I. CÔNG CHÍNH HÓA
1987 (734) Ân sủng của Chúa Thánh
Thần có quyền năng công chính hóa chúng ta, nghĩa là
thanh tẩy chúng ta sạch tội lỗi, và
được "Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ tin vào
Đức Giê-su Ki-tô" (Rm 3,22) và nhờ bí tích Thánh Tẩy: (T.
Tô-ma A-qui-nô 1-2; 90,4)
"Nếu chúng ta đă cùng chết
với Đức Ki-tô , chúng ta cũng
sẽ cùng sống với Người, đó là niềm tin
của chúng ta. V́ biết rằng: một khi Đức Ki-tô
đă sống lại từ cơi chết, th́ không bao giờ
Người chết nữa, cái chết chẳng c̣n
quyền chi đối với Người. Người
đă chết là chết đối với tội lỗi,
và một lần là đủ. nay
Người sống là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng
vậy, hăy coi ḿnh như đă chết đối với
tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, v́
được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô"
(Rm 6, 8-11) .
1988 (654) Nhờ quyền năng Thánh
Thần, chúng ta dự phần vào cuộc khổ nạn
của Đức Ki-tô bằng cách chết cho tội lỗi,
và dự phần vào sự phục sinh của Người
bằng việc tái sinh vào đời sống mới; chúng
ta là những chi thể của Thân Thể Người là
Hội Thánh (x. 1Cr 12) , là những ngành nho được
ghép vào Thân nho là chính Đức Ki-tô (x. Ga 15,1-4):
(460)
"Nhờ Thánh Thần chúng ta được tham
dự vào đời sống Thiên Chúa. Nhờ lănh
nhận Thánh Thần, chúng ta được thông phần
bản tính Thiên Chúa....V́ thế, những kẻ nào
được Chúa Thánh Thần ở cùng, đều
được thần hóa (T. A-ta-na-si-ô 1, 24) .
1989 (1427) Công
tŕnh đầu tiên Chúa Thánh Thần thực hiện nơi
con người là sự hoán cải, nghĩa là cho họ nên
công chính như lời rao giảng của Đức Giê-su
từ buổi đầu của Tin Mừng: "Anh em
phải sám hối, v́ triều đại Thiên Chúa đă
đến gần" (Mt 4,17) . Dưới tác động
của ân sủng, con người quay
về với Thiên Chúa và từ bỏ tội lỗi,
nhờ đó được Thiên Chúa ban ơn tha thứ và
sự công chính. "Như thế, công chính hóa không chỉ
là tha tội, mà c̣n thánh hóa và canh tân con người nội
tâm” (Cđ Tren-tô: DS 1528) .
1990 (1446 1733) Ơn công chính hóa giải
thoát con người và thanh luyện tâm hồn khỏi
tội lỗi nghịch với t́nh yêu Thiên Chúa. Ơn công
chính hóa xuất phát từ sáng kiến của Thiên Chúa giàu
ḷng thương xót và hằng tha thứ. Khi
được công chính hóa, con người được
ḥa giải với Thiên Chúa, được giải phóng
khỏi ách tội lỗi và được chữa lành.
1991 (1812) Ơn công chính hóa c̣n là
việc chúng ta đón nhận sự công chính Chúa ban cho, nhờ
tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Sự công chính ở
đây chỉ sự công minh chính trực của t́nh yêu Thiên
Chúa. Cùng với ơn công chính hóa, Thiên Chúa ban cho chúng ta
đức tin, cậy và mến, và ơn biết phục
tùng thánh ư Chúa.
1992
"Nhưng ngày nay, Thiên Chúa
đă cho thấy cách Người làm cho người ta nên
công chính mà không cần đến luật Mô-sê. Điều
này sách luật Mô-sê và các ngôn sứ làm chứng.
Quả thế, Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính
nếu họ tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Tất cả
những ai tin đều được như thế:
bất kể là người Do thái hay dân ngoại. Thật
vậy, mọi người đă phạm tội và bị
tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ
được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban
nhưng không nhờ công tŕnh cứu chuộc thực
hiện trong Đức Giê-su Ki-tô. Thiên Chúa đă định cho
Đức Ki-tô Giê-su phải đổ máu ḿnh ra làm hi lễ
đem lại ơn tha tội cho những ai tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là
Đấng Công Chính. Trước kia,
trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đă
bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng
bây giờ, Người muốn cho thấy rằng,
Người là Đấng Công Chính, nghĩa là Người vừa
công chính vừa làm cho kẻ sống nhờ ḷng tin vào
Đức Giê-su Ki-tô được nên công chính" (Rm 3,21-26) .
