2598
"Ngôi
Lời đă làm người và ở giữa chúng ta"
đă mặc khải trọn vẹn về cầu
nguyện. Khi t́m hiểu Chúa Giê-su cầu nguyện qua
những ǵ các nhân chứng kể lại trong Tin Mừng,
chúng ta được đến gần Chúa Giê-su Cực
Thánh như Mô-sê đến gần Bụi Gai Rực Cháy:
trước tiên chúng ta cùng chiêm ngưỡng Người
cầu nguyện, rồi lắng nghe Người dạy ta
cầu nguyện, và sau cùng, để nhận biết cách
Người nhận lời cầu nguyện của chúng
ta.
Đức Giê-su
cầu nguyện
2599 (470-473 534) Con Một Thiên Chúa, một
khi trở thành Con Đức Trinh Nữ, đă học cầu
nguyện theo tâm t́nh nhân loại, Đức Giê-su đă học
những công thức cầu nguyện nơi Mẹ là
người hằng ghi nhớ và luôn suy niệm trong ḷng
về "những điều cao cả Đấng Toàn
Năng đă thực hiện (Lc 1,49; 2,19; 2,51) .
Người đă học từ những lời kinh và
những cách thức cầu nguyện của dân tộc,
tại hội đường Na-da-rét và tại Đền
Thờ. Nhưng kinh nguyện của Người c̣n phát
xuất từ một nguồn mạch bí ẩn khác, như
Người đă hé mở cho thấy lúc Người lên
mười hai tuổi: "Con có bổn phận ở nhà
Cha của con" (Lc 2,49). Từ đây
chúng ta được biết nét mới mẻ của kinh
nguyện trong "thời kỳ viên măn": là lời
cầu của Người Con, lời kinh mà Chúa Cha hằng
mong đợi nơi con cái ḿnh, và sau cùng được
chính Người Con Một duy nhất thể hiện trong nhân
tính với con người và cho mọi người.
2600 (535 554,612 858, 443) Tin Mừng theo thánh Lu-ca
nhấn mạnh tác động của Thánh Thần và ư
nghĩa cầu nguyện trong thừa tác vụ của
Đức Ki-tô. Đức Giê-su cầu nguyện trước những
thời điểm quyết định của sứ
vụ: trước khi Chúa Cha làm chứng về
Người lúc Người chịu phép rửa (x. Lc 3,21) và Hiển Dung (x. Lc 9,28) ; trước khi
hoàn thành ư định yêu thương của Chúa Cha nhờ
cuộc khổ nạn. Người cũng cầu
nguyện trước những thời điểm
quyết định đối với sứ vụ
của các tông đồ: trước khi chọn và gọi
nhóm Mười Hai (x. Lc 6,12) ;
trước khi Phê-rô tuyên xưng Người là "Đức
Ki-tô của Thiên Chúa" (x. Lc 9,18-20) ; và cầu nguyện
cho vị thủ lănh các tông đồ khỏi mất ḷng
tin (x. Lc 22,32) . Khi cầu nguyện
trước các biến cố cứu độ mà Chúa Cha
trao phó cho Người thực thi, Đức Giê-su khiêm tốn
và tin tưởng ḥa hợp ư chí nhân loại của ḿnh
với thánh ư yêu thương của Chúa Cha.
2601 (2765) "Một hôm, Đức Giê-su
cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu
nguyện xong, có một người trong nhóm môn đệ
nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng
con cầu nguyện" (Lc 11,1). Khi nh́n Thầy ḿnh cầu nguyện, người
môn đệ của Đức Ki-tô cũng muốn cầu
nguyện, và học cầu nguyện với Thầy.
Chính khi chiêm ngưỡng và lắng nghe Chúa Con, con cái Thiên
Chúa học biết cầu khẩn Chúa Cha.
2602 (616) Đức Giê-su thường vào
nơi thanh vắng để cầu nguyện một ḿnh
trên núi, thường là vào ban đêm. V́ đă làm
người khi Nhập Thể, Đức Giê-su "mang
lấy mọi người" trong lời cầu
nguyện và dâng nhân loại lên Chúa Cha khi hiến dâng chính
ḿnh. Ngôi Lời "đă làm Người"
đưa tất cả những ǵ "anh em
Người" đang sống vào lời cầu
nguyện (Dt 2, 12). Người đă
cảm thông được những yếu đuối
của họ để giải thoát họ. Chính v́
thế Chúa Cha đă cử Người đến (x. Dt 2,15; 4,15) . Những lời nói và
việc làm của Người bộc lộ những ǵ
Người cầu nguyện trong thầm kín.
