Chương IV – Những Đường Lối Truyền Giáo

 

Dẫn nhập: Hiểu thế nào là Truyền giáo có thể xem là bước thứ nhất. Bước thứ hai là hiểu nội dung của Truyền giáo bao hàm những gì. Và bước thứ ba là hiểu công cuộc Truyền giáo cần được thực hiện bằng những đường lối nào. Trong Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ (Redemptoris Missio) Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đưa ra 9 đường lối Truyền giáo, bao gồm việc làm chứng cá nhân, đối thoại, thăng tiến con người, hội nhập văn hóa, loan báo, thiết lập các cộng đoàn Giáo Hội, v.v… Ở đây sẽ trình bày một số đường lối phù hợp hơn với lục địa Á Châu chúng ta.

 

I. CHỨNG TÁ ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

  1. Thật vậy, mọi Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải lấy gương mẫu đời sống và chứng tá lời nói để biểu dương con người mới mà họ đã mặc lấy nhờ phép Rửa ( …. ) , để những người khác nhìn thấy những việc lành của họ mà ngợi khen  Chúa Cha, cùng nhận thức đầy đủ hơn ý nghĩa đích thực của đời sống con người và mối dây liên kết toàn thể cộng đồng nhân loại.

     (Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội, 11)

  1. Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy; tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lý; tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lý thuyết. Hình thức đầu tiên của việc truyền giáo là chứng tá đời sống Kitô hữu; hình thức này là điều không thể thay thế được. Đức Kitô, Đấng mà chúng ta đang tiếp tục sứ mạng của Người, là “Vị chứng nhân” tuyệt hảo (Kh 1,5 ; 3,14) và là khuôn mẫu cho chứng tá Kitô giáo. Chúa Thánh Thần đang đồng hành với Giáo Hội trên bước đường của Giáo Hội, đồng thời liên kết Giáo Hội với lời chứng của Người về Đức Kitô (Ga 15,26-27).

Hình thức đầu tiên của chứng tá là chính đời sống của nhà truyền giáo, của gia đình Kitô hữu và của cộng đồng Giáo Hội. Hình thức này làm cho người ta nhìn thấy một lối sống mới. Cho dù vẫn có giới hạn và bất toàn của con người, nhưng khi nhà truyền giáo chân thành sống theo gương Đức Kitô, thì họ là một dấu chỉ về Thiên Chúa và về những thực tại siêu việt. Tuy vậy, mọi ngươi trong Giáo Hội, khi nỗ lực noi gương Thầy Chí Thánh, thì có thể và phải nêu lên chứng tá này; trong rất nhiều trường hợp, đây là cách thế duy nhất để là nhà truyền giáo.

Chứng tá Tin Mừng mà thế giới dễ cảm nhận nhất là chứng tá về thái độ lưu tâm đến con người và về lòng bác ái đối với những người nghèo, những người nhỏ bé và những người đang đau khổ. Tính vô vị lợi trong thái độ và trong hành động này tương phản sâu xa với thái độ ích kỷ hiện nay nơi con người, gợi lên những thắc mắc rõ ràng về Thiên Chúa và về Tin Mừng. Cũng vậy, việc dấn thân phục vụ hòa bình, công lý, nhân quyền, thăng tiến con người, là một chứng tá Tin Mừng, tùy nó chú ý nhiều đến con người và nhắm phát triển toàn diện con người đến  mức nào.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 42).

  1. Giáo Hội được mời gọi làm chứng cho Đức Kitô bằng cách bày tỏ những lập trường can đảm có tính ngôn sứ trước sự băng hoại của quyền lực chính trị hoặc kinh tế, bằng cách không tìm vinh quang cũng như của cải vật chất, bằng cách sử dụng những gì mình có để phục vụ những người nghèo khổ nhất, và bằng cách noi gương đời sống đơn sơ của Đức Kitô. Giáo Hội và các nhà truyền giáo cũng phải nêu lên chứng tá về lòng khiêm tốn, trước hết đối với chính mình, khi dám tự kiểm thảo ở mức độ cá nhân cũng như cộng đoàn, ngõ hầu sửa chữa lại, trong cách sống của mình, những gì đi ngược với Tin Mừng và làm biến dạng dung nhan của Đức Kitô.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 43).

