Kitô
hữu là những người được gia nhập
Nhiệm Thể Đức Kitô qua bí tích Thánh Tẩy nên
được tham gia vào chức vụ tư tế, ngôn
sứ và vương giả của Người. Chúa
muốn mỗi chi thể trong Nhiệm Thể này có
những nhiệm vụ khác nhau để phục vụ
sự hiệp nhất và sứ mạng của Hội Thánh.
Người đă trao phó cho các Tông Đồ và
những người kế vị các ngài nhiệm vụ
nhân danh và lấy quyền của Người mà giảng
dạy, thánh hóa và quản trị.
C̣n giáo dân cũng đảm nhận phần vụ
của ḿnh trong sứ mạng chung của toàn Dân Thiên Chúa
trong Hội Thánh và ở giữa trần gian (871-873).
I. Cơ cấu phẩm trật Hội Thánh (874-896)
Thừa
tác vụ Hội Thánh
– Chính Đức Kitô đă thiết lập, trao quyền,
sứ vụ, đường hướng và mục đích
cho các thừa tác vụ Hội Thánh.
Không ai có thể tự cho ḿnh quyền này.
Phải có các thừa tác viên được Chúa trao
quyền phân phát các ân sủng Ngài ban. Thừa tác vụ
này là "bí tích". Cũng
vậy, đặc tính tập đoàn phát xuất từ
bản tính bí tích của thừa tác vụ Hội Thánh. Do
bản tính này, các thừa tác vụ này c̣n có đặc
tính cá nhân v́ mỗi người được gọi
đích danh. Vậy,
thừa tác vụ bí tích trong Hội Thánh là việc
phục vụ nhân danh Đức Kitô, vừa có tính cá nhân
vừa có tính tập thể (874-879).
Giám
Mục Đoàn và thủ lănh là ĐGH - Đức
Kitô họp các Tông Đồ thành nhóm Mười Hai như
một tập đoàn. Người
đặt Thánh Phêrô làm đầu.
ĐGH là đấng kế vị Thánh Phêrô, và các giám
mục kế vị các Tông Đồ, nên nhiệm vụ
chủ chăn của họ từ Đức Kitô mà ra.
ĐGH đại diện Người, nhân danh Người
mà thực thi quyền hành trên toàn Hội Thánh. Giám
Mục Đoàn cũng có quyền trọn vẹn và tối
cao trên toàn Hội Thánh khi hiệp nhất với ĐGH.
Quyền này được thi hành cách trọng thể
trong các Công Đồng Chung được ĐGH công
nhận. Giám Mục Đoàn
liên kết với ĐGH diễn tả đặc tính
đa dạng, phổ quát và hiệp nhất của Dân Chúa.
Mỗi giám mục lănh đạo một giáo phận,
với sự trợ tá của các linh mục và phó tế.
Các ngài cũng có bổn phận chia sẻ những
quan tâm của các giáo phận khác. Các
ngài phải quan tâm đến những người nghèo,
bị bách hại v́ đức tin, cũng như đến
các thừa sai đang hoạt động trên toàn thế
giới. Các giáo phận lân
cận hợp thành giáo tỉnh, và giáo miền.
Các giám mục thuộc những giáo miển có
thể họp hội nghị hay công đồng địa
phương (880-887).
Nhiệm
vụ giáo huấn - Các giám
mục và linh mục có nhiệm vụ giáo huấn, loan báo
Tin Mừng. Họ phải
đem chân lư của Đức Kitô đến cho thế gian.
Để ǵn giữ đức tin do các Tông Đồ
truyền lại, Đức Kitô cho Hội Thánh ơn bất
khả ngộ. Đặc
sủng này được hành xử bởi ĐGH, khi
với tư cách là mục tử và thầy dạy
tối cao của mọi Kitô hữu, để củng
cố anh em trong đức tin, ngài công bố một giáo
thuyết về đức tin và luân lư bằng một phán
quyết chung thẩm. Ơn
này cũng được ban cho Giám Mục Đoàn, khi các ngài
thi hành huấn quyền
tối thượng kết hợp ĐGH, nhất là
trong một Công Đồng Chung. Khi
Hội Thánh dùng Huấn Quyền tối thượng để
đề ra một điều ǵ "phải tin bởi do
Thiên Chúa mặc khải", th́ chúng ta phải vâng
phục bằng sự vâng
phục trong đức tin. Ngoài
ra khi ĐGH hay các giám mục dùng huấn
quyền thông thường đề ra một giáo
huấn giúp hiểu rơ mặc khải hơn về đức
tin và luân lư, chúng ta vẫn
phải vâng theo với ḷng kính cẩn.