2603 (2637 2546 494) Các tác giả Tin Mừng ghi
lại hai lần Chúa Giê-su cầu nguyện rơ tiếng trong
thời kỳ Người rao giảng. Cả
hai đều khởi đầu bằng lời tạ
ơn. Trong lời nguyện thứ nhất (x. Mt
11,25-27; Lc 10,21-23), Đức Giê-su tuyên xưng, nh́n nhận và
chúc tụng Chúa Cha "v́ điều Chúa Cha đă giấu
không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết, th́ Cha lại
mặc khải cho những người bé mọn"
(những người nghèo khó theo các mối phúc). Lời
thưa "Vâng, lạy Cha" bộc lộ những ǵ
tận đáy ḷng Người, bộc lộ ước
muốn "làm đẹp ḷng Cha", như vọng
lại tiếng "xin vâng" của mẹ Người
ngày thụ thai và như khúc dạo đầu cho lời
Người sẽ dâng lên Cha trong cơn hấp hối. Toàn
thể kinh nguyện của Đức Giê-su đều
chất chứa tâm t́nh gắn bó yêu thương đối
với "mầu nhiệm thánh ư Cha" (Ep 1,9),
bằng cả trái tim con người của ḿnh.
2604 (478) Lời kinh thứ hai
được thánh Gio-an lưu truyền cho chúng ta.
Trước khi cho La-da-rô sống lại, "Đức Giê-su
ngước mắt lên và nói: Lạy Cha, con cảm tạ
Cha, v́ Cha đă nhận lời con". Lời
cám ơn đi trước biến cố chứng tỏ
Chúa Cha luôn nghe lời cầu xin của Người.
Ngay sau đó, Đức Giê-su thêm: "Con biết Cha hằng
nhận lời Con"; lời này cho thấy Đức Giê-su
vẫn luôn cầu nguyện với Cha, lời cầu
nguyện đầy tâm t́nh tạ ơn của Đức
Giê-su dạy ta cách cầu xin: trước khi
được nhận ơn, Đức Giê-su đă gắn bó
với Đấng ban ơn, cũng là Đấng ban chính ḿnh qua
các hồng ân. Đấng ban ơn th́ quư trọng
hơn ơn được ban. Người
là "kho báu" đích thực và ḷng Chúa Con luôn
hướng về Người. Hồng ân chỉ là điều "được
ban thêm".
2746
Lời
nguyện "tư tế" của Đức Giê-su có
một vị trí độc đáo trong nhiệm cục
cứu độ (chúng ta sẽ suy niệm ở cuối
đoạn thứ nhất). Lời nguyện
này cho thấy kinh nguyện của Đức Ki-tô
Thượng Tế luôn là lời cầu nguyện của
ngày hôm nay; đồng thời cũng dạy ta cách cầu
nguyện cùng Chúa Cha (vấn đề sẽ bàn đến
ở đoạn thứ hai).
2605 (614) Khi
đến giờ Người phải chu toàn ư định
yêu thương của Chúa Cha, Đức Giê-su hé mở cho
thấy chiều sâu khôn ḍ trong kinh nguyện của
người con, không chỉ trước khi tự
nguyện hiến ḿnh. ("Lạy Cha... xin đừng làm
theo ư Con, mà xin theo ư Cha" (x. Lc 22,42)); mà
ngay cả trong những lời cuối cùng của
Người trên thập giá, khi cầu nguyện và tự
hiến chỉ c̣n là một. ("Lạy Cha, xin tha cho
họ, v́ họ không biết việc họ làm....Tôi bảo
thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với
tôi trên thiên đàng" (x. Lc 23,34;24,43) ; "Thưa Bà,
đây là con của Bà...Đây là Mẹ của anh...Tôi khát" (x.