1993 (2008) Ơn
công chính hóa mở đầu cho sự cộng tác giữa
ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con
người. Về phía con người, ơn công chính hóa
được biểu lộ qua sự ưng thuận tin theo lời Thiên Chúa mời gọi hoán
cải, và qua sự cộng tác bằng đức mến
vào tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng khởi
xướng và ǵn giữ sự ưng thuận đó:
(2068) Khi Thiên
Chúa dùng ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, đánh
động tâm hồn con người, con người không
phải là không làm ǵ nhưng đă đón nhận ơn soi
sáng này và là ơn họ có thể khước từ. Tuy
nhiên, không có ân sủng Chúa, họ cũng không thể
nhờ ư chí tự do của ḿnh đạt tới sự
công chính trước mặt Thiên Chúa (Cđ. Tren-tô, DS 1525) .
1994 (312 412) Ơn
công chính hóa là công tŕnh tuyệt hảo của t́nh yêu Thiên
Chúa được biểu lộ trong Đức Giê-su Ki-tô và
được Chúa Thánh Thần ban tặng. Thánh Âu-tinh cho
rằng "việc công chính hóa kẻ vô đạo là
một công tŕnh c̣n lớn lao hơn cả việc tạo
dựng trời đất", bởi v́ "trời
đất sẽ qua đi, c̣n ơn cứu độ và
công chính hóa các kẻ được tuyển chọn
vẫn tồn tại" (x. Ev, G 72,3) .
Thánh nhân c̣n cho rằng sự công chính hóa các kẻ tội
lỗi vượt trên công tŕnh tạo dựng các thiên
thần trong sự công chính, v́ cho thấy rơ hơn ḷng
thương xót lớn lao của Thiên
Chúa.
1995 (741) Chúa Thánh Thần là vị
thầy nội tâm. Ơn công chính hóa khai sinh "con
người nội tâm" (x. Rm 7,22; Eph
3,16) và đem lại ơn thánh hóa toàn thể con
người:
"Trước đây, anh em đă dùng chi
thể của anh em làm nô lệ những điều ô
uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, th́ nay,
anh em cũng hăy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính
để trở nên thánh thiện...Giờ đây, anh em
đă được giải thoát khỏi ách tội
lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa, anh em thu
được kết quả là được trở nên
thánh thiện, và rốt cuộc được sống
đời đời" (x. Rm 6,19.22) .
II. ÂN SỦNG
1996 (153) Chúng ta được công chính
hóa nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng là một ân
huệ, một trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban
để chúng ta đáp lại tiếng gọi của
Người: trở thành con cái Thiên Chúa (x. Ga 1,12-18)
, làm nghĩa tử (x. Rm 8,14-17) , tham dự vào bản tính
Thiên Chúa (x. 2Pr 1, 3-4) và vào sự sống đời
đời (x. Ga 17,3) .
1997 (375 260) Ân sủng cho chúng ta tham
dự vào sự sống Thiên Chúa, vào đời sống thâm
sâu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhờ bí tích Thánh Tẩy,
người Ki-tô hữu tham dự vào ân sủng của Đức
Ki-tô, Đầu của Thân Thể. Nhờ kết hiệp
với "Con Một Thiên Chúa", họ trở thành
nghĩa tử và được gọi Thiên Chúa là
"Cha". Họ lănh nhận sự sống của Chúa
Thánh Thần, Đấng thông ban đức mến và xây
dựng Hội Thánh.
1998 (1719) Ơn gọi vào sự
sống vĩnh cữu là một ơn siêu nhiên, tùy thuộc
hoàn toàn vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa, v́
chỉ ḿnh Người mới có thể tự mặc
khải và tự hiến. Ơn gọi ấy vượt
mọi khả năng của trí tuệ và ư chí con
người, cũng như của mọi thụ tạo (x.
1Cr 2,7-9) .
