC NHÂN
ĐỨC ĐỐI THẦN
1812 (1266) Các đức tính nhân bản
bắt nguồn từ những nhân đức đối
thần. Nhân đức đối thần đem lại
cho con người những khả năng thông phần
bản tính Thiên Chúa (2 Pr 1,4). V́ quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa, các
nhân đức đối thần giúp người Ki-tô
hữu sống với Ba Ngôi Chí Thánh. Thiên Chúa Ba Ngôi và
Duy Nhất là căn nguyên, động lực và đối
tượng của nhân đức đối thần.
1813 (2008) Các nhân đức đối
thần là nền tảng, linh hồn và nét đặc thù
của hoạt động luân lư Ki-tô giáo. Chúng định
h́nh và làm sinh động mọi đức tính luân lư, Thiên
Chúa ban các nhân đức này cho tín hữu, để họ
có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và
đáng hưởng sự sống muôn đời. Nhân
đức đối thần là bảo chứng Chúa Thánh
Thần hiện diện và tác động trong những
năng lực của con người. Có ba nhân đức
đối thần: tin, cậy, mến (x. 1Cr 13,13).
Đức tin
1814 (506) Đức
tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng
ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những ǵ Người
nói và mặc khải cho chúng ta cũng như những ǵ
Hội Thánh dạy phải tin, v́ Thiên Chúa là chân lư. "Trong
đức tin, con người phó thác toàn thân
cho Thiên Chúa một cách tự do" (x. DV 5).
"Người công chính nhờ đức tin sẽ
được sống" (Rm1,17). "Chỉ đức tin hành động nhờ
đức mến, mới có hiệu lực." (Gl 5,6)
1815
Những
người không phạm tội nghịch với
đức tin, đều có hồng ân đức tin (x. Công
đồng TREN-TÔ: DS 1545). "Đức tin không có hành
động là đức tin chết" (Gcb 2,26).
Đức tin mà không có đức cậy và đức mến,
sẽ không kết hợp trọn vẹn người tín
hữu với Đức Ki-tô và không làm cho họ trở nên chi
thể sống động trong Thân Thể Người.
1816 (2471) Người môn đệ
Đức Ki-tô không những phải ǵn giữ và sống
đức tin, nhưng c̣n tuyên xưng, can đảm làm
chứng và truyền bá đức tin: "Mọi tín
hữu phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Ki-tô
trước mặt mọi người và bước theo
Người trên đường thập giá, giữa
những cuộc bách hại Hội Thánh không ngừng
gặp phải" (x. LG 42; DH 14). Việc
phục vụ và làm chứng cho đức tin cần
thiết cho ơn cứu độ. "Ai
nhận Thầy trước mặt thiên hạ, th́ Thầy
cũng nhận người ấy trước mặt Cha
Thầy, Đấng ngự trên trời. C̣n ai chối
Thầy trước mặt thiên hạ th́ Thầy cũng
chối người ấy trước mặt Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời" (x. Mt 10,32-33).
Đức cậy
1817 (1024) Đức
cậy là nhân đức đối thần, nhờ đó,
chúng ta khao khát Nước Trời và sự sống vĩnh
cửu như hạnh phúc đời ḿnh, khi tin
tưởng vào các lời hứa của Đức Ki-tô và phó
thác vào ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần chứ
không dựa vào sức ḿnh. "Ta hăy tiếp tục tuyên
xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng v́
Đấng đă hứa là Đấng trung tín" (Dt 10,23). "Thiên Chúa tuôn đổ
đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta,
nhờ Đức Giê-su Ki-tô Đấng Cứu Độ chúng ta.
Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng
Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng
sự sống đời đời như chúng ta vẫn
hy vọng" (Tt 3, 6-7)
1818 (27) Đức
cậy đáp ứng khát vọng hạnh phúc Thiên Chúa đă
đặt trong ḷng mọi người, đảm nhận
các niềm hy vọng gợi hứng cho sinh hoạt của
con người, thanh luyện và quy hướng các hy vọng
ấy về Nước Trời. Đức
cậy bảo vệ chúng ta khỏi thất vọng, nâng
đỡ khi ta bị bỏ rơi, giúp ta phấn khởi
mong đợi hạnh phúc muôn đời. Đức cậy giải thoát ta khỏi ḷng ích
kỷ và đưa ta đến với hạnh phúc của
đức mến.