Ga 19,26.27.28) ; "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao
Chúa nỡ bỏ con" (x. Mc 15,34; Tv 22,2) ; "Mọi
sự đă hoàn tất" (x. Ga 19,30) ; "Lạy Cha, con
xin phó thác hồn con trong tay Cha" (Lc 23, 46); kể cả
"tiếng kêu lớn" của Người khi trút
hơi thở (x. Mc 15,37; Ga 19, 30b)
2606 (403
Thư Do Thái dùng những lời tha thiết để
diễn tả cách Đức Giê-su đem lại chiến
thắng cứu độ:
Khi c̣n sống kiếp phàm
nhân Đức Giê-su đă lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng
lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền
cứu Người khỏi chết. Thiên
Chúa đă nhận lời Người, v́ Người đă
tôn kính Thiên Chúa. Dầu là Con Thiên Chúa, Người
đă trải qua nhiều đau khổ mới học được
thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đă tới
mức thập toàn, Người đă trở nên nguồn
ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng
phục người"(Dt 5,7-9).
Đức Giê-su
dạy cầu nguyện
2607 (520) Khi Đức Giê-su cầu
nguyện, Người đă dạy ta cầu nguyện.
Cách Đức Giê-su cầu nguyện với Cha bằng tin
cậy mến là mẫu mực cho chúng ta cầu nguyện
với Thiên Chúa. Ngoài ra, Tin Mừng c̣n ghi lại cho chúng ta
một lời dạy rơ ràng của Đức Giê-su về
cầu nguyện. Với tài sư phạm,
Người bắt đầu từ t́nh trạng hiện
tại của chúng ta, để từng bước
dẫn chúng ta đến cùng Chúa Cha. Khi nói với
đám đông dân chúng đang theo
Người, Người bắt đầu từ
những ǵ họ đă biết về cầu nguyện theo
Cựu Ước, rồi mở ra cho họ thấy nét
mới mẻ của Nước Trời đang
đến. Kế đó, Người mặc
khải cho họ nét mới này qua các dụ ngôn. Sau cùng, đối với các môn đệ là
những người sẽ phải dạy cầu
nguyện trong Hội Thánh, Người nói rơ về Chúa Cha
và Chúa Thánh Thần.
2608 (541,1430) Ngay
từ Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su đă nhấn
mạnh đến việc hoán cải tâm hồn: phải
làm ḥa với anh em trước khi đến dâng lễ
vật trên bàn thờ (x. Mt 5, 23-24) phải yêu thương
kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ bách hại ḿnh (x. Mt
5, 44-45) phải "cầu nguyện cùng Chúa Cha, Đấng
hiện diện nơi kín đáo" (x. Mt 6, 6) ; khi cầu
nguyện đừng lải nhải nhiều lời (x. Mt
6, 7) thật ḷng tha thứ cho tha nhân (x. Mt 6, 14-15) , giữ
tâm hồn trong sạch và lo t́m kiếm Nước Trời (x.
Mt 6, 21.25.33) . Cuộc hoán cải này hoàn toàn hướng
về Chúa Cha, đượm t́nh con thảo.
2609 (153,1814) Khi ḷng ḿnh đă quyết tâm hoán
cải, con người sẽ học biết cầu
nguyện trong đức tin. Tin là gắn bó
với Thiên Chúa bằng t́nh con thảo, vượt trên
những ǵ thuộc giác quan và nhận thức. Chúng ta
được như thế v́ Con yêu dấu của Thiên
Chúa đă mở đường cho ta đến cùng Chúa
Cha. Chúa Con có quyền đ̣i chúng ta phải "t́m
kiếm" và "gơ cửa", v́ chính Người là
cửa và là đường (Mt 7, 7-11.13-14).
2610 (165) Đức Giê-su đă cầu
nguyện và cảm tạ Chúa Cha trước khi nhận
được ơn, Người cũng dạy cho chúng ta
dạn dĩ như người con: "Tất cả
những ǵ anh em xin khi cầu nguyện, anh em cứ tin là
ḿnh đă được rồi" (Mc 11, 24). Đó chính là
sức mạnh của lời cầu nguyện: "cái ǵ
cũng có thể, đối với người có ḷng
tin" (Mc 9,23); sức mạnh của
một đức tin "không chút nghi nan" (Mt 21, 22).
Đức Giê-su đă rất buồn khi thấy "đám bà
con thân thuộc Người ... không chịu tin" (Mc 6, 6),
và thấy các môn đệ "kém ḷng tin" (Mt 8, 26). Trái
lại người thán phục trước "ḷng tin
mạnh mẽ" của viên sĩ quan Rô-ma và người
phụ nữ xứ Ca-na-an (Mt 8,10; 15,28).
