2566 (296 355 28) Con
người đi t́m Thiên Chúa. Khi sáng tạo, Thiên Chúa kêu
gọi vạn vật từ hư vô bước vào
hiện hữu "Được ban vinh quang vinh dự làm
mũ triều thiên" (x. Tv 8,6) , con người có khả
năng nhận biết "Danh Chúa lẫy lừng trên
khắp địa cầu" (x. Tv 8,2) như trước
đó Thiên Chúa đă ban khả năng cho các thiên thần.
Ngay cả khi đă đánh mất nét giống Thiên Chúa v́
phạm tội, con người vẫn c̣n mang h́nh ảnh
của Đấng Sáng Tạo, vẫn hướng về Đấng
dựng nên ḿnh. Mọi tôn giáo đều nói lên khát vọng
t́m kiếm căn bản này của con người.
2567 (30 142) Thiên
Chúa kêu gọi con người trước. Dù con
người quên lăng Đấng Sáng Tạo hay trốn xa Nhan
Người, dù họ chạy theo các ngẫu tượng
hay than trách Thiên Chúa đă bỏ rơi ḿnh, Thiên Chúa hằng
sống và chân thật vẫn không ngừng kêu gọi
mọi người đến gặp Người cách
huyền nhiệm trong cầu nguyện. Trong cầu
nguyện, Thiên Chúa trung tín và yêu thương luôn đi
bước trước; phần con người luôn
chỉ là đáp lời. Khi Thiên Chúa từng bước
tỏ ḿnh ra và mặc khải cho con người biết
về chính họ, th́ cầu nguyện như là một
cuộc trao đổi lời mời, một diễn
tiến giao ước. Qua lời nói và hành vi, diễn
tiến này là cam kết của con tim. Diễn tiến này
đă diễn ra trong suốt lịch sử cứu
độ.
2568
Con người
nhờ thụ tạo để cầu nguyện
2569 (288 58) Trước
hết, việc cầu nguyện khởi đi từ các
thụ tạo. Chín chương đầu của sách Sáng
Thế mô tả việc cầu nguyện dưới h́nh thức
lễ vật của A-ben "dâng cho Chúa những con
đầu ḷng của bầy chiên" (St 4,4); Ê-nóc "kêu
cầu Danh Đức Chúa và đi với Thiên Chúa" (x. St
4,26; 5,24) . Lễ dâng của Nô-e đẹp ḷng Thiên Chúa và
Thiên Chúa chúc phúc cho ông; qua ông, Thiên Chúa chúc phúc cho toàn thể
vạn vật, v́ tâm hồn ông ngay chính và vẹn toàn:
"Ông đi với Thiên Chúa" (St 6,9). Biết bao
người công chính trong các tôn giáo đă từng cầu
nguyện như vậy.
(59) Trong giao
ước bất diệt với mọi sinh linh, Thiên Chúa
luôn mời gọi con người cầu nguyện.
Nhưng đặc biệt từ tổ phụ Áp-ra-ham,
cầu nguyện mới thực sự được
mặc khải trong Cựu Ước.
Thiên Chúa hứa và con người tin tưởng cầu
nguyện
2570 (145) Ngay
khi được Thiên Chúa kêu gọi, "Áp-ra-ham ra đi,
như Đức Chúa đă phán với ông" (St 12,4): tâm
hồn ông luôn "vâng phục Lời Chúa". Cầu
nguyện thiết yếu là lắng nghe Lời Chúa và
quyết định theo ư Người; các lời kinh
phải giúp con người sống thái độ ấy.
Thoạt đầu, Áp-ra-ham cầu nguyện bằng hành
động: là con người thầm lặng, mỗi
chặng dừng chân ông dựng một bàn thờ kính Chúa.
Măi về sau, ông mới cầu nguyện bằng lời:
một lời than thở kín đáo nhắc Chúa nhớ
đến lời hứa chưa được thực
hiện (St 15,2-3). Như thế, một trong những khía
cạnh đặc biệt của cầu nguyện là con
người bị thử thách về ḷng tin vào Thiên Chúa
trung tín.