1819 (146) Đức cậy Ki-tô giáo
tiếp nhận và kiện toàn niềm hy vọng của
Ít-ra-en. Niềm hy vọng này bắt nguồn và noi theo ḷng trông cậy của Áp-ra-ham. Tổ
phụ Áp-ra-ham được măn nguyện v́ Thiên Chúa
thực hiện những lời hứa nơi I-xa-ác,
được thanh luyện qua việc thử thách
hiến tế I-xa-ác (x. St 17,4-8; 22,1-18). "Mặc dầu
không c̣n ǵ để trông cậy, ông vẫn trông cậy và
vững tin; do đó, ông trở thành tổ phụ nhiều
dân tộc" (Rm 4,18).
1820 (1716 2772) Đức cậy Ki-tô giáo
được triển khai ngay trong bài giảng đầu
tiên của Đức Giê-su về các mối phúc. Các mối phúc
hướng niềm hy vọng của chúng ta lên Thiên
Quốc như hướng về miền đất
hứa mới, vạch đường chỉ lối xuyên
qua những thử thách đang chờ đợi các môn
đệ của Đức Giê-su. Nhờ công ơn và cuộc
khổ nạn của Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa ǵn giữ
chúng ta trong đức cậy: "Chúng ta sẽ không
phải thất vọng" (Rm 5,5). "Đối với
chúng ta, niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo
chắc chắn và bền vững của tâm hồn,
để đi sâu vào bên trong... nơi Đức Giê-su đă
vào như người tiền phong mở đường
cho ta" (Dt 6,19-20). Đức cậy cũng là vũ khí
bảo vệ ta trong cuộc chiến để
được cứu độ: "mặc áo giáp là
đức tin và đức mến, đội mũ
chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ"
(1Tx 5,8). Đức cậy mang lại cho ta niềm vui, ngay trong
thử thách: "Hăy vui mừng v́ có niềm hy vọng,
cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân ..." (Rm 12,12).
Đức cậy được diễn tả và nuôi
dưỡng trong kinh nguyện, nhất là kinh Lạy Cha,
bản tóm lược tất cả những ǵ mà
đức cậy gợi lên trong ta.
1821 (2016 1037) Do
đó, chúng ta có thể hy vọng được
hưởng vinh quang thiên quốc mà Thiên Chúa đă hứa
ban cho những ai yêu mến Người và thực thi ư
Người (x. Mt 7,21). Trong mọi hoàn cảnh, mỗi
người phải hy vọng sẽ được ơn
Thiên Chúa trợ giúp " bền đỗ đến
cùng" (x. Mt 10,22; Công đồng Tren-tô; DS 1514) và
được hưởng niềm vui thiên quốc như
phần thưởng đời đời Thiên Chúa ban, v́
các việc lành đă thực hiện nhờ ân sủng
Đức Ki-tô. Với ḷng trông cậy, Hội Thánh cầu
nguyện cho "mọi người được
cứu độ" (1Tm 2,4), Hội Thánh mong
được kết hợp với Đức Ki-tô, Phu Quân
của ḿnh, trong vinh quang thiên quốc.
Hy vọng
đi, hồn tôi hỡi, hăy hy vọng! Bạn không biết
ngày nào và giờ nào. Hăy tỉnh thức, mọi sự qua
đi nhanh chóng, v́ quá nóng ḷng nên bạn hoài nghi điều
chắc chắn và cảm thấy quá dài khoảng thời
gian vắn vỏi. Hăy nhớ rằng, bạn càng chiến
đấu, càng chứng tỏ t́nh yêu đối với
Thiên Chúa, và càng vui sướng hơn, một ngày kia với
Đấng ḷng bạn yêu mến, trong niềm hạnh phúc và
say mê bất tận (T. Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, tự thuật
15,3).
Đức mến
1822 (1723) Đức
mến là nhân đức đối thần, nhờ đó,
chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự v́ chính Chúa,
và v́ yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người thân
cận như chính ḿnh.