2611 (2827) Kinh nguyện của
người tín hữu không chỉ là thưa: "Lạy
Chúa, Lạy Chúa", nhưng chính là sẵn ḷng thi hành thánh ư
Chúa cha (Mt 7, 21). Đức Giê-su dạy các môn
đệ cầu nguyện với tâm t́nh muốn cộng
tác với thánh ư Chúa (x. Mt 9, 38; Lc 10, 2; Ga 4, 34).
2612
2613 (546) Thánh Luca ghi lại cho chúng ta
ba dụ ngôn chính về cầu nguyện:
·
Dụ
ngôn thứ nhất, "người bạn quấy
rầy" (Lc 11,5-13), dạy chúng ta kêu
cứu "Anh em cứ xin th́ sẽ được,...,
cứ gơ cửa th́ cửa sẽ mở ra". Khi một
người kêu cứu như vậy, Cha Trên Trời
"sẽ ban cho tất cả những ǵ anh em cần
đến", nhất là Người sẽ ban tặng
Thánh Thần, kho tàng mọi hồng ân.
·
Dụ
ngôn thứ hai, "Bà góa quấy rầy" (Lc 18,1-8), chú
trọng đến một đặc tính của cầu
nguyện: "phải cầu nguyện luôn, không
được nản chí", với đức tin
nhẫn nại". Nhưng khi Con Người ngự
đến, liệu Người c̣n thấy ḷng tin trên
mặt dất nữa chăng?" (
·
2559)-
Dụ ngôn thứ ba, "Người Pha-ri-sêu và
người thu thuế"(Lc 18,9-14), dạy chúng ta
phải khiêm cung khi cầu nguyện "Lạy Thiên Chúa,
con là kẻ tội lỗi, xin thương xót con".
Lời cầu này đă được Hội Thánh nhận
làm của ḿnh và không ngừng lặp lại: " xin Chúa
thương xót chúng con".
2614 (434) Lúc
dạy các môn đệ phải cầu nguyện với
Chúa Cha, Đức Giê-su đă dạy các ngài và cả chúng ta cách
cầu nguyện như thế nào một khi Người
về cùng Chúa Cha trong Nhân Tính vinh quang. Từ đây sẽ
có một điểm mới là: "nhân danh Thầy mà
cầu xin" (Ga 14,13). Tin vào Người, các môn đệ
sẽ nhận biết Chúa Cha, v́ "chính Thầy là Con
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga
14,6). Đức tin này sẽ trổ sinh những hoa trái trong
đức mến: giữ Lời Người, giữ các
điều răn của Người, ở lại
với Người trong Chúa Cha là Đấng yêu mến chúng ta
trong Người đến độ ở lại với
chúng ta. Trong Giao Ước mới này những lời
khẩn cầu của chúng ta chắc chắn sẽ
được Chúa Cha nhận lời v́ dựa trên lời
cầu khẩn của Đức Giê-su (Ga 14, 13-14).
2615 (728) Hơn
nữa, khi chúng ta hiệp nhất lời nguyện của
ḿnh với lời cầu của Đức Giê-su, Chúa Cha
"sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác,
đến ở với anh em luôn măi. Đó là Thánh Thần Chân
Lư" (Ga 14,16-17). Nét mới mẻ này và các điều
kiện cần có khi cầu nguyện được
Đức Giê-su đề cập đến trong diễn
từ cáo biệt của Người (x. Ga 14, 23-26; 15, 7.16;
16, 13-15; 16, 23-27). Trong Thánh Thần, kinh nguyện Ki-tô giáo là
hiệp thông đầy yêu thương với Chúa Cha, không
chỉ nhờ Đức Ki-tô mà c̣n trong Người: "Cho
đến bây giờ, anh em đă chẳng xin ǵ nhân danh
Thầy. Anh em cứ xin th́ sẽ được trọn
vẹn" (Ga,16,24).