  1. Xác tín tầm quan trọng của các chứng nhân chính hiệu trong công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á, các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã tuyên bố :”Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được công bố bởi những người được thúc đẩy và linh hứng bởi tình thương Chúa Cha dành cho con cái Ngài, biểu lộ qua con người Giêsu Kitô. Việc công bố Tin Mừng là một sứ mạng đòi phải có những người thánh thiện làm cho người khác nhận biết và yêu mến Đấng Cứu Thế ấy qua chính đời sống mình. Ta chỉ có thể đốt lửa bởi một vật gì đó đang cháy. Thế nên, Tin Mừng chỉ có thể được loan báo một cách thành công tại Châu Á, khi các Giám Mục, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đang rạo rực tình yêu đối với Đức Kitô, khao khát làm cho Ngài được nhiều người nhận biết hơn, yêu mến và theo đuổi nhiều hơn. Kitô hữu nào giới thiệu Đức Kitô thì phải đưa sứ điệp mà mình sắp công bố  vào đời sống của mình .

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn  Giáo Hội tại Châu  Á, 23).

 

 

 

Trao đổi :

  1. 1.              Muốn anh chị em lương dân đón nhận Đức Giêsu và Tin Mừng của Người, người Công Giáo phải sống thế nào?
  2. 2.              Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, việc Phúc Am Hóa bằng chứng tá đời sống có những thuận lợi và khó khăn nào về phía khách quan và chủ quan?
  3. 3.              Do đâu mà đời sống của phần đông người giáo dân Việt nam không đủ lửa, không đủ nóng để lôi kéo anh chị em lương dân sống chung quanh? Phải chấn chỉnh tình trạng này bằng cách nào ?

 

II. ƯU TIÊN CHO VIỆC RAO GIẢNG

2.1 Một lời rao giảng sống động

  1. Không phải là thừa khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng và sự cần thiết của việc giảng dạy. “Làm sao tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Vì tin là do bởi đã được nghe, còn nghe là nhờ việc giảng truyền lời Chúa Kitô” (Rm 10,14-17). Qui luật này ngày xưa đã được Tông Đồ Phaolô đề ra, ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Đúng thế, giảng truyền tức là dùng lời nói công bố một sứ điệp vẫn luôn luôn cần thiết. Chúng tôi thừa biết rằng con người hiện đại đã chán chê ngôn từ nên thường tỏ ra mệt mỏi khi nghe, và còn tệ hơn nữa, tỏ ra như đã được miễn nhiễm đối với lời nói. Chúng ta cũng biết ý kiến của nhiều nhà tâm lý học và xã hội học, họ khẳng định rằng con người hiện đại vượt qua lời nói, từ nay vô hiệu và vô ích, và hiện đang sống trong nền văn minh của hình ảnh. Những sự kiện đó hẳn phải thúc đẩy chúng ta vận dụng các phương tiện hiện đại của nền văn minh này vào việc chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Vả lại, nhiều cố gắng rất có giá trị đã được thực hiện trong đường hướng này. Chúng tôi chỉ có thể ca ngợi và khuyến khích những cố gắng đó phát triển thêm nữa. Mặc dù ngày nay biết bao nhiêu ngôn từ trống rỗng khiến cho thiên hạ mệt mỏi, và mặc dù có rất nhiều hình thức truyền thông khác hợp với thời đại hơn, tuy nhiên không được vì thế mà coi nhẹ hiệu lực còn mãi của lời nói hay mất tin tưởng ở lời nói. Lời nói mãi mãi còn hợp với thời đại, nhất là khi nó lại mang quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vậy phương châm của Thánh Phaolô vẫn còn phù hợp với thời đại hiện nay: ”Tin là bởi đã được nghe”: chính nhờ Lời đã nghe mà dẫn tới đức tin.

