Kinh
Tin Kính các Tông Đồ tuyên xưng, trong cùng một tín
điều, việc Đức Kitô xuống ngục tổ tông
và việc ngày thứ ba Người bởi trong kẻ
chết mà sống lại. (631)
Ngục
Tổ Tông không phải là hỏa ngục, nhưng là
chỗ an nghỉ của những người đă
chết. Kinh Thánh gọi nơi an nghỉ này là âm phủ.
Trước khi Đấng Cứu Thế đến,
mọi người chết, lành hay dữ đều
phải vào đó. Ở
đó, họ không được nh́n thấy Thiên Chúa và
chờ đợi Đấng Cứu Thế.
Nói rằng Chúa Giêsu xuống Ngục Tổ Tông có
nghĩa là Người chết thật và xuống với
những kẻ công chính đang mong chờ Người
giải thoát họ (632-637).
Chúa
Giêsu Phục Sinh là chân lư tuyệt đỉnh của
đức tin Kitô giáo, được cộng đoàn tín
hữu tiên khởi tin và sống như là chân lư chính,
được Truyền Thống lưu truyền như chân
lư căn bản, được các văn kiện Tân
Ước xác nhận, được rao giảng như
phần chủ yếu của mầu nhiệm Vượt
Qua và Thập Giá (638).
I. Một biến cố lịch sử và siêu việt (639-647)
Đức
Kitô phục sinh là một biến cố có thật với
những chứng từ có giá trị lịch sử,
được Tân Ước xác nhận. Trong
biến cố này, yếu
tố đầu tiên là ngôi mộ trống. Ngôi
mộ trống tự nó không phải là một bằng
chứng trực tiếp, nhưng là bước đầu
dẫn các môn đệ đến việc nh́n nhận
việc Chúa sống lại (639-640).
Những
người đầu tiên được gặp Đấng
Phục Sinh là bà Maria Mađalêna
và các phụ nữ đạo đức đến để
ướp xác Người. Trong
số các Tông Đồ th́ Người hiện ra đầu
tiên với thánh Phêrô, sau đó với nhóm Mười
Một. V́ được
mời gọi củng cố niềm tin của anh em, nên thánh
Phêrô được thấy Đấng Phục Sinh trước
họ. Với tư cách là
những chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các Tông
Đồ là những viên đá nền móng của Hội Thánh
Người. Người
c̣n hiện ra với cả trăm người khác. Các
môn đệ của Chúa thoạt đầu c̣n hoài nghi,
nhưng sau đó các ông đă vững tin là Chúa đă
sống lại (641-644).
Đức
Chúa Giêsu đă hiện ra với các môn đệ bằng
thân xác phục sinh của Người,
chính là thân xác đă bị khổ h́nh và đóng đinh
trên thập giá, v́ c̣n mang dấu vết cuộc khổ
nạn. Tuy nhiên Người
không c̣n bị ràng buộc bởi không gian và thời gian
nữa, v́ nhân tính của Người đă thuộc
về thế giới thần linh của Chúa Cha.
Đức Kitô không trở lại với đời
sống trần thế như trường hợp ông Ladarô,
nhưng sang một cuộc sống vượt thời gian
và không gian. (645-646).
Không
ai chứng kiến tận mắt biến cố Phục
Sinh. Biến cố này
chỉ có thể ghi nhận được nhờ dấu
chỉ ngôi mộ trống và những lần gặp
gỡ thực sự giữa Đức Kitô và các Tông Đồ,
nhưng Phục Sinh vẫn là
mầu nhiệm trung tâm của đức tin, v́ nó siêu
việt và vượt trên mọi chiều kích lịch
sử. Do đó, Đức
Kitô Phục Sinh không tỏ ḿnh ra cho thế gian mà chỉ
cho các môn đệ của Người
(647).
II. Sự Sống Lại: Công việc của Ba Ngôi (648-650)
Sự
sống lại của Đức Kitô là một can thiệp
của chính Thiên Chúa trong công tŕnh tạo dựng và trong
lịch sử. Trong đó
cả Ba Ngôi vừa làm việc chung, vừa biểu lộ
tính cách riêng biệt của ḿnh.
Phục Sinh được thực hiện do quyền
năng của Chúa Cha, qua công tŕnh của Chúa Thánh
Thần. C̣n Chúa Con th́ tự sống lại do quyền năng
của ḿnh.
III. Ư Nghĩa và tầm vóc Cứu Độ của Sự Sống Lại (651-658)
Việc
Chúa Phục Sinh chứng thực tất cả những ǵ
Người đă làm và đă dạy.
Đức Kitô Phục Sinh hoàn tất các lời hứa
của Cựu Ước và của Người khi c̣n
tại thế. Phục
Sinh xác nhận thiên tính của Chúa Giêsu, nên toàn thể các
chân lư Người dạy đều đáng tin.
Đức Kitô chết để giải thoát chúng ta
khỏi tội lỗi, và sống lại để mở
đường cho chúng ta vào sự sống trường
sinh. Sự
Phục Sinh của Đức Kitô, cũng như chính Đức
Kitô Phục Sinh, là nguyên lư và nguồn mạch sự
sống lại của chúng ta mai sau
(651-658).