Chương 2

Cử Hành Mầu Nhiệm Phục Sinh


Giáo lư về Phụng Vụ đ̣i hỏi phải hiểu biết về công tŕnh bí tích; nhờ đó ta thấy được tính cách mới mẻ của cử hành phụng vụ. Chương này sẽ bàn đến việc cử hành các bí tích, những đặc tính chung của việc cử hành bảy bí tích theo truyền thống Phụng Vụ (1135).

Mục 1 - Cử Hành Phụng Vụ của Hội Thánh

I.       Ai cử hành?

Phụng Vụ là "hoạt động" của "toàn thể Đức Kitô" (1136).

Trong Phụng Vụ thiên quốc, Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, vị Thượng Tế duy nhất, vừa là chủ tế vừa là lễ vật, vừa dâng vừa được dâng lên. Chúa Thánh Thần là con sông có nước trường sinh chảy ra từ ngai Thiên Chúa và Con Chiên. Kế đó là muôn loài đă được qui tụ trong Đức Kitô: các thiên sứ, Đức Mẹ và các thánh trong Cựu và Tân Ước (1137-1139).

Phụng Vụ bí tích - Dưới thế, Phụng Vụ là hành động của toàn thể Nhiệm Thể Đức Kitô kết hợp với Đầu là Đức Kitô. Các hoạt động phụng vụ không phải là hoạt động riêng tư, nhưng là những cử hành của Hội Thánh, cho nên khi có thể được, phải cử hành cộng đồng với sự tham gia đông đảo và linh hoạt của giáo dân. Mọi chi thể đều được tham dự vào "chức tư tế cộng đồng" của Đức Kitô, vị Tư Tế duy nhất, nhưng mỗi phần tử có những phần vụ khác nhau trong phụng vụ, như linh mục chủ tế, và những tác vụ khác được các giám mục xác định tùy theo truyền thống và nhu cầu mục vụ. "Trong các cử hành phụng vụ, thừa tác viên hay tín hữu mỗi người chu toàn phận vụ của ḿnh, chỉ làm và làm trọn vẹn những ǵ bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ qui định cho ḿnh"(1140-1144).

II.    Cử hành thế nào?

Dấu chỉ và biểu tượng - Cuộc cử hành bí tích được tạo thành bng những dấu chỉbiểu tượng.  Theo đường lối sư phạm của Thiên Chúa, ư nghĩa của dấu chỉ và biểu tượng bắt nguồn từ công tŕnh  tạo dựng và trong nền văn hoá nhân loại, được xác định trong các biến cố Cựu Ước và được mặc khải trọn vẹn trong con người và hoạt động của Đức Kitô.  Ánh sáng và đêm tối, gió và lửa, nước và đất, cây và quả đều nói về Thiên Chúa, là biểu tượng cho sự cao cả và gần gũi của Ngài.  Những dấu chỉ và biểu tượng trong đời sống xă hội, như thanh tẩy, xức dầu, bẻ bánh và chia sẻ ly rượu, có thể diễn tả việc Thiên Chúa hiện diện và thánh hoá, cũng như việc con người bày tỏ ḷng tri ân Tạo Hóa.  Phụng vụ của Hội Thánh thừa nhận, tiếp thu và thánh hoá các yếu tố trong thiên nhiên và trong nền văn hóa nhân loại, đồng thời làm cho chúng trở nên những dấu chỉ của ân sủng.  Những dấu chỉ giao ước như cắt b́, xức dầu thánh hiến các vua và tư tế, đặt tay, các lễ vật, và lễ Vượt Qua trong Cựu Ước.  Hội Thánh nhận ra nơi những dấu chỉ đó h́nh ảnh tiên trưng cho các bí tích của Tân Ước. Những dấu chỉ được Đức Kitô sử dụng đem lại ư nghĩa mới cho những biến cố và dấu chỉ Cựu Ước, nhất là biến cố Xuất Hành và Vượt Qua, v́ chính Người là ư nghĩa của mọi biểu trưng này.  Những dấu chỉ bí tích.  Từ lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần thánh hóa nhờ những dấu chỉ bí tích của Hội Thánh (1145-1152).