Không vâng phục các tín điều là lạc giáo. Không
vâng phục các giáo huấn thông thường có thể là
dấu thiếu đức tin, nhưng chưa phải là
lạc giáo (888-892).
Nhiệm
vụ thánh hóa - Các
giám mục và linh mục có nhiệm vụ thánh hóa
Hội Thánh bằng Lời Chúa và các bí tích, đặc
biệt là bí tích Thánh Thể, cũng như bằng
cầu nguyện, việc làm, và gương sang (893).
Nhiệm
vụ cai quản
- Các ngài cũng có
nhiệm vụ cai quản và hướng dẫn Hội Thánh
với sự trợ giúp của các linh mục và phó
tế. Các ngài phải thi
hành quyền này trong sự hiệp thông với toàn
thể Hội Thánh dưới sự hướng dẫn
của ĐGH, và phải lănh đạo với ḷng
trắc ẩn, cảm thông, v́ gương mẫu của các
ngài là Đức Kitô (894-896).
II. Các tín hữu giáo dân (879-913)
Giáo
dân là tất cả các Kitô hữu không thuộc hàng giáo
sĩ hay bậc tu tŕ được Hội Thánh công
nhận. Họ là
những người đang thi hành sứ mạng của
toàn dân Kitô giáo trong Hội Thánh và trên trần gian theo
phận vụ riêng của ḿnh (897).
Ơn
gọi của giáo dân là
t́m kiếm Nước Chúa bằng cách chu toàn nhiệm
vụ trần thế theo ư Chúa. Họ
đứng ở tuyến đầu của Hội Thánh.
Nhiệm vụ của họ là đem Đức Kitô vào
các lănh vực xă hội, chính trị, kinh tế, và văn
hóa của nhân loại. Qua bí tích Thánh Tẩy và Thêm
Sức, họ có quyền và bổn phận truyền đạt
sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa.
Trong các cộng đoàn Hội Thánh, hoạt động
của họ cần thiết v́ không có họ th́ việc
Tông Đồ của các mục tử hầu như không
thể đạt được hiệu quả trọn
vẹn (898-900).
Giáo
dân Tham gia vào nhiệm vụ tư tế của Đức
Kitô
bằng
cách kết hợp đời sống, cầu nguyện,
việc làm,…, và các khốn khó họ gặp với Đức
Kitô, dâng tất cả cho Thiên Chúa trong bí tích Thánh
Thể. Họ cũng có
thể lănh nhận thừa tác vụ đọc sách và giúp
lễ, chủ tọa các buổi cầu nguyện, rửa
tội và cho rước lễ theo luật định
(901-903).
Giáo
dân tham gia vào nhiệm vụ ngôn sứ của Đức
Kitô
bằng gương sáng và lời nói. Họ
có thể dạy giáo lư, thần học, ….
Họ có quyền và có bổn phận bày tỏ cho các
mục tử hay các tín hữu khác những ư kiến
của họ liên quan đến lợi ích của Hội
Thánh, miễn là bảo vệ sự vẹn toàn của
đức tin và phong hóa, cũng như sự tôn kính đối
với các mục tử, và quan tâm đến công ích và
phẩm giá của tha nhân (904-907).
Giáo
dân tham gia vào nhiệm vụ vương giả của
Đức Kitô bằng
cách chiến thắng tội lỗi nơi bản thân và
trong thế gian. Họ cũng
có thể cộng tác với các mục tử phục
vụ cho sự sống và tăng trưởng của
cộng đoàn bằng cách thi hành các thừa tác vụ
khác nhau tùy theo ân sủng Chúa ban.