2571
2572 (603) Trong
cuộc thanh luyện cuối cùng về đức tin, Thiên
Chúa đă đ̣i Áp-ra-ham, "người đă nhận
được lời hứa" (Dt 10,17), phải sát
tế đứa con mà Thiên Chúa đă ban cho ông. Áp-ra-ham
vẫn vững tin: "Chính Thiên Chúa sẽ lo liệu chiên
làm lễ toàn thiêu" (St 22,8), v́ nghĩ rằng Thiên Chúa có
quyền năng làm cho người chết sống lại
(Dt 11,19). Như thế, vị tổ phụ của các tín
hữu đă xử sự giống như Chúa Cha, Đấng
"chẳng tha chính Người Con Một, nhưng đă
trao nộp v́ hết thảy chúng ta" (Rm 8,32). Nhờ
cầu nguyện, con người lại trở nên
giống Thiên Chúa và được tham dự vào quyền
năng của t́nh yêu Thiên Chúa là quyền năng có sức
cứu độ muôn người.
2573 (162) Thiên
Chúa đă nhắc lại lời hứa với Gia-cóp,
tổ phụ của mười hai chi tộc Ít-ra-en.
Trước khi đối phó với anh là Ê-sau, Gia-cóp đă
vật lộn suốt đêm với một người
huyền bí, người này không chịu nói tên nhưng
đă chúc phúc cho Gia-cóp trước khi bỏ đi lúc b́nh
minh. Truyền thống linh đạo của Hội thánh,
qua câu chuyện này, xem biểu tượng của cầu
nguyện như một cuộc chiến đức tin và
chiến thắng dành cho người kiên tŕ (x. St 32,25-31; Lc
18,1-8).) .
Mô-sê và lời cầu nguyện của vị trung gian
2574 (62) Khi
Thiên Chúa bắt đầu thực hiện lời hứa
với các tổ phụ (cuộc Vượt Qua, Xuất
Hành, ban Lề Luật, kư Giao Ước, lời cầu
nguyện của Mô-sê là h́nh ảnh nổi bật của
lời cầu nguyện chuyển cầu sẽ
được hoàn thành trong Đấng Trung Gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người là Đức Giê-su Ki-tô"
(1Tm 2, 5).
2575 (205) Ở
đây cũng thế, Thiên Chúa đă đi bước
trước. Người gọi Mô-sê từ giữa
Bụi Gai đang cháy (Xh 3,1-10). Biến cố này sẽ là
một trong những h́nh ảnh hàng đầu về
cầu nguyện trong truyền thống linh đạo Do
Thái và Ki-tô giáo. Thực vậy, "Thiên Chúa của Áp-ra-ham,
của I-xa-ác và của Gia-cóp" kêu gọi tôi tớ
Người là Mô-sê, v́ Người là Thiên Chúa Hằng
Sống, Đấng muốn cho con người được
sống. Người tỏ ḿnh ra để cứu họ,
tuy nhiên, Người không muốn hành động một
ḿnh hoặc bất chấp ư kiến con người. V́
thế, Người gọi Mô-sê để sai ông đi,
để ông cộng tác với Thiên Chúa trong việc
thương xót và cứu độ . Để sai ông đi,
gần như Thiên Chúa phải năn nỉ con
người; và sau một hồi tranh luận, Mô-sê mới
thuận theo ư của Thiên Chúa Cứu Độ. Trong cuộc
đối thoại này, Thiên Chúa tỏ ḷng tín nhiệm Mô-sê,
c̣n ông học biết cầu nguyện: ông thoái thác, thắc
mắc, và nhất là đ̣i hỏi. Để đáp ứng yêu
cầu của ông, Thiên Chúa đă cho ông biết Danh Thánh, Danh
sẽ được mặc khải qua các kỳ công trong
lịch sử.
