1928 (2832) Xă hội bảo đảm
công bằng xă hội khi tạo ra những hoàn cảnh
thuận lợi để các đoàn thể cũng như
mỗi cá nhân có được những ǵ họ có
quyền hưởng theo bản tính và ơn gọi của
họ. Công bằng xă hội liên hệ
mật thiết với công ích và với việc thực thi
quyền bính.
Tôn Trọng Nhân
Vị
1929 (1881) Chỉ có được công
bằng xă hội khi phẩm giá siêu việt của con
người được tôn trọng. Con người là
mục đích tối hậu của xă hội, v́ xă hội
nhằm phục vụ con người:
"Đấng Tạo Hóa đă trao cho chúng ta trách nhiệm
bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con
người. Trong mọi hoàn cảnh lịch
sử, mọi người nam cũng như nữ,
đều phải đảm nhận trọng trách này"
(x.
1930 (1700 1902) Tôn trọng nhân vị
gồm cả việc tôn trọng các quyền phát sinh
từ phẩm giá của thụ tạo là con người.
Các quyền này không do xă hội ban cho và xă hội phải
công nhận chúng. Các quyền ấy là cơ
sở để mọi quyền bính có được
hợp pháp về mặt luân lư (x. PT 65). Khi chà
đạp hay phủ nhận các quyền ấy trong
luật pháp hiện hành của ḿnh th́ xă hội tự phá
hoại tính hợp pháp về mặt luân lư của chính ḿnh.
Không có sự tôn trọng nhân vị, quyền
bính chỉ có thể dựa trên sức mạnh hay bạo
lực, để bắt buộc các thành viên phải tùng
phục. Hội thánh có bổn phận nhắc nhở
những người thiện chí về những quyền
này và phân biệt chúng với những đ̣i hỏi quá đáng hay sai lầm.
1931 (2212 1825) Để
tôn trọng nhân vị phải tôn trọng nguyên tắc:
"Mỗi người đều phải xem người
đồng loại, không trừ một ai, như "cái
tôi thứ hai", nên phải quan tâm đến sự
sống của họ và những phương tiện
cần thiết giúp họ sống xứng đáng nhân
phẩm" (x. GS 27,1). Không một luật
pháp nào tự ḿnh có thể xóa bỏ được các
nỗi sợ hăi, những thành kiến, những thái
độ kiêu căng và ích kỷ, ngăn trở việc
xây dựng những xă hội thực sự huynh
đệ. Chỉ có đức ái Ki-tô
giáo mới có thể lướt thắng những thái
độ đó, v́ giúp chúng ta đón nhận người
khác như một người "thân cận", một
người anh em.
1932 (2449) Bổn phận "trở
nên người thân cận" của tha nhân và hết ḷng
phục vụ họ khẩn thiết hơn khi có
người gặp khốn khổ trong bất kỳ lănh
vực nào. "Mỗi lần các ngươi làm như
thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất
của Ta đây, là các ngươi đă làm cho chính Ta vậy"
(x. Mt 25,40).
1933
Bổn
phận này cũng được thực thi đối
với những kẻ suy nghĩ hay hành dộng khác chúng
ta.Giáo huấn của Đức Ki-tô đ̣i buộc chúng ta
phải tha thứ mọi xúc phạm (x. Mt 5,43-44). Giới
răn của luật mới dạy chúng ta yêu thương
cả kẻ thù. Sống theo Tin Mừng,
chúng ta không được oán ghét kẻ thù, dù ghét
điều ác do họ gây ra.
II. CON
NGƯỜI: DỊ BIỆT NHƯNG B̀NH ĐẲNG
1934 (225) Mọi người có cùng
một bản tính và cùng một nguồn gốc, v́
được tạo dựng theo h́nh ảnh Thiên Chúa duy
nhất, và được ban cho một linh hồn. Nhờ hy tế của Đức Ki-tô cứu
chuộc, mọi người được mời
gọi đến hưởng vinh phúc của Thiên Chúa, nên b́nh
đẳng về phẩm giá.
1935 (357) Con người b́nh
đẳng với nhau chủ yếu dựa trên nhân
phẩm và các quyền phát xuất từ nhân phẩm:
"Phải vượt lên trên và loại
bỏ mọi h́nh thức kỳ thị về những
quyền lợi căn bản của con người, trong
phạm vi xă hội hoặc văn hóa, phái tính, chủng
tộc, màu da, địa vị xă hội, ngôn ngữ hay tôn
giáo, v́ như vậy là trái với ư định của Thiên
Chúa" (x. GS 29,2).
1936 (1879) Khi chào đời, con
người không có sẵn trong tay tất cả những ǵ
cần thiết để phát triển đời sống
thể xác và tinh thần của ḿnh. Con người cần
đến tha nhân. Con người khác nhau về tuổi
tác, thể lực, những năng lực trí tuệ và tinh
thần, những cơ hội mỗi người có
được và của cải được phân
phối. Thiên Chúa không trao cho mỗi người số
"nén bạc " như nhau.