(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, 42).

  1. Không thể có sự phúc âm hóa thật sự nếu không có việc công khai loan báo Đức Giêsu là Chúa. Chính vì thế, Công Đồng Vatican II và Huấn Quyền Giáo Hội đã trả lời cho tình trạng hiểu biết lẫn lộn và mơ hồ về bản chất thật sự của việc truyền giáo bằng cách luôn nhấn mạnh tới ưu tiên phải dành cho việc giới thiệu Đức Giêsu Kitô trong hết mọi công tác phúc âm hóa. Thế nên, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết rõ ràng rằng: “không có việc phúc âm hóa thật sự, nếu trong đó người ta chưa công bố tên, giáo lý, cuộc đời, các lời hứa, Nước Trời và mầu nhiệm của Đức Giêsu Na-da-rét, Con Thiên Chúa”. Đây chính là điều mà các thế hệ Kitô hữu đã làm trong bao nhiêu thế kỷ qua.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á,19).

  1. Việc loan báo luôn luôn có tính cách ưu tiên trong sứ vụ truyền giáo. Giáo Hội không thể tránh né mệnh lệnh minh nhiên của Đức Kitô. Giáo Hội không thể không cho con người biết Tin Mừng về việc họ được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. “Việc loan báo Tin Mừng cũng luôn luôn bao hàm (…) lời công bố minh bạch rằng, nơi Đức Giêsu Kitô, ơn cứu độ được ban cho mọi người như tặng phẩm do ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa”. Tất cả mọi hình thức hoạt động truyền giáo đều hướng đến lời công bố ấy, lời công bố mặc khải và dẫn đưa con người vào mầu nhiệm được giữ kín từ trước muôn đời và đã được bày tỏ nơi Đức Kitô (Ep 3,3-9 ; Cl 1,25-29); đó là mầu nhiệm trung tâm trong sứ vụ và đời sống của Giáo Hội, đồng thời tạo nên cột trụ của toàn thể việc loan báo Tin Mừng.

Trong thực tại phức tạp của sứ vụ, lời loan báo đầu tiên có một vai trò trọng tâm và không thể thay thế được, bởi vì lời loan báo ấy đưa con người vào trong “mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa, Đấng mời gọi con người thắt chặt mối tương quan cá vị với Người trong Đức Kitô”, và vì lời loan báo ấy mở ra con đường cho việc sám hối. Đức tin nẩy sinh từ lời loan báo này và mọi cộng đoàn Giáo Hội bắt nguồn và được nuôi sống từ lời đáp trả cá nhân của mỗi tín hữu trước lời loan báo đó.

Đối tượng của lời loan báo là Đức Kitô chịu đóng đinh, chết và sống lại: Người hoàn thành một cuộc giải phóng trọn vẹn và đích thực khỏi sự thống trị của sự dữ, tội lỗi và sự chết; nơi Người Thiên Chúa ban “sự sống mới”, sự sống thần thiêng và vĩnh cửu. Đó là Tin Mừng làm biến đổi con người và lịch sử con người, đồng thời là Tin Mừng mà mọi dân tộc đều có quyền được nghe biết.

Lời loan báo này phải được thực hiện trong bối cảnh của cuộc sống con người và của các dân tộc đón nhận lời loan báo. Lời loan báo ấy cũng phải được thực hiện trong thái độ yêu thương và trân trọng đối với người nghe, bằng ngôn ngữ cụ thể và thích ứng với các hoàn cảnh. Trong lời loan báo này, Chúa Thánh Thần hoạt động và thiết lập mối dây hiệp thông giữa nhà truyền giáo với các thính giả, đó là điều có thể thực hiện được, tùy mức độ họ cùng nhau hiệp thông với Chúa Cha nhờ Đức Kitô.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 44).