2576 (555) "Đ
ỨC CHÚA đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp
mặt, như hai người bạn với nhau" (Xh
33,11). Cách cầu nguyện của Mô-sê là khuôn mẫu
của việc cầu nguyện chiêm niệm; nhờ
đó, người tôi tớ Thiên Chúa trung thành với
sức mạnh của ḿnh. Ông Mô-sê nói chuyện
thường xuyên và lâu giờ với Chúa: ông lên núi
để lắng nghe và cầu khẩn Người, sau
đó ông xuống với dân để nói lại cho họ
những lời của Thiên Chúa và hướng dẫn
họ. "Nhưng với Mô-sê tôi tớ Ta: tất cả
nhà Ta, Ta đă trao cho nó. Ta nói với nó trực diện, nhăn
tiền" (Ds 12, 7-8), v́ "Mô-sê là người hiền
lành khiêm tốn nhất đời" (Ds 12,3).
2577
Đa-vít và lời
cầu nguyện của vị vua
2578 Kinh
nguyện của Dân Chúa sẽ triển nở dưới
bóng nhà Chúa: Lúc đầu là khám giao ước và sau này là
Đền Thờ. Những người lănh đạo (các
mục tử và các ngôn sứ) là những người
đầu tiên sẽ dạy cho dân biết cầu
nguyện. Cậu bé Sa-mu-en học được nơi bà
mẹ An-na cách ở trước nhan Đức Chúa (1 Sm 1,9-17),
và nơi tư tế Ê-li cách lắng nghe Lời Chúa:
"Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, v́ tôi tớ Ngài đang
lắng nghe" (1 Sm 3,9-10). Sau này, chính Sa-mu-en cũng
biết đến gánh nặng và giá phải trả cho
lời chuyển cầu: "Phần tôi, không đời
nào tôi phạm tội nghịch cùng Đức Chúa, là thôi
cầu nguyện cho anh em và dạy anh em biết
đường ngay nẻo chính" (1 Sm 12, 23).
2579 (709 436) Đa-vít
là vị vua đẹp ḷng Thiên Chúa hơn hết, vị
mục tử cầu nguyện cho dân ḿnh và nhân danh toàn dân.
Ḷng vâng phục thánh ư Thiên Chúa, lời ca ngợi và tâm t́nh
sám hối của Đa-vít sẽ trở thành gương
mẫu cho sự cầu nguyện của dân chúng. Là
người được Thiên Chúa xức dầu, kinh
nguyện của vua là tâm t́nh gắn bó trung tín vào lời
Thiên Chúa hứa, là ḷng tín thác đầy yêu mến và hân hoan
trong Đấng là Đức Vua và Đức Chúa duy nhất (x. 2 Sm
7,18-29). Qua các Thánh Vịnh, chúng ta thấy Đa-vít
được Thánh Thần linh ứng và đă trở thành
vị ngôn sứ hàng đầu của truyền thống
cầu nguyện Do Thái và Ki-tô giáo. Kinh nguyện của
Đức Ki-tô, Đấng Mê-si-a đích thực, Con Đa-vít sẽ mặc
khải và hoàn thành ư nghĩa của kinh nguyện này.
2580 (583) Đền
Thờ Giê-ru-sa-lem, ngôi nhà cầu nguyện Đa-vít định
xây dựng, sẽ được con vua là Sa-lô-mon thực
hiện. Lời nguyện Cung Hiến Đền Thờ (x. 1V
8,10-61) dựa trên Lời Hứa và Giao Ước của
Thiên Chúa, trên sự hiện diện đầy uy lực
của Danh Thánh giữa Dân Người và nhắc lại
những kỳ công Thiên Chúa thực hiện thời
Xuất Hành. Nhà vua dang tay và khẩn cầu Đức Chúa cho
chính ḿnh, cho toàn dân, cho các thế hệ tương lai, xin
Người tha thứ tội lỗi và ban cho họ
những ǵ cần thiết hằng ngày, để muôn dân
nhận biết Người là Thiên Chúa duy nhất và Dân Chúa
hết ḷng kính mến Người.