1823 (1970) Đức
Giê-su đặt đức mến làm điều răn
mới (Ga 13,34). Khi yêu mến những kẻ thuộc
về Người "đến cùng" (Ga 13, 1),
Người biểu lộ t́nh yêu Người đă
nhận được từ Chúa Cha. Khi yêu thương
nhau, các môn đệ noi gương Đức Giê-su, Đấng
đă yêu mến họ. V́ thế, Đức Giê-su nói: "Chúa
Cha đă yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu
mến anh em như vậy. Anh em hăy ở trong t́nh yêu
của Thầy" (Ga 15, 9). " Đây là điều răn
của Thầy: Anh em hăy yêu thương nhau, như Thầy
đă yêu thương anh em" (Ga 15,12).
1824 (735) Đức
mến là hoa trái của Thánh Thần và là sự viên măn
của lề luật. Yêu mến là giữ các điều
răn của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô: "Hăy ở
trong t́nh thương của Thầy. Nếu anh em giữ
các điều răn của Thầy, th́ anh em sẽ ở
trong t́nh thương của Thầy" (Ga 15,9-10) (x. Mt
22,40; Rm 13,8-10).
1825 (604) Đức
Ki-tô đă chịu chết v́ yêu mến chúng ta, ngay lúc chúng
ta c̣n là "thù nghịch" với Thiên Chúa (Rm 5,10). Chúa
đ̣i ta yêu thương như Người (x. Mt 5,44), yêu
cả những kẻ thù nghịch, thân cận với
những người xa lạ (x. Lc 10, 27-37), yêu mến
trẻ em (x. Mc 9,37) và người nghèo như chính
Người (Mt 25,40-45).
Thánh tông đồ Phao-lô liệt kê một
loạt các đặc điểm của đức
mến: "Đức mến th́ nhẫn nhục, không ghen
tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm
điều bất chính, không t́m tư lợi, không nóng
giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự
gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng
tất cả, chịu đựng tất cả"(1Cr
13,4-7).
1826 Thánh tông
đồ c̣n nói: "không có đức mến, tôi cũng
chẳng là ǵ...". Tất cả những đặc ân,
công việc phục vụ hay nhân đức mà "không có
đức mến, th́ cũng chẳng ích ǵ cho tôi" (1 Cr
13,1-4). Đức mến cao trọng hơn mọi đức
tính, đứng đầu các nhân đức đối
thần. "Hiện nay đức tin, đức cậy,
đức mến, cả ba đều tồn tại,
nhưng cao trọng hơn cả là đức mến"
(1Cr 13,13).
1827 (815 826) Đức
mến gợi hứng và thúc đẩy việc tập
luyện mọi đức tính. Đức mến là
"mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl 3,14); là mô
thể của các đức tính; liên kết và phối
hợp các đức tính; là nguồn mạch và cùng đích
của việc thực hành các đức tính trong
đời sống ki-tô hữu. Đức mến bảo
đảm thanh luyện và nâng khả năng yêu
thương của con người lên mức hoàn thiện
siêu nhiên, trở thành t́nh yêu thiêng liêng.
1828 (1972) Đời
sống luân lư được sinh động nhờ
đức mến mới đem lại cho người
Ki-tô hữu sự tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa.
Trong tương quan với Thiên Chúa, Ki-tô hữu không c̣n là
kẻ nô lệ sống trong sợ hăi hay người làm
công ăn lương, nhưng là người con đáp
lại t́nh thương của "Đấng đă yêu
thương chúng ta trước" (1Ga 4,19).
Nếu xa lánh sự dữ v́ sợ bị
phạt, chúng ta sống như tên nô lệ. Nếu chạy
theo phần thưởng, chúng ta khác nào kẻ làm thuê.
Nếu chúng ta tuân phục v́ chính sự thiện và v́ yêu
mến Đấng ban hành lề luật, chúng ta mới
thực sự là con (Thánh Ba-xi-li-ô Cả khảo luận
thêm về luật sống 3).
1829 (2540) Hoa
trái của đức mến là niềm vui, b́nh an và ḷng
thương xót. Đức mến đ̣i buộc ta phải làm
điều thiện và sửa lỗi huynh đệ.
Đức mến là tử tế, bất vụ lợi và hào
phóng, là t́nh thân và sự hiệp thông:
Tột
đỉnh của mọi công việc là t́nh thương.
Đó là mức đến mà chúng ta cố gắng chạy
tới, và khi tới đích, chúng ta sẽ nghỉ ngơi
trong t́nh yêu
(T.Âu tinh , thư Gio-an 10,4).