  1. Lời loan báo không bao giờ là một hành động cá nhân, vì được thực hiện trong sự hiệp nhất với toàn thể công đoàn Giáo Hội. Nhà truyền giáo hiện diện và hành động do sự ủy nhiệm và ngay cả khi làm việc một mình, nhà truyền giáo vẫn được nối kết với hoạt động loan báo Tin Mừng của toàn thể Giáo Hội bằnh những mối dây vô hình nhưng chặt chẽ. Sớm muộn gì các thính giả cũng sẽ thoáng nhận thấy đàng sau nhà truyền giáo là cộng đoàn đã sai phái họ và đang nâng đỡ họ.

Lời loan báo được sinh động nhờ đức tin, đó là yếu tố mang lại cho nhà truyền giáo sự phấn khởi và lòng hăng say. Để xác định thái độ này, sách Công vụ và thư Thánh Phaolô cũng nói:  “… tin tưởng vào Thiên Chúa của chúng tôi mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua cuộc chiến đấu gian khổ” (1 Tx 2,2). “Anh em hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban Lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi được mạnh dạn nói, như bổn phận tôi phải nói “ (Ep 6,19-20).

Trong việc loan báo Đức Kitô cho những người ngoài Kitô giáo, nhà truyền giáo xác tín rằng, nơi cá nhân cũng như nơi các dân tộc, nhờ Chúa Thánh Thần hoạt động, đã có sẵn một thái độ mong chờ – cho dù tiềm ẩn – nhận biết chân lý về Thiên Chúa, về con người, về con đường đưa tới sự giải phóng khỏi tội lỗi và sự chết. Lòng nhiệt thành loan báo Đức Kitô phát xuất từ việc người ta đáp lại sự mong chờ đó một cách xác tín; chính vì thế, nhà truyền giáo không được nản lòng, cũng không được khước từ việc làm chứng, ngay cả khi họ được mời gọi để biểu lộ đức tin trong môi trường thù nghịch hoặc dửng dưng. Họ biết rằng Thánh Thần của Chúa Cha nói trong họ, và họ có thể nói lại lời các Tông Đồ: ”Chúng tôi cùng với Thánh Thần, xin làm chứng về tất cả những diều đó” (Cv 5,32). Họ biết mình không loan báo chân lý của con người nhưng là “Lời của Thiên Chúa”, Lời có sức mạnh nội tại và mầu nhiệm (Rm 1,16).

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 45).

2.2  Loan báo Đức Giêsu Kitô tại Á Châu

  1. Giáo Hội Á Châu càng náo nức với nhiệm vụ loan báo Đức Giêsu Kitô, vì biết rằng “nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, nơi nhiều cá nhân và nhiều dân tộc đã có sự khao khát, dù không ý thức, được biết sự thật về Thượng Đế, về con người và về cách thế làm sao chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết (…). Giáo Hội rao giảng Tin Mừng chỉ vì muốn tuân theo mệnh lệnh của Đức Kitô, bởi biết rằng ai cũng có quyền được nghe Tin Mừng của một Thiên Chúa đã sẵn sàng tự mạc khải và tự hiến tế mình cho con người nơi Đức Kitô. Làm chứng cho Đức Giêsu Kitô chính là sự phục vụ cao đẹp nhất mà Giáo Hội có thể cống hiến cho các dân tộc tại Châu Á, vì nó đáp ứng nguyện vọng sâu xa của họ là tìm được Đấng Tuyệt Đối, đồng thời nó cho biết những sự thật và những giá trị cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con người.