1999 (1966) Ân sủng của Đức
Ki-tô là ân huệ nhưng không, qua đó Thiên Chúa ban cho chúng ta
sự sống của Người. Nhờ Thánh Thần,
Thiên Chúa ban sự sống đó vào linh
hồn để chữa trị tội lỗi và thánh hóa
chúng ta. Đó là ơn thánh hóa hay ơn thần hóa
nhận được trong bí tích Thánh Tẩy. Trong
chúng ta, ơn này là căn nguyên của công tŕnh thánh hóa (x. Ga
4,14; 7, 38-39):
"Phàm ai kết hợp
với Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới, cái
cũ đă qua, cái mới đă có đây rồi. Mọi sự
ấy đều do bởi Thiên Chúa, là Đấng đă
nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được ḥa giải
với Người" (2 Cr 5,17-18) .
2000
Ơn
thánh hóa là một ân huệ thường tồn, một
trạng thái siêu nhiên bền vững, hoàn thiện linh
hồn để chúng ta có thể sống với Thiên Chúa
và hành động nhờ t́nh yêu của Người. Chúng ta phân biệt ơn thường sủng và
ơn hiện sủng. Ơn thường sủng là
trạng thái thường xuyên để sống và hành
động theo tiếng gọi của Thiên Chúa, và ơn
hiện sủng là những can thiệp của Thiên Chúa lúc
khởi đầu cuộc hoán cải hoặc trong quá tŕnh
thánh hóa.
2001 (490) Chuẩn bị cho con
người đón nhận ân sủng cũng đă là
một công tŕnh của ân sủng. Việc chuẩn bị
này cần thiết để khơi dậy và nâng
đỡ sự cộng tác của chúng ta vào việc công
chính hóa nhờ đức tin, vào việc thánh hóa nhờ
đức mến. Thiên Chúa hoàn thành nơi ta điều
Người đă khởi sự "v́ Người
khởi sự bằng cách tác động thế nào
để chúng ta ước muốn, và Người hoàn
thành bằng cách hợp tác với ư muốn đă
được hoán cải của chúng ta" (T.Âu-tinh, 17):
"Chúng ta cũng làm
việc nhưng chỉ cùng làm với Thiên Chúa, Đấng
đang hoạt động. Thiên Chúa giàu ḷng thương xót
đi bước trước để chữa lành chúng ta
và một khi chúng ta được chữa lành,
Người vẫn dơi theo để chúng ta được
tác sinh; Thiên Chúa giàu ḷng thương xót đi bước
trước để kêu gọi chúng ta, Người
vẫn dơi theo chúng ta để chúng ta được vinh
quang; Thiên Chúa giàu ḷng thương xót đi bước
trước để giúp chúng ta sống theo ḷng nhân
hậu, người vẫn dơi theo chúng ta để chúng ta
sống măi với Người; v́ không có Người, chúng
ta chẳng làm được ǵ" (T.Âu-tinh, 31) .
2002 (1742) Thiên
Chúa tự do khởi xướng và Người muốn con
người đáp trả với tất cả tự do.
Khi tạo dựng con người theo h́nh ảnh ḿnh, Thiên
Chúa không chỉ ban cho họ sự tự do mà c̣n ban khả
năng nhận biết và yêu mến Người. Chỉ
khi tự nguyện, con người mới có thể
bước vào hiệp thông t́nh yêu. Thiên Chúa trực tiếp
lay động ḷng người. Thiên Chúa đặt trong con
người khát vọng chân lư và điều thiện mà
chỉ có Người mới có thể thỏa măn. Lời
hứa ban sự sống đời đời đáp
lại khát vọng này, vượt trên mọi mong
ước của con người:
(2550) ("Chúa
đă nghỉ ngơi ngày thứ bảy sau khi hoàn tất
công tŕnh rất tốt đẹp của Chúa... chính là
để nói trước với chúng ta qua lời Sách Thánh
rằng, sau khi hoàn tất công tŕnh rất tốt
đẹp của chúng con mà chính Chúa đă ban tặng, th́
đến lượt chúng con, chúng con cũng hưởng
ngày hưu lễ của cuộc sống trường sinh
và nghỉ ngơi trong Chúa" (T.Âu-tinh, tự thuật 13,
36. 51) .