Lời nói và hành động - Mỗi cuộc cử hành bí tích là một cuộc gặp gỡ giữa con cái Thiên Chúa với Cha ḿnh, trong Đức Kitô và Chúa Thánh Thần.  Đây là cuộc đối thoại bằng hành động và lời nói.  Những hành động trong phụng vụ biểu thị những ǵ Lời Chúa muốn diễn đạt: vừa là sáng kiến ân sủng của Thiên Chúa, vừa là lời đáp trả trong đức tin của Dân Chúa.  Phụng vụ Lời Chúa là phần cốt yếu trong các cử hành bí tích.  Chúa Thánh Thần không những chỉ khơi dậy đức tin để các tín hữu hiểu Lời Chúa; nhưng qua các bí tích, Ngài c̣n thực hiện "những kỳ công" của Thiên Chúa được Lời Chúa loan báo (1153-1155).

Thánh ca và thánh nhạc góp phần với lời nói và hành động của Phụng Vụ để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu.  Từ thời Cựu Ước, khi cử hành Phụng Vụ, người ta đă hát Thánh Vịnh, thường có nhạc phụ họa.  Hội Thánh tiếp tục và phát huy truyền thống này.  “Lời thánh ca phải thích hợp với đạo lư Công Giáo và tốt nhất là rút ra từ Thánh Kinh và các nguồn mạch Phụng Vụ” (1156-1158).

Ảnh tượng thánh, nhất là ảnh tượng dùng trong Phụng Vụ, chủ yếu tŕnh bày Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể; các ảnh tượng về Đức Mẹ và các thánh cũng biểu thị Đức Kitô vinh hiển nơi các ngài. Ảnh tượng thánh dùng h́nh ảnh để truyền đạt sứ điệp Tin Mừng. Chiêm ngắm ảnh tượng thánh, cùng với suy niệm Lời Chúa và hát thánh thi phụng vụ, sẽ ḥa hợp với các dấu chỉ dùng trong cử hành Phụng Vụ, để mầu nhiệm được cử hành khắc sâu hơn trong tâm khảm, sau đó bộc lộ ra trong đời sống mới của các tín hữu (1159-1162).

III.  Cử hành khi nào?

Mùa Phụng Vụ - Hội Thánh ca tụng công tŕnh cứu độ của Chúa Giêsu bằng việc tưởng niệm các biến cố cứu độ vào những ngày ấn định trong năm.  Mỗi ngày Chúa Nhật, Hội Thánh tưởng nhớ việc Chúa Phục Sinh.  Mỗi năm vào dịp lễ Phục Sinh, Hội Thánh cử hành rất long trọng cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người.  Hội Thánh quảng diễn mầu nhiệm Đức Kitô qua chu kỳ một năm... (1163-1165).

Ngày của Chúa - Thay v́ ngày Sabath, ngay từ thời các thánh Tông Đồ Hội Thánh đă cử hành mầu nhiệm Phục Sinh vào ngày Chủ Nhật, ngày Chúa sống lại.  Hôm nay được gọi là ngày của Chúa, v́ là ngày Đức Kitô khải hoàn về với Chúa Cha (1166-1167).

Năm Phụng Vụ - Thời gian của cả năm trước và sau Tam Nhật Phục Sinh được Phụng Vụ thánh hóa thành năm hồng ân.  Chương tŕnh cứu độ được thực hiện trong thời gian, nhưng hoàn tất trong biến cố Đức Kitô Phục Sinh và Chúa Thánh Thần hiện xuống, là cao điểm của lịch sử nhân loại.  Trong Năm Phụng vụ nhiều khía cạnh của mầu nhiệm Vượt Qua được bày tỏ.  Cũng như trong chu kỳ các lễ xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền Tin, Giáng Sinh, Hiển Linh). Các lẽ này gợi lại những biến cố khởi đầu ơn cứu độ và cho chúng ta hưởng nhờ hoa quả đầu mùa của mầu nhiệm Phục Sinh (1168-1171).

Lễ kính Các Thánh trong năm Phụng Vụ - Hội Thánh tôn kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.  Mẹ là thành quả tuyệt diệu của công tŕnh cứu độ, và là h́nh ảnh trọn hảo của Hội Thánh tương lai.  Hội Thánh c̣n có những lễ kính các thánh để công bố mầu nhiệm Phục Sinh nơi các ngài, v́ các ngài đă cùng chịu thương khó và cùng được vinh hiển với Đức Kitô.  Các ngài là những mẫu gương cho các tín hữu của để lôi kéo mọi người đến với Chúa Cha qua Đức Kitô; và nhờ công nghiệp các ngài, Hội Thánh lănh nhận được những hồng ân của Thiên Chúa (1172-1173).