Ý thức sâu xa về sự phức tạp do có quá nhiều tình huống khác nhau tại Châu Á, và vì muốn “sống theo sự thật và trong tình bác ái” (Ep 4,15), nên Giáo Hội luôn công bố Tin Mừng với sự tôn trọng và quý mến đối với những người nghe. Loan báo mà vẫn tôn trọng các quyền lương tâm sẽ không xâm phạm tự do của con người, vì đức tin luôn luôn đòi phía cá nhân phải có sự hưởng ứng tự do tự nguyện. Tuy nhiên, tôn trọng không có nghĩa là không được phép công khai loan báo Tin Mừng một cách nguyên vẹn. Nhất là trong bối cảnh có quá nhiều nền văn hóa và tôn giáo tại Châu Á, cần phải nói rõ rằng “ không bao giờ vì tôn trọng và yêu quý các tôn giáo ấy, cũng chẳng bao giờ vì tính phức tạp của các vấn đề được đặt ra mà yêu cầu Giáo Hội rút lui không công bố Đức Giêsu Kitô cho những người không phải là Kitô hữu. Năm 1986 trong lúc viếng thăm An Độ, tôi đã có dịp nói rõ: “Con đường Giáo Hội đến với các tôn giáo khác là con đường kính trọng thật sự. Một sự kính trọng mang hai ý nghĩa: một đàng tôn trọng con người trong hành trình tìm kiếm những giải đáp cho các vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, đàng khác tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con người. Thật vậy, các nghị phụ Thượng Hội Đồng sẵn sàng nhìn nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi các xã hội, văn hóa và tôn giáo Á Châu, vì qua đó Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu đón nhận sự sống sung mãn nơi Đức Kitô.

Tuy nhiên, trong những cuộc tham khảo diễn ra trước Thượng Hội Đồng, nhiều giám mục Á Châu đã nêu lên những khó khăn khi công bố Đức Giêsu là vị Cứu Tinh duy nhất. Trong Hội Nghị, các vị cũng mô tả tình hình ấy như sau:”Một số tín đồ của các tôn giáo lớn tại Á Châu không gặp vấn đề gì khi chấp nhận Đức Giêsu là hiện thân của Thần Minh hay Đấng Tuyệt Đối, hoặc như một Đấng “giác ngộ”. Nhưng thật khó cho họ phải coi Ngài là hiện thân duy nhất của Thần Minh. Thật ra, nỗ lực chia sẻ ơn đức tin đối với Đức Giêsu như là vị Cứu Tinh duy nhất đã đụng phải những khó khăn về triết học, văn hóa và thần học, nhất là nhìn từ những niềm tin có trong các tôn giáo lớn của Châu Á, vốn quyện rất chặt với các giá trị văn hóa và các thế giới quan riêng biệt.

Theo ý kiến của các nghị phụ Thượng Hội Đồng những khó khăn ấy còn được tăng thêm do sự kiện Đức Giêsu thường được cho là xa lạ với người Á Châu. Thật là nghịch lý khi đại đa số người Á Châu có khuynh hướng coi Đức Giêsu, một người sinh ra trên chính mảnh đất Á Châu, là một người Tây Phương hơn là người Á Châu. Tin Mừng được loan báo bởi các nhà truyền giáo Tây Phương hẳn là không thể không bị ảnh hưởng bởi những nền văn hóa xuất xứ của họ. Các nghị phụ nhìn nhận đây là một sự kiện không thể tránh được trong lịch sử truyền giáo tại Châu Á. Đồng thời các ngài tận dụng cơ hội này để “bày tỏ một cách đặc biệt sự biết ơn của mình đối với các nhà truyền giáo, nam lẫn nữ,  tu sĩ lẫn giáo dân, ngoại quốc lẫn bản địa, đã mang sứ điệp của Đức Giêsu Kitô và ơn đức tin đến. Các ngài cũng muốn có lời đặc biệt để bày tỏ lòng biết ơn với tất cả các Giáo Hội đã gửi và còn tiếp tục gửi các nhà truyền giáo đến Châu Á. Các nhà rao giảng Tin Mừng có thể tìm được can đảm nhờ vào kinh nghiệm của thánh Phaolô, người đã tham gia đối thoại với các giá trị triết học, văn hóa và tôn giáo của người nghe (Cv 14,13-17; 17,22-31). Ngay cả các Công Đồng chung của Giáo Hội từng đưa ra những giáo lý có sức ràng buộc Giáo Hội cũng phải sử dụng các tài nguyên ngữ học, triết học và văn hóa có sẵn để làm việc ấy. Thế là, các tài nguyên này đã trở thành một tài sản chung của cả Giáo Hội, được dùng để diễn tả giáo lý về Đức Kitô một cách thích hợp và mang tính phổ quát. Chúng là một phần trong di sản đức tin cần phải thu dụng lấy rồi chia sẻ lại mỗi khi tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau. Thật là một thách đố vượt bậc khi tìm cách loan báo Đức Giêsu sao cho các dân tộc Á Châu có thể nhận ra Ngài, mà vẫn trung thành được cả với giáo lý thần học của Giáo Hội lẫn gốc gác Á Châu của mình.