2003 (1108 1127 799-801)
Ân sủng trước tiên và chính yếu là hồng ân
Thánh Thần để công chính hóa và thánh hóa chúng ta. Nhưng
ân sủng cũng gồm các hồng ân Chúa Thánh Thần ban
để liên kết chúng ta vào công tŕnh của
Người, ban cho chúng ta khả năng cộng tác vào công
tŕnh cứu độ tha nhân và làm phát triển Thân Thể
Chúa Ki-tô là Hội Thánh. Đó là các ân sủng bí tích, mỗi bí
tích ban ơn riêng. Ngoài ra, c̣n có các ân sủng đặc
biệt gọi là đặc sủng theo từ Hi Lạp
thánh Phao-lô sử dụng có nghĩa là đặc ân, quà
tặng nhưng không, ân huệ (x. LG 12) . Dù có đặc
tính nào đi nữa, đôi khi là ngoại thường,
như ơn làm phép lạ hay nói tiếng lạ, các
đặc sủng cũng đều qui hướng
về ơn thánh hóa và có mục đích phục vụ
lợi ích chung của Hội Thánh. Các đặc sủng
đều phục vụ cho đức mến để
xây dựng Hội Thánh (x. 1Cr 12) .
2004 Trong các
đặc sủng, phải nêu lên các ơn chức phận
được ban cho người thi hành các bổn phận
của đời sống ki-tô hữu và các thừa tác
vụ trong ḷng Hội Thánh:
"Chúng ta có những đặc sủng khác nhau tùy theo ân
sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Ai
được ơn làm ngôn sứ, th́ phải nói sao cho phù
hợp với đức tin. Ai được ơn
phục vụ, th́ phải phục vụ. Ai
được ơn giảng dạy, th́ hăy giảng
dạy. Ai được ơn khuyên bảo, th́ hăy khuyên
bảo. Ai chia cơm sẻ áo th́ phải thật ḷng. Ai
chủ tọa th́ phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác
ái, th́ hăy vui vẻ mà làm" (Rm 12, 6-8) .
2005 Ân sủng
thuộc b́nh diện siêu nhiên, nên vượt tầm kinh
nghiệm của chúng ta, và chỉ nhận biết
được bằng đức tin. Cho nên chúng ta không
thể dựa trên t́nh cảm hay các việc làm của chúng
ta để suy luận rằng, chúng ta đă
được công chính hóa và được cứu rỗi
(Cđ. Tren-tô: DS 1533-15324) . Tuy nhiên, theo lời Chúa phán:
"Cứ xem họ sinh hoa quả nào th́ biết họ là
ai" (Mt 7,20) , việc nh́n xem các ân huệ của Thiên Chúa
trong đời sống chúng ta và trong đời sống các
thánh, cống hiến cho chúng ta một bảo đảm
rằng ân sủng đang hoạt động trong chúng ta và
khuyến khích chúng ta tiến tới một đức tin
lớn mạnh hơn, và một thái độ nghèo khó
đầy tín thác.
"Một trong những minh họa
đẹp nhất của thái độ này là câu trả
lời của thánh nữ Gio-a-na thành Ars trước
một câu hỏi gài bẫy của các quan ṭa: "Khi
bị hỏi: cô biết ḿnh có ân nghĩa với Chúa không;
Người trả lời: "nếu tôi chưa có, xin
Chúa ban cho tôi, nếu tôi có rồi, xin Chúa thương ǵn
giữ tôi trong ân nghĩa Người" (T.Gio-a-na thành Ars)
.
III. CÔNG PHÚC
"Chúa
được tôn vinh nơi cộng đồng chư
thánh, v́ khi tuyên dương công trạng của họ, Chúa
tuyên dương ân sủng của Người" (x. Sách lễ
Rô-ma, tiền tụng lễ các thánh, dựa theo lời
của thánh Âu-tinh, vị tiến sĩ về ân sủng, Tv
102,7) .
2006 (1723 1807) Cộng
đoàn hay tập thể phải "trả công" cho
hành động của một thành viên: thưởng khi có
công, phạt khi có tội. Đây là đ̣i hỏi của
đức công b́nh v́ phù hợp với nguyên tắc b́nh
đẳng. Hành động đáng thưởng
được gọi là "công trạng" của
một người.
