2623 (731) Ngày lễ Ngũ Tuần,
Chúa Thánh Thần được ban xuống cho các môn
đệ "đang tề tựu ở một
nơi" (Cv 2,1), "tất cả các ông đều đồng
tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện" để
chờ đón Người (Cv 1, 14). Chúa Thánh Thần là
Ðấng dạy dỗ Hội Thánh và làm cho Hội Thánh
nhớ lại mọi điều Ðức Giê-su đã nói (x.
Ga 14,26) , Người cũng dạy cho
Hội Thánh cầu nguyện.
2624 (1342) Trong cộng đoàn tiên
khởi tại Giê-ru-sa-lem, các tín hữu "chuyên cần
nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông
với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và
cầu nguyện không ngừng"(Cv 2,42). Ðây là thứ
tự điển hình của kinh nguyện Hội Thánh trên
nền tảng đức tin tông truyền, được
chứng thực bằng bác ái huynh đệ,
được nuôi dưỡng nhờ Thánh Thể.
2625 (1092 1200) Trước
hết, các tín hữu nghe và đọc lại những kinh
nguyện trong Sách Thánh, nhưng trong bối cảnh mới
là đã được hoàn tất trong Ðức Ki-tô (Lc 24,
27.44), nhất là các Thánh Vịnh. Chúa Thánh Thần, Ðấng
nhắc lại mầu nhiệm Chúa Ki-tô cho Hội Thánh
đang cầu nguyện, cũng dẫn đưa Hội
Thánh vào Chân Lý trọn vẹn và khởi hứng những
mẫu kinh mới để diễn tả mầu
nhiệm khôn dò thấu về Chúa Ki-tô, Ðấng đang
hoạt động trong cuộc sống, trong các bí tích và
trong sứ vụ của Hội Thánh. Những
mẫu kinh này sẽ được phát triển trong các
truyền thống phụng vụ và linh đạo chính.
Những hình thức kinh nguyện
được lưu truyền trong các văn phẩm chính
lục của các tông đồ, sẽ mãi mãi là chuẩn
mực cho kinh nguyện Ki-tô giáo.
I. CHÚC TỤNG VÀ
THỜ LẠY
2626 (1078) Thiên Chúa chúc lành cho con
người và tới lượt tâm hồn con
người chúc tụng Ðấng là nguồn mạch mọi
phúc lành. Ðây là thái độ căn bản của kinh
nguyện Ki-tô giáo. Kinh nguyện chúc tụng là cuộc
gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, Thiên Chúa
ban ơn và con người đáp lại. Kinh nguyện chúc
tụng là cách con người đáp lại những
hồng ân của Thiên Chúa.
2627 (1083) Kinh
nguyện chúc tụng có hai hình thức chính : có khi
được dâng lên Chúa Cha nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh
Thần (chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ðấng đã chúc lành
cho chúng ta) (x. Ep 1, 3-14; 2 Cr 1, 3-7; 1Pr 1, 3-9) : có khi xin Chúa Cha
ban Chúa Thánh Thần nhờ Chúa Ki-tô (chính Chúa Cha chúc lành cho
chúng ta) (x. 2 Cr 13, 13; Rm 15, 5-6; Ep 6, 23-24) .
2628 (2096-2097 2559) Thờ lạy là thái
độ đầu tiên của con người khi nhìn
nhận mình là thụ tạo đang đối diện
với Ðấng Sáng Tạo. Kinh nguyện thờ lạy là
tán dương Thiên Chúa cao cả, Ðấng dựng nên ta (Tv 95, 1-6) và là Ðấng quyền năng đã
giải thoát ta khỏi sự dữ. Thờ lạy là
phủ phục trước "Ðức Vua Vinh Quang" (x.
Tv 24,9-10) , là thinh lặng và kính cẩn
trước Thiên Chúa, Ðấng muôn trùng cao cả. Thái
độ thờ lạy Thiên Chúa chí thánh và chí ái, giúp chúng ta
khiêm tốn và tin tưởng vững vàng Người
sẽ nhận lời chúng ta khẩn cầu.
II. KHẨN
CẦU
2629 (396) Trong Tân Ước, kinh
nguyện này có nhiều tên gọi diễn tả những
biến thái khác nhau : khẩn cầu, cầu xin, năn
nỉ, kêu xin, cầu cứu, kêu la, thậm chí
"chiến đấu bằng kinh nguyện". Nhưng hình thức thông thường và tự phát
nhất là lời khẩn cầu. Trong kinh nguyện
khẩn cầu, chúng ta bộc lộ ý thức về
tương quan giữa mình với Thiên Chúa :
Chúng ta là thụ tạo, không phải tự mình mà có, không
làm chủ được những nghịch cảnh trong
đời, không phải là cùng đích đời mình;
chẳng những vậy, là người Ki-tô hữu, chúng
ta biết mình tội lỗi, đã phản nghịch
lại Thiên Chúa là Cha chúng ta. Khi khẩn
cầu, con người đã quay về với Thiên Chúa.