Muốn giới thiệu Đức Giêsu Kitô là Vị Cứu Tinh duy nhất, chúng ta cần phải theo một phương pháp sư phạm, đưa người ta dần dần tới chỗ thủ đắc trọn vẹn mầu nhiệm ấy. Cụ thể hơn, phúc âm hóa sơ khởi cho những người ngoài Kitô giáo và tiếp tục loan báo Đức Giêsu cho những người đã tin là hai công việc phải được tiến hành khác nhau. Khi loan báo Đức Giêsu Kitô lần đầu chẳng hạn, “phải giới thiệu Đức Giêsu Kitô như Đấng thỏa mãn những khát vọng sâu xa của con người, được diễn tả qua các thần thoại và văn chương dân gian của các dân tộc Á Châu”. Nói chung, nên dành ưu tiên cho phương ph1p kể chuyện gần gũi với các hình thức văn hóa của Châu Á. Thật ra, việc loan báo Đức Giêsu Kitô có thể đạt hiệu quả nhất với phương pháp kể lại cuộc đời Ngài, như các sách Tin Mừng đã làm.

Thượng Hội Đồng còn nhắc nhở việc giảng dạy giáo lý tiếp theo sau đó nên theo “phương pháp sư phạm gợi ý, nghĩa là vận dụng các câu chuyện, dụ ngôn và biểu tượng, là những điều hết sức đặc thù trong phương pháp giảng dạy của người Á Châu. Chính Đức Giêsu trong khi thi hành sứ vụ cũng đề cao giá trị của việc tiếp xúc cá nhân. Việc này đòi hỏi người rao giảng Tin Mừng phải quan tâm tới hòan cảnh của người nghe, để có thể loan báo cho họ cách phù hợp với trình độ trưởng thành của họ, theo một hình thức và dùng một ngôn ngữ thích hợp. Nhìn trong viễn tượng ấy, đã nhiều lần các nghị phụ nhấn mạnh rằng phải rao giảng Tin Mừng bằng cách nào đánh động được cảm quan của các dân tộc Á Châu, giới thiệu cho họ những hình ảnh nào về Đức Giêsu mà tâm trí cũng như văn hóa Á Châu có thể lĩnh hội được, nhưng đồng thời vẫn phải trung thành với Kinh Thánh và Truyền Thống. Chẳng hạn như giới thiệu “Đức Giêsu Kitô là Thầy Dạy sự khôn ngoan, là Lương Y chữa lành bệnh, là Vị Giải Phóng, là nhà Hướng Dẫn tâm linh, là Đấng Giác Ngộ, là Bạn Hữu thân tình của người nghèo, là người Sa-ma-ri nhân hậu, là Mục Tử tốt lành, là Người Sống tùng phục”. Có thể giới thiệu Đức Giêsu như Sự Khôn Ngoan nhập thể của Thiên Chúa sẽ làm cho những “hạt giống” của sự khôn ngoan vốn đã có nơi cuộc sống, tôn giáo và dân tộc Á Châu được sinh hoa kết trái. Nói với những dân tộc đang chịu đựng quá nhiều đau khổ tại Châu Á, tốt nhất nên loan báo Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh “có thể mang lại ý nghĩa cho những người đang phải chịu đựng những sự đau khổ không thể giải thích được”.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn  Giáo Hội tại Châu Á, 20).