2007 (42) Theo
đúng nghĩa, con người không có công trạng ǵ
trước mặt Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con
người có một sự chênh lệch vô tận, v́
tất cả những ǵ chúng ta có đều nhận
được từ Đấng Sáng Tạo.
2008 (306 155 .970)
V́) Thiên Chúa đă tự do an bài cho con người
cộng tác với ân sủng nên trong cuộc sống,
người ki-tô hữu có thể lập được
công trạng trước mặt Thiên Chúa. Khởi
điểm cho sự cộng tác này luôn là hành động
của Thiên Chúa là Cha, Đấng thôi thúc con người hành
dộng tự do đến mức có thể nói, công
trạng đầu tiên thuộc về ân sủng của
Thiên Chúa, sau đó mới qui về người tín hữu.
Hơn nữa, công trạng của con người phải
qui về Thiên Chúa, v́ những việc lành của họ
xuất phát từ Đức Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần
gợi hứng và trợ lực.
2009 (604) Khi
nhận chúng ta làm nghĩa tử, Thiên Chúa cho chúng ta thông
hiệp bản tính của Người. Ơn nghĩa
tử cũng đem lại cho chúng ta một công trạng
đích thực dựa theo đức công chính nhưng không
của Thiên Chúa. Đây là một quyền xuất phát từ ân
sủng, quyền vô song xuất phát từ t́nh yêu Thiên Chúa
biến chúng ta thành kẻ "đồng thừa
tư" với Đức Ki-tô và xứng đáng lănh nhận
"gia tài đă hứa là đời sống vĩnh
cửu" (Cđ. Tren-tô: DS 1546) . Công trạng các việc
lành của chúng ta là hồng ân do ḷng nhân hậu của Thiên
Chúa. "Ân sủng đă đi bước trước,
giờ đây chúng ta phải đền đáp những ǵ
đă lănh nhận... Công trạng là hồng ân của Thiên
Chúa" (T. Âu-tinh, bài giảng 298,4-5)
2010 (1998) Trên
b́nh diện ân sủng, không ai lập được công
trạng để đáng lănh nhận ân sủng tiên
khởi mở đầu cho các ơn hoán cải, tha
thứ và công chính hóa, v́ sáng kiến là do Thiên Chúa. Sau đó
dưới tác động của Thánh Thần và
đức mến, chúng ta mới có thể lập công
để đáng lănh nhận cho ḿnh và cho tha nhân, những
ân sủng hữu ích cho việc thánh hóa, gia tăng ân
sủng và t́nh yêu, cũng như đạt được
đời sống vĩnh cữu. Theo sự khôn ngoan của
Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể lập công để
đáng lănh nhận những lợi ích trần thế
như sức khỏe, t́nh bạn . Ki-tô hữu vẫn
nguyện xin Thiên Chúa ban cho ḿnh các ân sủng và lợi ích
này. Lời cầu nguyện có thể làm Thiên Chúa
thương, ban ân sủng cần thiết giúp chúng ta
thực hành những việc đáng thưởng công.
2011 (492) T́nh
yêu Đức Ki-tô trong ta là nguồn mọi công trạng
của ta trước mặt Thiên Chúa. Ân sủng kết
hợp chúng ta với Đức Ki-tô trong t́nh yêu năng
động, bảo đảm tính siêu nhiên của các
việc chúng ta làm và do đó bảo đảm công trạng
trước mặt Thiên Chúa và con người. Các thánh luôn ư
thức mănh liệt, công trạng của họ hoàn toàn do ân
sủng.
(1460 ) Sau
cuộc lưu đày trần thế, con hy vọng
được vui hưởng nhan Chúa nơi quê thật
trên trời. Con không muốn thu thập công trạng
để được lên thiên đàng, con làm việc
chỉ v́) t́nh yêu Chúa mà thôi....Cuối cuộc đời
này, con đến tŕnh diện trước mặt Chúa
với đôi bàn tay không, v́, lạy Chúa, con không xin Chúa
đếm các việc con làm. Mọi điều công chính
của chúng con đều mang t́ vết trước nhan
Chúa. Con chỉ ao ước mặc lấy sự công chính
của Chúa và đón nhận từ) t́nh yêu Chúa phần gia
nghiệp đời đời là chính Chúa (
IV. SỰ THÁNH
THIỆN CỦA KI-TÔ HỮU
2012 (459) "Chúng
ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh lợi
ích cho những ai yêu mến Người...V́ những ai
Người đă biết từ trước, th́
Người đă tiền định cho họ nên
đồng h́nh đồng dạng với Con của
Người, để Con của Người làm
trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.