2630 (2090) Tân
Ước ít thấy những lời than vãn, như
thường gặp trong Cựu Ước. Trong Ðức
Ki-tô Phục Sinh, lời khẩn cầu của Hội Thánh
luôn tràn đầy hy vọng, cho dù chúng ta vẫn còn
phải chờ đợi và hoán cải mỗi ngày. Trong
Ki-tô giáo, kinh nguyện khẩn cầu còn xuất phát từ
một chiều sâu khác, được thánh Phao-lô gọi là
lời "rên xiết"; tiếng rên xiết của
"muôn loài thụ tạo quằn quại như sắp
sinh nở" (Rm 8,22) ; tiếng rên xiết của chúng ta
"còn trông đợi Thiên Chúa cứu chuộc toàn thể
con người chúng ta, vì ơn cứu độ vẫn là
điều phải trông mong" (Rm 8,23-24); cũng là
"tiếng rên xiết khôn tả" của chính Thánh
Thần, Ðấng "giúp đỡ chúng ta là những
kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện
thế nào cho phải; nhưng chính Thánh Thần sẽ
cầu thay nguyện giúp chúng ta" (Rm 8,26).
2631 (2838) Kinh nguyện khẩn cầu
đầu tiên của con người là lời xin ơn tha
tội, như lời người thu thuế trong Tin
Mừng Lu-ca: "Xin thương xót con là kẻ có
tội" (Lc 8,13). Muốn cầu nguyện
thực sự và đúng đắn, trước hết
phải xin ơn tha tội. Tâm tình khiêm nhu tín thác cho
chúng ta hiệp thông với Chúa Cha, với con của
Người là Ðức Giê-su Ki-tô và với anh em; nhờ
đó "bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta
được Người ban cho" (1Ga 3, 22). Trước khi cử hành Phụng vụ Thánh
Thể cũng như cầu nguyện riêng, chúng ta phải
xin ơn tha tội.
2632 (2816 1942 2854) Theo lời Ðức Giê-su
dạy, khao khát và tìm kiếm Nước Thiên Chúa phải là
trọng tâm kinh nguyện Ki-tô giáo. Vì thế, phải
khẩn cầu theo thứ tự : trước hết là
cầu xin "Nước Cha trị đến",
rồi cầu xin Cha ban những ơn cần thiết
để đón nhận Nước Trời và cộng tác
vào việc mở mang Nước Chúa. Cộng tác vào sứ
mạng của Chúa Ki-tô và của Chúa Thánh Thần, tức
là sứ mạng của Hội Thánh hôm nay, là đối
tượng của kinh nguyện cộng đoàn tông
đồ (x. Cv 6,6; 13,3) . Lời cầu nguyện của
Phao-lô, vị tông đồ tuyệt hảo, cho ta thấy : ưu tư về mọi giáo
đoàn phải nổi bật trong kinh nguỵện
của Ki-tô hữu. Nhờ cầu nguyện,
các tín hữu góp phần vào việc mở mang Nước
Chúa.
2633 (2830) Khi tham dự vào công trình yêu
thương cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta có
thể coi mọi nhu cầu là đối tượng
của kinh nguyện khẩn cầu. Ðức Ki-tô, Ðấng
đã đón nhận tất cả để chuộc
lại tất cả, được tôn vinh qua những
lời chúng ta cầu xin Chúa Cha nhân danh Người (x. Ga 14,13) . Tin tưởng như thế, thánh
Gia-cô-bê và thánh Phao-lô khuyến khích chúng ta :
hãy cầu nguyện mọi nơi mọi lúc.
III. KINH NGUYỆN
CHUYỂN CẦU
2634 (432) Chuyển cầu là một
kinh nguyện khẩn cầu. Khi chuyển cầu, chúng ta theo mẫu cầu nguyện của Ðức
Ki-tô. Người là Ðấng trung gian duy
nhất dâng lời chuyển cầu lên Chúa Cha cho mọi
người, nhất là các tội nhân. "Người
có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho
những ai nhờ Người mà tiến lại gần
Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống
để chuyển cầu cho họ" (x. Dt 7,25). "Hơn nữa, lại có Thánh
Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta là những kẻ
yếu hèn... Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho dân
thánh theo đúng ý Thiên Chúa" (x. Rm 8, 26-27) .