Đức Giê-su
nhận lời cầu nguyện
2616
Thánh Âu-tinh đă khéo léo tóm tắt ba chiều kích trong kinh
nguyện của Đức Giê-su: "Người cầu
nguyện cho chúng ta với tư cách là Đầu; Người
được chúng ta kêu cầu với tư cách là Thiên
Chúa. Vậy chúng ta phải nhận biết tiếng của
chúng ta trong Người và tiếng của Người trong
chúng ta" (x. Tv 85,1; x. IGLH 7) .
Kinh nguyện
của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a
2617 (148 494 409)
Chúng ta được biết Đức Ma-ri-a cầu
nguyện vào lúc b́nh minh của thời Viên Măn. Trước
khi Con Thiên Chúa nhập thể và trước khi Chúa Thánh
Thần hiện xuống, lời cầu nguyện của
Mẹ đă cộng tác một cách độc đáo vào
kế hoạch nhân hậu của Chúa Cha, trong ngày Truyền
Tin để Đức Ki-tô mặc lấy xác phàm (x. Lc 1, 38) và
trong ngày lễ Ngũ Tuần để h́nh thành Hội
Thánh là Thân Thể Đức Ki-tô (x. Cv 1, 14) . Trong ḷng tin
của người nữ tỳ khiêm cung này, Hồng Ân
Thiên Chúa đă được tiếp nhận xứng
đáng, sự tiếp nhận Người đă chờ
đợi từ thuở khai thiên lập địa. Con
người được Đấng Toàn Năng ban
"đầy ân sủng" này đă đáp lại
bằng việc hiến dâng trọn xác hồn: "Này tôi
là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi như lời
sứ thần nói". Lời "Xin Vâng" chính là kinh
nguyện Ki-tô giáo: xin dâng tất cả cho Chúa v́ Chúa là
tất cả đối với chúng ta.
2618 (2674 726) Tin
Mừng cho chúng ta thấy Đức Ma-ri-a đầy tin
tưởng khi cầu nguyện và chuyển cầu cho
những người khác: tại Ca-na (x. Ga 2,1-12) , Mẹ
đă xin Đức Giê-su lo đến nhu cầu của
bữa tiệc cưới, đây là dấu chỉ về
một Bữa Ăn khác, bữa tiệc cưới
của Chiên Con hiến Ḿnh và Máu theo lời xin của
Hiền Thê là Hội Thánh. Trong giờ Giao Ước
Mới, dưới chân thập giá (x. Ga 19, 25-27) , Đức
Ma-ri-a đă được nhận lời như
Người Phụ Nữ, bà E-và mới, người
mẹ đích thực của chúng sinh.
2619 (724) Do
đó, bài ca của Đức Ma-ri-a (x. Lc 1, 46-55) (bài Magnificat
theo La-tinh hay Megalynei theo Hy-lạp) vừa là bài ca của
Mẹ Thiên Chúa vừa là bài ca của Hội Thánh, bài ca
của Thiếu Nữ Xi-on và của Dân Mới, bài ca
tạ ơn v́ muôn ngàn hồng ân Thiên Chúa đă ban cho con
người trong nhiệm cục cứu độ, bài ca
của "những người nghèo" thấy hy
vọng của ḿnh trở thành hiện thực v́ Thiên Chúa
đă thi hành "như đă hứa cùng cha ông chúng ta, v́
Người nhớ lại ḷng thương xót dành cho
tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn
đời".
TÓM LƯỢC
2620 Trong Tân
Ước, khuôn mẫu tuyệt hảo của cầu
nguyện là lời cầu nguyện đầy t́nh con
thảo của Đức Giê-su. Người thường
cầu nguyện nơi vắng vẻ, kín đáo. Kinh
nguyện của Người đầy tâm t́nh gắn bó
yêu thương, vâng phục thánh ư Chúa Cha dù phải chấp
nhận Thập Giá, và tuyệt đối tin tưởng
là ḿnh sẽ được nhận lời.
2621 Đức
Giê-su đă dạy các môn đệ cầu nguyện với
tâm hồn trong sạch, một đức tin sống
động và kiên tŕ, một sự dạn dĩ của
người con . Người kêu gọi họ tỉnh
thức và muốn họ dâng những lời khẩn
cầu lên Thiên Chúa nhân danh Người. Chính Đức Giê-su
Ki-tô cũng nhận lời chúng ta cầu xin.
2622 Kinh nguyện của Đức Ma-ri-a, trong lời Xin Vâng và bài ca Ngợi Khen, làm nổi bật tâm t́nh hiến