Những ai Thiên Chúa đă tiền định, th́
Người kêu gọi; những ai Người đă kêu
gọi, th́ Người cũng làm cho nên công chính; những
ai Người đă làm cho nên công chính, th́ Người
cũng cho hưởng phúc vinh quang” (x. Rm 8, 28-30) .
2013 (915, 2545 825)
"V́ thế, mọi người đều thấy
rơ ràng, tất cả các ki-tô hữu, bất cứ theo
bậc sống hay địa vị nào, đều
được kêu gọi tiến đến sự viên măn
của đời sống Ki-tô giáo và đến sự
trọn lành của đức mến" (x. LG 40) . Thiên
Chúa mời gọi con người nên thánh: "Anh em hăy nên
hoàn thiện, như Cha của anh em, Đấng ngự trên
trời là Đấng hoàn thiện" (x. Mt 5,48) .
"Để đạt được
sự trọn lành đó, tín hữu phải sử dụng
những sức lực mà Chúa Ki-tô đă ban nhiều ít tùy ư
Người, để... khi thực hành thánh ư Chúa Cha trong
tất cả mọi sự, họ sẽ hết ḷng t́m
vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân. Như thế, sự
thánh thiện của dân Thiên Chúa sẽ sinh hoa trái dồi
dào, như lịch sử Hội Thánh đă từng minh
chứng rơ ràng qua đời sống của bao vị
thánh" (x. LG 40) .
2014 (774) Người
Ki-tô hữu phát triển đời sống thiêng liêng
nhằm kết hiệp ngày càng mật thiết hơn
với Đức Ki-tô. Sự kết hiệp này
được gọi là " thần bí", v́ nhờ các
bí tích và các mầu nhiệm thánh, người tín hữu
được tham dự vào mầu nhiệm Đức Ki-tô,
và trong Đức Ki-tô, họ c̣n được tham dự vào
mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh. Thiên Chúa mời
gọi tất cả chúng ta tới kết hiệp mật
thiết với Người, dù Thiên Chúa chỉ ban những
ân sủng đặc biệt và dấu chỉ ngoại
thường về đời sống thần bí này cho
một số người, để làm nổi bật
những ân sủng Người ban tặng cho tất
cả chúng ta.
2015 (407, 2725 1438)
Con đường tiến đến hoàn thiện
phải ngang qua Thập Giá. Không thể nào đạt
được sự thánh thiện, nếu không có từ
bỏ và chiến đấu nội tâm. Sự tiến
bộ thiêng liêng đ̣i phải có tu luyện và khổ
chế, từng bước giúp người tín hữu
sống trong b́nh an và hoan lạc của các mối phúc
thật.
"Muốn lên cao, phải bắt
đầu lại măi, bắt đầu này tiếp nối
bắt đầu kia. Ai trèo lên sẽ không ngừng mơ
ước điều họ đă biết" (T.
Ghê-gô-ri-ô thành Nit-sê, bài giảng 8)
2016 (162 , 1821 127)
Là con cái của Mẹ Hội Thánh, chúng ta hy vọng
Thiên Chúa là Cha sẽ ban ơn trợ lực giúp chúng ta
bền đỗ đến cùng và ban phần thưởng
cho các việc làm, mà nhờ ân sủng của Người ,
chúng ta đă làm trong sự kết hiệp với Đức
Giê-su. V́ cùng sống theo một quy luật, chúng ta
được chia sẻ "niềm hy vọng hồng
phúc" với những người mà Thiên Chúa nhân hậu
đă quy tụ trong "thành thánh Giê-ru-sa-lem mới từ
trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng
như tân nương trang điểm để đón tân
lang" (Kh 21,2) .
TÓM LƯỢC
2017 Ân sủng
của Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta sự công chính của
Thiên Chúa. Qua đức tin và bí tích Thánh Tẩy, Chúa Thánh
Thần kết hợp chúng ta vào cuộc Khổ Nạn và
Phục Sinh của Đức Ki-tô và cho chúng ta tham dự vào
cuộc sống của Đức Ki-tô.