2635 (2571 2577) Chuyển cầu là khẩn
cầu cho người khác. Từ thời Áp-ra-ham, đây là
đặc tính của một tâm hồn hòa theo
lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Trong thời
đại của Hội Thánh, lời chuyển cầu
của Ki-tô hữu tham dự vào kinh nguyện chuyển
cầu của Ðức Ki-tô, đây là cách diễn tả
mầu nhiệm các thánh thông công. Trong kinh nguyện
chuyển cầu, chúng ta "không tìm lợi ích cho riêng mình,
nhưng tìm lợi ích cho người khác" (Pl 2,4), ngay
cả cầu xin cho kẻ làm hại mình (x. Lời cầu
của Ðức Ki-tô và Thánh Tê-pha-nô, Lc 23, 28-34; Cv 7,60) .
2636 (1900 1037) Những cộng đoàn Ki-tô
hữu tiên khởi đã nhiệt thành sống hình thức
chia sẻ này (x. Cv 12,5; 20, 36) trong kinh nguyện. Tông đồ Phao-lô đã kêu gọi các tín hữu
tham gia vào công cuộc rao giảng Tin Mừng bằng
lời cầu nguyện; chính Người cũng luôn
cầu nguyện cho họ. Người Ki-tô hữu
chuyển cầu "cho hết mọi người, cho vua
chúa và tất cả những người cầm
quyền" (Tm 2,1), cho những
người bách hại mình, cho những ai khước
từ Tin Mừng cũng nhận được ơn
cứu độ (x. Rm 12,14; 10,1).
IV. KINH NGUYỆN
TẠ ƠN
2637 (224,1328 2603) Tạ ơn là đặc tính
của kinh nguyện Hội Thánh, đặc biệt khi
cử hành Thánh lễ. Thật vậy trong công
trình cứu độ, Ðức Ki-tô giải thoát toàn thể
thụ tạo khỏi ách thống trị của tội
lỗi và sự chết, để thánh hiến và qui
hướng chúng ta về với Chúa Cha, để tôn vinh
Chúa Cha. Lời kinh tạ ơn của
các chi thể trong Thân Thể được tham dự vào
lời tạ ơn của Ðức Ki-tô là đầu.
2638 Cũng
như trong kinh nguyện khẩn cầu, mọi biến
cố và mọi nhu cầu đều có thể trở thành
dịp để dâng lời tạ ơn. Các thư
của thánh Phao-lô thường khởi đầu và
kết thúc bằng một lời tạ ơn, và luôn luôn
nhắc tới Chúa Giê-su. "Hãy tạ ơn trong mọi
hoàn cảnh, Thiên Chúa muốn anh em làm như vậy, vì anh em
đã được kết hợp với Ðức Ki-tô
Giê-su" (Tx 5,18). "Anh em hãy siêng
năng cầu nguyện ; trong khi cầu
nguyện, hãy tỉnh thức mà tạ ơn" (Cl 4,2).
V. KINH NGUYỆN
CA NGỢI
2639 (213) Ca ngợi là hình thức
cầu nguyện nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa Tể một
cách trực tiếp nhất. Lời kinh ca
ngợi tán dương Thiên Chúa, tôn vinh Người không
chỉ vì những gì Người đã làm nhưng còn vì
chính Người là Chúa. Khi ca ngợi
Thiên Chúa, chúng ta thông phần hạnh phúc của những tâm
hồn trong sạch, những kẻ yêu mến Người
trong đức tin trước khi được thấy
Người trong Vinh Quang. Khi chúng ta ca ngợi Thiên
Chúa, Chúa Thánh Thần kết hợp với tâm hồn chúng
ta để chứng nhận rằng chúng ta là con cái Thiên
Chúa (Rm 8,16), làm chứng cho Con Một
Thiên Chúa, Ðấng làm cho chúng ta được nhận làm
nghĩa tử và có thể dâng lời tôn vinh Chúa Cha. Lời
kinh ca ngợi kết hợp với những hình thức
kinh nguyện khác và dâng tất cả lên Ðấng là nguồn
mạch và cùng đích của mọi sự, "Thiên Chúa duy
nhất, Chúa Cha, Ðấng tạo thành vạn vật và là cùng
đích của chúng ta" (1 Cr 8,6).
2640
Tin
Mừng Lu-ca thường nhắc đến thái độ
thán phục và ca ngợi của con người
trước những điềm thiêng dấu lạ
của Ðức Ki-tô. Sách Công Vụ Tông Ðồ cũng
nhấn mạnh những việc kỳ diệu do tác động
của Chúa Thánh Thần: hình thành cộng đoàn Giê-ru- sa-lem
(Cv 2,47), việc Phê-rô và Gio-an chữa lành người
bất toại (Cv 3,9), dân chúng tôn vinh Thiên Chúa (Cv 4,21) vì
việc đó, dân ngoại ở Pi-xi-đi-a "vui
mừng suy tôn Lời Chúa" (x. Cv 13,48) .