Ê-li-a, các ngôn
sứ và việc hoán cải tâm hồn
2581 (1150) Đối
với Dân Chúa, Đền Thờ phải là nơi dạy cho
họ biết cầu nguyện: các cuộc hành
hương, các lễ hội, hy tế, lễ dâng ban
chiều, dâng hương, bánh trưng hiến ...Tất
cả là những dấu chỉ về Thiên Chúa thánh thiêng và
vinh quang, rất cao sang nhưng thật gần gũi
với họ ; đồng thời là những lời
mời gọi và những con đường dẫn đến
cầu nguyện. Nhưng thái độ quá chuộng nghi
lễ thường dẫn dân chúng đến một cách
thờ phượng quá bề ngoài. Do đó, Dân Chúa cần
được giáo dục đức tin và hoán cải tâm
hồn. Đây là sứ mạng của các ngôn sứ
trước và sau thời lưu đày.
2582 Ê-li-a là
"tổ phu" của các ngôn sứ, là "ḍng dơi
những kẻ kiếm t́m Người, t́m Thánh nhan Thiên Chúa
nhà Gia-cóp" (x. Tv 24,6) . Danh xưng Ê-li-a có nghĩa
"Đức Chúa là Thiên Chúa của tôi", tiên báo tiếng hô
của dân đáp lại lời cầu nguyện của
Ê-li-a trên núi Các-men (x. 1 V 18, 39tt). Thánh tông đồ Gia-cô-bê
nhắc đến gương Ê-li-a để thúc giục
chúng ta cầu nguyện: "Lời cầu xin tha thiết
của người công chính rất có hiệu lực"
(Gcb 5,16b-18).
2583 Sau khi
học biết xót thương lúc ẩn tích tại
suối Kê-rít, Ê-li-a dạy cho bà góa làng Sa-rép-ta biết tin
vào lời Thiên Chúa và củng cố đức tin của bà
khi khẩn nguyện xin Thiên Chúa cho con trai bà sống
lại; và Người đă nhậm lời (1V 17,7-24).
(696) Cuộc
tế lễ trên núi Các-men là thử thách quyết
định niềm tin của Dân Thiên Chúa. Theo lời
khẩn cầu của Ê-li-a: "xin đáp lời con,
lạy Chúa xin đáp lời con", Thiên Chúa cho lửa
từ trời xuống thiêu hủy lễ toàn thiêu, "vào
giờ người ta hiến dâng của lễ ban
chiều". Các nghi lễ phụng tự Đông Phương
dùng lời khẩn cầu này trong "lời nguyện xin
ban Thánh Thần" của thánh lễ (1 V 18,20-39).
(555) Sau cùng,
Ê-li-a trở lại hoang mạc, đến nơi Thiên Chúa
hằng sống và chân thật đă tỏ ḿnh ra cho Dân
Người, để ẩn ḿnh "trong hốc
đá" như Mô-sê ngày xưa, cho tới khi Nhan Thánh
nhiệm mầu của Thiên Chúa "đi qua" (x. 1 V
19,1-14; Xh 33, 19-23; Lc 9,30-35) . Nhưng chỉ trên núi Hiển
Dung, Tôn Nhan của Đấng các ngài luôn t́m kiếm mới
được tỏ lộ "Ánh sáng chiếu soi ḷng trí
ta nhận biết Vinh Quang Thiên Chúa rạng ngời trên
gương mặt Đức Ki-tô" (2 Cr 4,6), Đấng đă
chịu đóng đinh và đă sống lại.
2584 (2709) Trong
những lúc "một ḿnh trước Tôn Nhan Thiên
Chúa", các ngôn sứ t́m được ánh sáng và sức mạnh
để thực hiện sứ mạng. Khi cầu
nguyện, các ngài không chạy trốn thế giới
bất trung nhưng lắng nghe Lời Thiên Chúa; đôi khi
các ngài tranh luận hay than thở với Chúa, nhưng luôn
chuyển cầu cho Dân, trong khi chờ đợi và
chuẩn bị cho Thiên Chúa Cứu Độ, can thiệp vào (Am
7, 2.5) (x. Is 6,5.8.11; Gr 1,6; 15,15-18; 20, 7-18) .