2018 Cũng
như ơn hoán cải, ơn công chính có hai mặt.
Dưới tác động của ân sủng, con
người quay về với Thiên Chúa và từ bỏ
tội lỗi ; nhờ đó, được Thiên Chúa ban
ơn tha thứ và sự công chính.
2019 Ơn công
chính hóa bao gồm ơn tha thứ tội lỗi, ơn
thánh hóa và canh tân con người nội tâm.
2020 Cuộc
Khổ Nạn của Đức Ki-tô là nguồn ơn công chính
hóa cho mọi người. Ơn này được ban cho
chúng ta qua bí tích Thánh Tẩy, giúp chúng ta sống phù hợp
với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng làm cho ta nên
công chính. Ơn công chính hóa nhằm vào việc tôn vinh Thiên
Chúa, tôn vinh Đức Ki-tô và ban tặng cho ta sự sống
vĩnh cửu. Đây là công tŕnh tuyệt hảo của Thiên
Chúa giàu ḷng thương xót.
2021 Ân sủng
là sự trợ giúp của Thiên Chúa để chúng ta đáp
lại lời mời gọi làm nghĩa tử của
Người. Ân sủng đưa chúng ta vào cuộc
sống thâm sâu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
2022 Trong công
tŕnh của ân sủng, Thiên Chúa có sáng kiến khởi
xướng, chuẩn bị và gợi lên lời đáp
trả tự do của con người. Ân sủng đáp
ứng những khát vọng sâu xa của con người
tự do. Ân sủng kêu gọi con người tự do
cộng tác và kiện toàn sự tự do của họ.
2023 Ơn thánh
hóa là ơn nhưng không, qua đó Thiên Chúa ban cho chúng ta
sự sống của Người. Chúa Thánh Thần ban
ơn này vào linh hồn, để chữa trị tội
lỗi và thánh hóa chúng ta.
2024 Ơn thánh
hóa làm cho chúng ta nên đẹp ḷng Thiên Chúa. C̣n đặc
sủng là những ơn đặc biệt của Chúa
Thánh Thần, qui về ơn thánh hóa, nhằm mưu ích chung
cho Hội Thánh. Thiên Chúa c̣n hành động qua nhiều ân
sủng trợ lực, rất đa dạng, mà chúng ta phân
biệt với thường sủng vẫn hoạt
động nơi chúng ta.
2025 Chúng ta có
lập được công trạng trước mặt Chúa
là do ư định tự do của Người muốn chúng
ta cộng tác vào công tŕnh ân sủng. Công trạng đầu
tiên thuộc về ân sủng của Thiên Chúa, thứ
đến mới tới sự cộng tác của con
người. Công trạng của con người phải
qui về Thiên Chúa.
2026 V́ Thiên Chúa
đón nhận chúng ta làm nghĩa tử, nên ân sủng
của Thánh Thần có thể đem lại cho chúng ta
một công trạng đích thực dựa theo đức
công chính nhưng không của Thiên Chúa. Đức mến trong ta
là cội nguồn chính yếu, để ta có
được công trạng trước mặt Thiên Chúa.
2027 Không ai
lập được công trạng để lănh nhận
ân sủng tiên khởi mở đầu cho hoán cải.
Dưới tác động của Thánh Thần, chúng ta có
thể lập được công trạng cho ḿnh và cho tha
nhân để đón nhận tất cả những ân
sủng hữu ích nhằm đạt tới đời
sống vĩnh cửu, cũng như các lợi ích cần
thiết ở trần gian.
2028 "Mọi
người đều thấy rơ ràng tất cả các ki-tô
hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa
vị nào, đều được kêu gọi tiến
đến sự viên măn của đời sống Ki-tô giáo
và đến sự trọn lành của đức
mến" (x. LG 40) . "Sự trọn lành Ki-tô giáo
chỉ có một giới hạn, đó là không có giới
hạn nào cả" (T. Ghê-gô-ri-ô thành Nit-sê) .
2029 "Ai
muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính ḿnh, vác
thập giá ḿnh mà theo" (Mt 16, 24) .