2641 (2587) "Hãy cùng nhau xướng
đáp những bài Thánh Vịnh, thánh thi và những bài ca do
Thánh Thần linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát
chúc tụng Chúa" (x. Eph 5,19; Cl 3,16) . Như các thánh sử
Tân Ước, những cộng đoàn Ki-tô hữu
đầu tiên đọc lại sách Thánh Vịnh trong cách
nhìn mới, để ca ngợi mầu nhiệm Ðức Ki-tô
ẩn tàng trong đó. Dưới ánh sáng mới của Thánh
Thần, họ cũng sáng tác những thánh thi và thánh ca
về biến cố khôn dò Thiên Chúa đã thực hiện
nơi Chúa Con: cuộc Nhập Thể, Tử Nạn
chiến thắng sự chết, Phục Sinh và Lên Trời
ngự bên hữu Thiên Chúa (x. Pl 2, 6-11; Col 1, 15-20; Eph 5, 14; 1Tm
3, 16; 6, 15-16; 2Tm 2, 11-13) . Vì "kỳ
công" đặc biệt này của công trình cứu
độ, các tín hữu dâng lên lời vinh tụng ca
để ca ngợi Thiên Chúa (x Eph 1,3-14; Rm 16,25-27; Ep 3,20-21;
Gđa 24-25) .
2642 (1137) Sách
Khải Huyền, lời mặc khải "về
những điều sắp phải xảy
đến", đầy dẫy những bài thánh ca
của phụng vụ trên trời nhưng cũng nhờ
kinh nguyện chuyển cầu của "các chứng
nhân" (các vị tử đạo) (x. Kh 6,10) . Các ngôn
sứ và các thánh nhân, tất cả những người
đã bị sát hại dưới thế để làm
chứng cho Ðức Giê-su, đám đông vô số
"những người đã trải qua cơn thử
thách lớn lao", tất cả đã đi trước
chúng ta vào trong Nước Thiên Chúa, họ đang ca ngợi
vinh quang của "Thiên Chúa, Ðấng ngự trên ngai và Con
Chiên" (Kh 19,1-8). Hiệp
thông với các ngài, Hội Thánh tại thế cũng hát lên
những bài hát thánh ca này, trong đức tin và giữa
cơn thử thách. Trong kinh nguyện khẩn cầu
và chuyển cầu, đức tin làm cho chúng ta vẫn hy
vọng dầu có vẻ đã tuyệt vọng, và dâng lên
"lời tạ ơn" Chúa Cha, Ðấng tạo
dựng muôn tinh tú và ban xuống mọi ân huệ tốt
lành" (Gc 1,17). Ðức tin cũng là một kinh nguyện ca
ngợi tinh tuyền.
2643 (1330) Bí
tích Thánh Thể chứa đựng và diễn tả
mọi hình thức kinh nguyện. Bí tích Thánh Thể là
"lễ dâng tinh tuyền" của toàn Thân Thể Chúa
Ki-tô "vì vinh quang Danh Người". Truyền thống
Ðông và Tây Phương đều gọi bí tích Thánh Thể
là "hy tế ca ngợi".
TÓM LƯỢC
2644 Chúa Thánh
Thần là Ðấng dạy dỗ và nhắc lại cho
Hội Thánh tất cả những gì Ðức Giê-su đã nói,
chính Người dạy Hội Thánh cầu nguyện
bằng cách khơi lên những cách diễn tả mới
cho các hình thức kinh nguyện quen thuộc: chúc tụng,
khẩn cầu, chuyển cầu, tạ ơn và ca
ngợi.
2645 Thiên Chúa
đã chúc lành cho con người, nên tâm hồn con
người có thể chúc tụng Ðấng là nguồn
mạch mọi phúc lành.
2646 Chúng ta dâng
lên Thiên Chúa. Kinh nguyện khẩn cầu để xin
ơn tha tội, xin cho chúng ta biết tìm kiếm
Nước Chúa xin Thiên Chúa ban những ơn cần
thiết.
2647 Chuyển
cầu là cầu xin cho người khác. Lời cầu
nguyện của Ki-tô hữu không có biên giới : chúng ta
cầu nguyện cho mọi người, kể cả
kẻ thù.
2648 Mọi vui
buồn, mọi biến cố và nhu cầu, đều là
dịp để chúng ta dâng lên Thiên Chúa kinh nguyện tạ
ơn. Tham dự vào kinh tạ ơn của Ðức Ki-tô,
cả cuộc đời người Ki-tô hữu là bài ca
tạ ơn Thiên Chúa : "Anh em hãy tạ ơn Thiên Chúa
trong mọi hoàn cảnh" (1Tx 5,18).
2649 Chúng ta dâng
lên Thiên Chúa kinh nguyện ca ngợi, thuần túy vô vị
lợi, để ca khen, tôn vinh Người, không chỉ vì
những việc Người đã làm cho ta, mà còn vì
Người là Thiên Chúa.