Mục 3: Thánh Kinh


I.       Đức Kitô, Lời Duy Nhất của Thánh Kinh (101-104)

Thiên Chúa đă dùng ngôn ngữ loài người mà mặc khải cho ta qua Thánh Kinh, như xưa Ngôi Lời đă trở nên con người để nói với ta.

II.    Linh hứng, Chân Lư và tác giả của Thánh Kinh (105-109)

Thiên Chúa linh hứng các thánh kư để dùng tất cả khả năng và sự hiểu biết của các ngài mà viết Thánh Kinh, nên các ngài là tác giả các sách các ngài viết, nhưng Thiên Chúa cũng chính là tác giả của Thánh Kinh.  "Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lư mà Thiên Chúa đă muốn Thánh Kinh ghi lại để cứu độ chúng ta".  Tuy vậy,  đức tin Kitô giáo không phải là một "đạo Sách" mà là đạo của "Lời Chúa", Ngôi Lời Nhập Thể và hằng sống. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta hiểu được Thánh Kinh.

III.       Chúa Thánh Thần, Đấng giải thích Thánh Kinh (109-119)

Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với ta bằng cách thức của loài người, nên chúng ta phải lưu tâm đến các chủ ư, hoàn cảnh thời đại và văn hóa của các tác giả, cũng như các văn thể họ dùng, và sự  diễn đạt tư tưởng của họ trong văn nói cũng như văn viết.

V́ "Thánh Kinh đă được viết ra bởi Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần".  Và Thánh Kinh được ban cho Hội Thánh, nên Thánh Kinh chỉ được giải thích cách xác thực trong Hội Thánh. CĐ Vaticanô II đưa ra ba tiêu chuẩn để giải thích Thánh Kinh:

ü      Phải chú ư đến "nội dung và tính thống nhất của toàn bộ Thánh Kinh "

ü      Phải đọc Thánh Kinh trong "Truyền thống sống động của toàn thể Hội Thánh".

ü      Phải lưu ư đến "loại suy đức tin," là tính chất tương hợp trong toàn bộ nội dung các chân lư đức tin và trong toàn bộ chương tŕnh mặc khải.

Hội Thánh cũng phân biệt các nghĩa mà theo đó Thánh Kinh có thể được giải thích:

ü      Nghĩa văn tự là nghĩa mà tác giả có ư nói đến.

ü      Nghĩa thiêng liêng có thể là nghĩa ẩn dụ trong đó một biến cố ám chỉ một biến cố khác, hay là nghĩa luân lư để dẫn chúng ta đến một cách ăn ở công chính.  Cũng có thể có nghĩa thần bí, hướng chúng ta về cùng đích trên Trời.

Sau hết mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh đều phải tùy thuộc vào phán quyết của Hội Thánh, v́ Hội Thánh được Thiên Chúa trao phó cho sứ mạng và chức vụ ǵn giữ và giải thích Lời Chúa.

IV.  Quy Điển Thánh Kinh (120-130)

Quy điển Thánh Kinh, là danh sách những sách mà Hội Thánh công nhận là được Chúa Thánh Thần linh hứng, gồm có 46 sách Cựu Ước và 27 sách Tân Ước.  

Cựu Ước mặc dầu chứa đựng nhiều điều bất toàn và tạm thời, nhưng hướng về Đức Kitô.

Tân Ước đặt trọng tâm vào giáo huấn và cuộc đời của Đức Kitô và vào Hội Thánh Sơ Khai dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Các Tin Mừng là trung tâm của tất cả Thánh Kinh v́ là chứng từ chính về cuộc đời và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể.  Tin Mừng được thành h́nh qua ba giai đoạn:

ü      Giai đoạn thứ nhất là đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu. 

ü      Giai đoạn thứ hai là truyền khẩu qua lời giảng dạy của các Tông Đồ và những môn đệ đầu tiên dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

ü      Giai đoạn thứ ba là viết các Sách Tin Mừng, khi các Thánh Sử thu góp tài liệu về Chúa Giêsu và thích nghi với hoàn cảnh của giáo đoàn mà tác giả nhằm đến.

Cựu Ước và Tân Ước liên hệ mật thiết với nhau. Các biến cố và nhân vật trong Cựu Ước là tiền thân của những biến cố và h́nh ảnh trong Tân Ước. “Tân Ước tàng ẩn trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước”(Th. Augustinô). V́ thế Tân Ước phải được đọc dưới ánh sáng của Cựu Ước, và Cựu Ước phải được đọc dưới ánh sáng của Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh.

V.     Thánh Kinh trong đời sống Hội Thánh (131-141)

Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như tôn kính Thánh Thể, v́ như Thánh Thể,  Lời Chúa c̣n có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Hội Thánh, ban sức mạnh đức tin, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Hội Thánh. V́ thế Hội Thánh "tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu "hăy năng đọc Thánh Kinh để học biết kiến thức siêu việt của Chúa Giêsu Kitô…  "V́ không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô" (Thánh Giêrônimô).


Trở về mục lục - Đọc tiếp