2.3 Những trở ngại trong việc Loan báo

55. Từ phía Kitô hữu

Trở ngại bên trong :

a. Có thể cuộc sống Kitô hữu biểu lộ một chứng tá không tương hợp với đức tin mình sống, vì thế có khoảng cách giữa  lời nói và việc làm, giữa sứ điệp Kitô giáo và cách sống của người ấy.

b. Kitô hữu có thể thiếu sót trong việc loan truyền Phúc Am “do trễ nải, ngại ngùng, xấu hổ – điều mà thánh Phaolô từng gọi là “hổ ngươi về Phúc Am” – hoặc do những ý nghĩ sai lạc “về vấn đề chương trình cứu độ của Thiên Chúa.”

c. Kitô hữu không quý, không trọng các tín đồ cũng như các truyền thống tôn giáo khác thì khó có thể loan truyền Tin Mừng cho họ được.

d. Nơi một số Kitô hữu, có một thái độ tự tôn về mặt văn hóa. Điều đó có thể đưa đến việc cho rằng sứ điệp Kitô giáo lại gắn liền với một nền văn hóa đặc loại cần phải áp đặt cho những kẻ trở lại.

(Hội Đồng Tòa Thánh  liên lạc với các tôn giáo,  Đối Thoại và Rao Truyền, 73).

56. Từ bên ngoài cộng đồng Kitô giáo

Trở ngại bên ngoài :

  1. Gánh nặng lịch sử làm cho việc rao truyền khó khăn hơn, vì lắm khi một vài phương pháp truyền giáo được áp dụng thưở trước đã dấy lên nhiều nghi ngờ và lo sợ nơi những tín đồ các tôn giáo khác.
  2. Các tín đồ các tôn giáo khác có thể sợ rằng công cuộc truyền bá Phúc Am của Giáo Hội có thể làm tiêu tan tôn giáo văn hóa của họ.
  3. Một quan điểm khác về nhân quyền hoặc việc không thực thi nhân quyền có thể làm tổn thương sự tự do tôn giáo.
  4. Việc bắt bớ có thể làm cho việc rao truyền đặc biệt khó khăn, kể cả có lúc không thực hiện được. Tuy nhiên, cần nhớ rằng Thánh giá là nguồn suối sự sống “Máu các vị tử đạo là hạt giống Kitô hữu.”
  5. Việc đồng hóa một tôn giáo cá biệt với nền văn hóa quốc gia, hoặc với một hệ thống chính trị, tạo ra một bầu khí tương dung.
  6. Trong một vài nơi, luật cấm trở lại đạo, hoặc những người đã trở lại theo Kitô giáo gặp phải những vấn đề xã hội nghiêm trọng như bị tẩy chay ra khỏi cộng đồng tôn  giáo gốc, khỏi môi trường xã hội hoặc khung cảnh văn hóa của họ.
  7. Trong một bối cảnh đa nguyên tôn giáo, nguy cơ của thái độ thờ ơ, tương đối, chắp vá bừa bãi về mặt tôn giáo, tạo nên những trở ngại cho việc rao truyền Phúc Am.

    (Hội Đồng Tòa Thánh liên lạc với các tôn giáo, Đối Thoại và Rao Truyền, 74).