III. HỒNG ÂN VÀ
HOA TRÁI CỦA THÁNH THẦN
1830 Chúa Thánh
Thần ban các hồng ân nâng đỡ đời sống
luân lư của tín hữu. Các hồng ân này là những xu
hướng bền vững giúp con người dễ dàng
sống theo Thánh Thần.
1831 (1266, 1299) Bảy
ơn Chúa Thánh Thần là: ơn khôn ngoan, ơn thông minh,
ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm, ơn
hiểu biết, ơn đạo đức và ơn kính
sợ Chúa. Các ơn này được Thánh Thần ban
xuống tràn đầy nơi Đấng Mê-si-a, Con Vua Đa-vít (x.
Is 11,1-2); bổ túc và hoàn thiện các đức tính nơi
người lănh nhận; làm cho tín hữu dễ dàng và mau
mắn tuân theo các điều Thiên Chúa soi sáng.
"Xin Thần Khí tốt lành của Chúa
dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu" (TV
143,10).
"Ai được Thánh Thần Thiên Chúa
hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa ... Đă là con
th́ cũng là thừa kế; mà Thiên Chúa cho thừa kế,
tức là đồng thừa kế với Đức
Ki-tô" (Rm 8, 14.17).
1832 (736) Các hoa
trái của Thánh Thần là những điều thiện
hảo Thánh Thần ban cho chúng ta như hoa quả
đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền
thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của
Thánh Thần "Bác ái, hoan lạc, b́nh an, nhẫn nại,
nhân từ, lương thiện, hiền ḥa, khoan dung, trung
tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết" (Gl
5,22-23).
TÓM LƯỢC
1833 Đức
tính là những xu hướng bền vững và kiên
định để làm điều thiện.
1834 Các
đức tính nhân bản là những xu hướng bền
vững của lư trí và của ư chí, để điều
chỉnh các hành vi, điều tiết các đam mê và
hướng dẫn cách ăn nết ở theo lư trí và
đức tin. Có bốn đức tính "căn
bản", quy tụ các đức tính khác, là: khôn ngoan,
công b́nh, can đảm và tiết độ.
1835 Đức
khôn ngoan giúp lư trí thực tiễn nhận ra điều
thiện đích thực trong mọi hoàn cảnh và lựa
chọn những phương thế tốt để
đạt tới.
1836 Đức
công b́nh thể hiện qua quyết tâm trả cho Thiên Chúa
những ǵ thuộc về Thiên Chúa và trả cho tha nhân
những ǵ thuộc về tha nhân.
1837 Đức can
đảm giúp chúng ta kiên tŕ quyết tâm theo đuổi
điều thiện giữa những khó khăn trong
đời.
1838 Đức
tiết độ giúp ta điều tiết sức lôi
cuốn của những lạc thú và sử dụng
chừng mực những của cải trần thế.
1839 Các
đức tính luân lư tăng trưởng nhờ giáo
dục, nhờ<179) các hành vi chủ ư và nhờ kiên tŕ
tập luyện. Nhờ ân sủng Thiên Chúa các đức
tính được thanh luyện và nâng cao.
1840 Các nhân
đức đối thần giúp người ki-tô hữu
sống với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa là căn nguyên và
đối tượng của nhân đức đối
thần: Đấng được nhận biết nhờ
đức tin, được cậy trông và yêu mến v́
chính Người.
1841 Có ba nhân
đức đối thần là đức tin, đức
cậy và đức mến. Ba nhân đức này
định h́nh và làm sinh động mọi đức tính
luân lư.
1842 Nhờ
đức tin chúng ta tin vào Thiên Chúa và tin tất cả
những điều Người đă mặc khải
cũng như những ǵ Hội Thánh dạy phải tin.
1843 Nhờ
đức cậy, chúng ta khao khát và chờ mong với xác
tín rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ta sự sống vĩnh
cửu và các ân sủng để ta xứng đáng
hưởng sự sống đó.
1844 Nhờ
đức mến, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết
mọi sự và v́ yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến
người thân cận như chính bản thân. Đức
mến là "mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl
3,14) và là mô thể của mọi đức tính.
1845 Bảy
ơn Thánh Thần ban cho tín hữu là ơn khôn ngoan, ơn
thông minh, ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm,
ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn
kính sợ Thiên Chúa.