1937 (340
"Ta không ban cho mọi người các
đức tính như nhau, nhưng kẻ này được
đức tính này, kẻ khác được đức tính
khác... Ta ban cho người này đức ái, kẻ khác
được đức công chính, sự khiêm
nhường hay đức tin sống động... C̣n về những điều cần thiết cho
đời sống con người, Ta đă không phân
phối đồng đều, không muốn mỗi
người có đủ mọi sự, để buộc
họ phải thực thi đức ái. Ta muốn
họ cần đến nhau và trở thành những
thừa tác viên của Ta để phân phát những ân
sủng và mọi thứ Ta đă quảng đại ban cho
họ" (T. Ca-ta-ri-na thành Si-ên-na 1,7).
1938 (2437) Tuy nhiên có hàng triệu
người nam cũng như nữ bị đối
xử bất b́nh đẳng. Điều này rơ ràng nghịch
với Tin Mừng.
(2317) "Sự
b́nh đẳng về nhân phẩm đ̣i hỏi
người ta phải tiến tới mức sống nhân
đạo hơn và xứng hợp với con người
hơn. Thực vậy, những chênh lệch quá đáng
về kinh tế và xă hội giữa những thành phần
hay giữa những dân tộc trong cùng một gia đ́nh
nhân loại thực là những gương xấu và đi
ngược với công bằng xă hội, lẽ phải,
nhân phẩm và nền ḥa b́nh xă hội cũng như
quốc tế (x. GS 29,3).
III. T̀NH LIÊN ĐỚI NHÂN LOẠI
1939 (2213) Nguyên tắc liên đới, c̣n
gọi là "thân hữu" hay "bác ái xă hội", là
một đ̣i hỏi xuất phát trực tiếp từ
t́nh huynh đệ nhân bản và Ki-tô giáo (x.
(360)
"Một sai lầm phổ biến của thời
đại là người ta lăng quên quy luật của t́nh liên
đới và của đức mến. Quy luật này
được thiết đặt và khắc ghi nơi
mỗi người bất kể họ thuộc dân
tộc nào, do việc mọi người cùng chung
một nguồn gốc, cùng có lư trí và cùng được
cứu độ nhờ hy tế Đức
1940 (2402) T́nh liên đới biểu
lộ trước tiên qua việc phân phối của
cải và trả lương lao động. T́nh
liên đới đ̣i phải có một nỗ lực xây
dựng trật tự xă hội công b́nh hơn, trong đó
những căng thẳng có thể dàn ḥa tốt đẹp
và những xung khắc được giải quyết
dễ dàng nhờ thương lượng.
1941 (2317) Những vấn đề
kinh tế xă hội chỉ có thể được
giải quyết nhờ các h́nh thức liên đới: liên
đới giữa những người nghèo với nhau,
giữa giàu với nghèo, giữa những người lao
động, giữa chủ và thợ, giữa các quốc
gia và dân tộc. T́nh liên đới quốc
tế là một đ̣i hỏi của trật tự luân lư.
Ḥa b́nh thế giới cũng tùy thuộc
một phần vào t́nh liên đới này.
1942 (1887 2632) T́nh liên đới không
chỉ nhằm vào của cải vật chất. Khi phân
phát các ân huệ thiêng liêng của
đức tin, Hội Thánh giúp con người phát triển
những lợi ích trần thế, bằng cách khai mở
những con đường mới cho cuộc phát triển
này. Như thế, Lời Chúa được ứng
nghiệm qua ḍng thời gian: "Trước hết
phải lo t́m kiếm Nước Chúa và ăn
ở ngay lành như Người đ̣i hỏi, c̣n các
thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Mt 6, 33):
Hai ngàn năm qua, trong ḷng Hội Thánh
vẫn có một tâm t́nh sống động đă và đang
thúc đẩy nhiều người sống đời
tận hiến đến mức anh hùng - các đan sĩ
cày sâu cuốc bẫm, những nhà giải phóng nô lệ,
những người chữa trị bệnh nhân, các sứ
giả mang đức tin văn minh và khoa học
đến với mọi thế hệ và dân tộc,
nhằm tạo ra những hoàn cảnh xă hội khả
dĩ giúp mọi người có được một
đời sống xứng đáng với phẩm giá con
người và phẩm giá của một ki-tô hữu (x. Pi-ô
XII, diễn từ ngày
TÓM LƯỢC
1943
Xă
hội bảo đảm công bằng xă hội bằng cách
tạo ra những hoàn cảnh giúp các tập thể và cá
nhân nhận được những ǵ họ có quyền
hưởng.
1944
Tôn
trọng nhân vị là coi kẻ khác như chính ḿnh. Điều
này đ̣i buộc phải tôn trọng những quyền
căn bản phát xuất từ phẩm giá đích thực
của con người.
1945
Mọi
người đều b́nh đẳng dựa trên nhâm
phẩm và các quyền xuất phát từ nhân phẩm.
1946
Những
dị biệt giữa con người nằm trong kế
hoạch của Thiên Chúa. Người muốn
chúng ta cần đến nhau. Những dị biệt
ấy đ̣i con người sống bác ái với nhau.
1947
V́
con người b́nh đẳng về nhân phẩm nên
phải cố gắng giảm thiểu những chênh
lệch quá đáng về xă hội và kinh tế, xóa bỏ
bất b́nh đẳng.
1948
T́nh
liên đới là một đức tính nổi bật
của Ki-tô giáo. T́nh liên đới thúc bách
chúng ta chia sẻ của cải vật chất và hơn
nữa, cả của cải tinh thần.