Giờ Kinh Phụng Vụ - Mầu nhiệm Đức Kitô Nhập Thể và Vượt Qua cử hành trong Thánh Lễ được thấm nhập và biến đổi trong ngày nhờ việc cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, hay Kinh Nhật Tụng. Kinh Nhật Tụng là kinh nguyện công khai của Hội Thánh được lập ra để thánh hiến trọn ngày đêm, qua đó các tín hữu thực thi chức tư tế vương giả của ḿnh bằng lời ngợi khen Thiên Chúa.  Các Giờ Kinh Phụng Vụ phải trở thành lời kinh nguyện của toàn Dân Chúa.  Hội Thánh khuyến khích giáo dân đọc Kinh Nhật Tụng.  Trong đó, chính Đức Kitô tiếp tục thực thi chức vụ tư tế qua Hội Thánh.  Việc cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ không những đ̣i buộc phải ḥa hợp lời kinh với tâm hồn cầu nguyện, mà c̣n phải lo cho ḿnh có kiến thức dồi dào hơn về Phụng Vụ và Thánh Kinh, nhất là về Thánh Vịnh.  Việc đọc Lời Chúa trong mỗi Giờ Kinh và việc đọc sách linh đạo cho thấy rơ hơn ư nghĩa của mầu nhiệm đang cử hành.  Thánh Lễ được nối dài bằng Các Giờ Kinh Phụng Vụ (1177-1178).

IV.   Cử Hành ở Đâu? (1179-1186)

Việc thờ phượng theo Thần Khí và Chân Lư của Giao Ước Mới không bị ràng buộc vào một nơi nhất định.  Khi các tín hữu tụ tập, điều quan trọng là chính họ phải là "những viên đá sống động để xây nên đền thờ Chúa Thánh Thần".  Khi có thể, các Kitô hữu nên xây những thánh đường làm nơi hội họp để cầu nguyện, cử hành và cất giữ Thánh Thể, cùng biểu thị và biểu lộ Hội Thánh đang sống tại địa phương, là ngôi nhà của Thiên Chúa ở giữa những người đă được ḥa giải và liên kết với nhau trong Đức Kitô.

ü      Bàn thờ của Giao Ước Mới là Thập Giá Đức Kitô, nơi phát xuất các bí tích của mầu nhiệm Vượt Qua.  Bàn thờ là trung tâm của thánh đường.

ü      Nhà Tạm phải đặt nơi xứng đáng và vinh dự nhất trong nhà thờ để giúp các tín hữu dễ dàng thờ phượng Chúa Giêsu đang hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể.

ü      Dầu Thánh được bảo quản và tôn kính tại một nơi chắc chắn trong cung thánh.

ü      Ghế của giám mục hay của linh mục chủ tế "phải nói lên nhiệm vụ của Ngài là chủ tọa cộng đoàn và điều hành buổi cầu nguyện".

ü      Giảng đài phải ở một nơi thích hợp trong nhà thờ, để loan báo Lời Chúa.

ü      Thánh đường phải có giếng rửa tội để cử hành bí tích Thánh Tẩy và có những b́nh nước thánh để nhắc các tín hữu nhớ đến những lời hứa ngày rửa tội.

ü      Thánh đường phải có nơi thích hợp để tiếp đón hối nhân đến bày tỏ ḷng thống hối và lănh nhận ơn tha thứ.

Thánh Đường cũng phải là nơi giúp tín hữu hồi tâm và thinh lặng cầu nguyện để nối dài và nội tâm hóa Thánh Lễ.  Thánh Đường c̣n mang ư nghĩa cánh chung.  Để vào Nhà Chúa, chúng ta bước qua ngưỡng cửa thánh đường nghĩa là từ giă thế giới tội lỗi để bước vào thế giới của Đời Sống Mới.  Thánh Đường hữu h́nh tượng trưng cho Nhà Cha, là nhà của tất cả con cái Thiên Chúa, luôn mở rộng đón mời mọi người.


Trở về mục lục - Trang Sau