Các Thánh Vịnh,
lời cầu nguyện của cộng đoàn
2585 (1093) Từ
thời Vua Đa-vít cho đến khi Đấng Mê-si-a tới,
những bản văn cầu nguyện trong Sách Thánh
chứng tỏ lời cầu nguyện cho chính ḿnh và cho tha
nhân ngày càng sâu sắc hơn (x. Ed 9,6-15; Nh 1,4-11; Gn 2,3-10; Tb
3,11-16; Gđt 9,2-14) . Dần dần các Thánh Vịnh
được thâu tập thành một bộ năm
cuốn: đó là sách Thánh Vịnh (hay những bài ca
ngợi), tuyệt tác cầu nguyện trong Cựu
Ước.
2586 (1177) Các
Thánh Vịnh nuôi dưỡng và diễn tả tâm t́nh
cầu nguyện của Dân Chúa là cộng đoàn, qui tụ
vào các dịp đại lễ tại Giê-ru-sa-lem và mỗi
ngày sa-bát trong các hội đường. Kinh nguyện này
vừa có tính cá nhân vừa có tính cộng đoàn, vừa
liên hệ với những người đang cầu
nguyện vừa liên hệ đến toàn thể mọi
người. Các Thánh Vịnh vang lên từ Thánh Địa và các
cộng đoàn Do Thái tản mác khắp nơi nhưng
lại bao trùm toàn thể thụ tạo ; nhắc lại
các biến cố cứu độ trong quá khứ và
vươn đến ngày hoàn tất lịch sử;
nhắc nhớ Thiên Chúa đă thực hiện những
lời hứa thế nào, đồng thời chờ
đợi Đấng Mê-si-a đến hoàn tất trọn
vẹn. Được Đức Ki-tô sử dụng để
cầu nguyện và kiện toàn, các Thánh Vịnh luôn luôn
chiếm vị trí thiết yếu đối với kinh
nguyện của Hội Thánh (IGLH 100-109).
2587 (2641) Tập
Thánh Vịnh là cuốn sách đặc biệt: Lời Chúa
trở thành lời cầu nguyện của con
người. Trong các sách khác của bộ Cựu
Ước, các lời công bố những việc Thiên Chúa
thực hiện trong lịch sử cứu độ... và
giúp khám phá mầu nhiệm chứa đựng trong các
biến cố đó (x. DV 2). C̣n các lời Thánh Vịnh
vừa diễn tả vừa ca tụng những công tŕnh
cứu độ của Thiên Chúa. Cùng một Thánh Thần
đă tạo nên công tŕnh của Thiên Chúa và lời đáp
trả của con người. Đức Ki-tô sẽ hiệp
nhất cả hai thành một. Trong Người, các Thánh Vịnh
không ngừng dạy ta cầu nguyện.
2588 Những
lời cầu nguyện đa dạng của tập Thánh
Vịnh được h́nh thành từ phụng tự
Đền Thờ, cũng như từ trái tim con người.
Dù là những thánh thi, lời kêu cầu trong cơn nguy
khốn hay bài ca tạ ơn, lời khẩn cầu cá nhân
hay cộng đoàn, bài ca cung đ́nh và khúc hát hành
hương, hoặc bài suy niệm giáo huấn, các Thánh
Vịnh luôn là tấm gương phản chiếu những
kỳ công Thiên Chúa đă thực hiện trong lịch
sử Dân Người và những hoàn cảnh nhân sinh tác
giả đă trải qua. Dù một Thánh Vịnh có thể
phản ánh một biến cố đă qua, nhưng vẫn
b́nh dị đến nỗi con người mọi
thời, mọi hoàn cảnh, đều có thể dùng
để cầu nguyện.