Họ phải cố gắng ḥa hợp quyền
lợi và nghĩa vụ của họ như là một
phần tử của Hội Thánh với quyền lợi và
nghĩa vụ như là một phần tử của xă
hội. Trong mọi lănh
vực trần thế, lương tâm Kitô giáo phải luôn
hướng dẫn họ, v́ mọi hoạt động
của con người, dù thuộc phạm vi trần
thế, đều ở dưới quyền của Thiên
Chúa (908-913).
III. Đời thánh hiến (914-945)
Đời
thánh hiến là bậc sống được thành lập
do việc khấn giữ các lời khuyên của Tin
Mừng, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm
trật, nhưng vẫn thuộc về đời sống
và sự thánh thiện của Hội Thánh (914).
Các
lời khuyên của Tin Mừng
- Những ai tự nguyện sống đời
tận hiến, buộc giữ các lời khuyên của Tin
Mừng là vâng lời, khó nghèo, và khiết tịnh v́ Nước
Trời. Trong đời thánh
hiến, dưới tác động của Thánh Thần,
họ sẵn sàng theo sát Đức Kitô hơn, tự
hiến cho Thiên Chúa và theo đuổi đức ái hoàn
hảo để phục vụ Nước Trời
(915-916).
Như
một cây lớn có nhiều cành,
trong Hội Thánh phát sinh nhiều ḍng tu khác nhau mà gia
sản thiêng liêng của họ vừa ích lợi cho
họ vừa ích lợi cho tất cả Hội Thánh.
Chỉ Ṭa Thánh mới có quyền phê chuẩn
những h́nh thức mới của đời thánh
hiến (917-919).
Các
vị ẩn tu
dâng hiến cuộc đời để sống
mật thiết với Đức Kitô, ngợi khen Thiên Chúa và
cứu độ thế gian, qua việc triệt để
lánh xa trần thế, giữ yên lặng, cầu nguyện
liên lỉ và sống khổ hạnh đền tội
(920-921).
Các
trinh nữ và góa phụ được thánh hiến sống
trong bậc đồng trinh hoặc khiết tịnh vĩnh
viễn v́ Nước Trời.
Họ được giám mục giáo phận theo nghi
thức phụng vụ phê chuẩn, và thánh hiến cho Thiên
Chúa. Các trinh nữ
sống đời thánh hiến có thể lập hội
để thực thi ư định của họ cách trung
thành hơn nhờ sự trợ giúp lẫn nhau (922-924).
Các
ḍng tu
được phân biệt với những h́nh
thức khác của đời thánh hiến ở các điểm:
tổ chức đời sống phụng tự, công khai
khấn giữ các lời khuyên của Tin Mừng, sống
huynh đệ, làm chứng cho sự kết hợp
giữa Đức Kitô với Hội Thánh.
Tất cả các tu sĩ đều phải hợp tác
với đức giám mục giáo phận.
Các ḍng tu rất cần thiết cho việc khai nguyên
và phát triển truyền giáo của Hội Thánh (925-927).
Các
tu hội đời
là các hội sống đời thánh hiến
giữa đời, hướng tới đức ái
trọn hảo và nỗ lực góp phần thánh hóa
trần gian giữa ḷng đời.
Chứng từ đời sống Kitô hữu của
họ nhằm chỉnh đốn những thực tại
trần thế theo ư Chúa và đưa Tin Mừng vào
thế gian (928-929).
Các
hiệp hội Tông Đồ
gồm các thành viên không có lời khấn, nhưng theo
đuổi nhiệm vụ tông đồ của hội và
bằng đời sống chung trong t́nh huynh đệ;
họ hướng tới Đức Ái hoàn hảo theo
nếp sống riêng của họ nhờ việc tuyên
giữ hiến chương của hội.
Họ có thể có lời khấn (930).
Thánh
hiến và truyền giáo
- Những người trong bậc thánh hiến có nghĩa
vụ truyền giáo theo cách thức riêng của tu hội
ḿnh. Họ khuyến khích
anh em bằng gương sáng, và tỏ lộ cách hoàn
hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải
trên trời đă có ngay dưới trần gian này, và làm
chứng rằng ơn cứu chuộc của Đức Kitô
đă đem lại một đời sống mới và vĩnh
cửu, cùng tiên báo sự phục sinh tương lai và
vinh quang của Nước Trời (931-945).