2589 (304) Qua các
Thánh Vịnh, chúng ta gặp thấy những đặc
điểm: lời cầu nguyện đơn sơ và
tự phát, ḷng khao khát Thiên Chúa qua và với tất cả
những ǵ tốt đẹp trong vũ trụ, hoàn
cảnh khó khăn của người tín hữu muốn
yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự nhưng phải
đối diện với bao thử thách và địch thù
nhưng vẫn chờ đợi Thiên Chúa trung tín ra tay hành
động, ḷng xác tín vào t́nh yêu Thiên Chúa và phó thác theo thánh ư
Người. Lời cầu nguyện trong tập Thánh
Vịnh luôn sinh động nhờ tâm t́nh ca ngợi nên
tập sách này có một tên gọi rất thích hợp
với nội dung: "Những bài ca ngợi".
Được sưu tập để dùng trong phụng
vụ của Cộng đoàn, các Thánh Vịnh vang lên
lời mời gọi cầu nguyện đồng thời
hát lên lời đáp: Halleluia, "Hăy ngợi khen Chúa".
"C̣n ǵ tốt đẹp hơn một Thánh vịnh?
Bởi vậy vua Đa-vít đă nói rất đúng rằng:
"Hăy ngợi khen Chúa v́ Thánh Vịnh thật tuyệt
vời: hăy dâng lời ngợi khen êm dịu và hân hoan lên
Thiên Chúa chúng ta". Đúng thế, Thánh Vịnh là lời chúc
tụng trên môi Dân Chúa, là lời cộng đoàn ngợi khen
Thiên Chúa, lời tung hô của muôn người, lời
của muôn loài, tiếng nói của Hội Thánh, lời tuyên
xưng đức tin đầy giai điệu..."
(T.Am-rô-xi-ô, Luận về Thánh vịnh 1,9).
TÓM LƯỢC
2590 Cầu
nguyện là nâng tâm hồn lên Chúa hay cầu xin Người
ban cho những ơn cần thiết (T. Gio-an Đa-mát-xa) .
2591 Thiên Chúa
không ngừng kêu gọi mỗi người đến
gặp Người cách huyền nhiệm trong cầu
nguyện. Suốt ḍng lịch sử cứu độ,
chúng ta thấy cầu nguyện như lời Thiên Chúa và con
người mời gọi nhau.
2592 Thánh Kinh
tŕnh bày việc Áp-ra-ham và Gia-cóp cầu nguyện như
một cuộc chiến đức tin để giữ
ḷng tín thác vào Thiên Chúa trung thành và xác tín rằng Người
sẽ ban chiến thắng cho kẻ kiên tŕ.
2593 Lời
nguyện của Mô-sê đáp lại sáng kiến của Thiên
Chúa hằng sống muốn cứu độ Dân
Người. Đây là h́nh ảnh báo trước lời
chuyển cầu của Đấng Trung Gian duy nhất là
Đức Giê-su Ki-tô.
2594 Nhờ các
vị mục tử, đặt biệt là vua Đa-vít, và các
ngôn sứ hướng dẫn, kinh nguyện của Dân Chúa
được triển nở dưới bóng nhà Chúa, lúc
đầu là Khám Giao ước và sau này là Đền Thờ.
2595 Các ngôn
sứ kêu gọi dân chúng hoán cải tâm hồn. Như Ê-li-a,
trong khi nhiệt thành t́m kiếm thánh nhan Thiên Chúa, các ngài
vẫn chuyển cầu cho toàn dân.
2596 Các Thánh
Vịnh là tuyệt tác về cầu nguyện trong Cựu
Ước, vừa có tính cá nhân vừa có tính cộng
đoàn. Các Thánh Vịnh bao trùm mọi chiều kích của
lịch sử: nhắc nhớ Thiên Chúa đă thực
hiện lời hứa như thế nào và nói lên niềm hy
vọng vào Đấng Mê-si-a sẽ ngự đến.
2597
Được Đức Ki-tô sử dụng để cầu
nguyện và kiện toàn, các Thánh Vịnh là một thành
phần thiết yếu và luôn có mặt trong kinh nguyện
của Hội Thánh Người. Các Thánh Vịnh có thể
dùng làm lời cầu nguyện cho con người mọi
thời, mọi hoàn cảnh.
dâng trọn bản thân trong
ḷng tin.