 

 

 

Trao đổi:

  1. 1.              Thế nào là loan báo Tin Mừng tại Việt Nam?
  2. 2.              Làm thế nào để giáo dân Việt Nam quan tâm đến việc giới thiệu Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người cho những người không Công Giáo sống chung quanh?
  3. 3.              Trong xã hội ta hiện nay, việc loan báo Tin Mừng gặp phải những khó khăn nào từ bên trong và những khó khăn nào từ bên ngoài? Phải làm gì để những khó khăn ấy mỗi ngày mỗi giảm bớt?

 

 

III. HIỆP THÔNG ĐỂ TRUYỀN GIÁO

3.1 Hiệp thông vừa là nguồn mạch (gốc) vừa là kết quả (hoa trái)  của truyền giáo :

  1. Chúng ta lấy lại hình ảnh cây nho và cành nho trong Kinh Thánh. Hình ảnh này giúp chúng ta nhận định về tính dồi dào và sức sống. Được tháp nhập vào thân nho, nhận sức sống từ thân cây, nên các cành nho được kêu gọi trổ sinh hoa trái (Ga 15,5). Đơm hoa kết trái là một đòi hỏi cốt yếu trong đời sống của người Kitô hữu cũng như của Giáo Hội. Ai không sinh hoa trái là không sống trong sự hiệp thông. Hiệp thông với Đức Kitô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau, là điều kiện không thể thiếu để sinh hoa trái (= loan báo Tin Mừng).

Hiệp thông và sứ vụ truyền giáo liên kết mật thiết với nhau, cả hai giải thích và bao hàm nhau, đến độ sự hiệp thông cho thấy nguồn gốc và đồng thời cả kết quả của việc truyền giáo: Hiệp thông mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp thông. Luôn luôn cùng một Thánh Thần duy nhất, Đấng kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội, sai đi truyền giảng Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Về phần mình, Giáo Hội ý thức rằng sự hiệp thông mà Giáo Hội đã đón nhận như một hồng ân, là được ban cho hết thảy mọi người. Như thế, Giáo Hội cảm nhận được rằng mình mắc nợ với hết mọi người và với từng người, về hồng ân đã lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần, Đấng gieo vào lòng người tín hữu tình mến của Chúa Giêsu Kitô, là sức mạnh nối kết bên trong và đồng thời phát triển bên ngoài. Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội phát xuất từ chính bản chất của Giáo Hội, như ý định của Đức Kitô, đó là trở thành “dấu chỉ và khí cụ …. của sự hiệp nhất nhân loại”. Sứ vụ này nhắm bày tỏ và giúp mọi người sống sự hiệp thông “mới”, sự hiệp thông đã đến trong lịch sử nhân loại qua Con Thiên Chúa làm người.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Kitô Hữu Giáo Dân,  32).

3.2 Hiệp thông theo Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á

       Dẫn nhập: Tông huấn dành cả chương V trình bày về “Hiệp thông và đối thoại để truyền giáo”. Tông Huấn không khai triển ý niệm Hiệp thông, nhưng nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiệp Thông và những gì phải làm để Hội Thánh tại Châu Á, nơi có nhiều dân tộc , nhiều nền văn hóa, nhiều tôn giáo.

1/ Tầm quan trọng của Hội Thánh tại  Châu Á

Tông Huấn nhắc lại ý định của Tình yêu Thiên Chúa muốn Giáo Hội là bí tích cứu độ nhân loại, nên Giáo Hội không thể chỉ là tổ chức xã hội hoặc cơ quan cứu trợ nhân đạo, nhưng Giáo Hội phải trở thành nơi ưu việt để Thiên Chúa và loài người gặp gỡ nhau. Cho nên việc Hiệp Thông giữa Chúa Kitô và tất cả những người đã được thanh tẩy là chính tâm điểm của mầu nhiệm Giáo Hội. Do đó mục đích trước nhất của Giáo Hội là trở thành bí tích hợp nhất thân mật giữa con người với Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ sự hợp nhất ấy mà mọi người được hợp nhất vơi nhau, nên Giáo Hội còn là bí tích hợp nhất giữa mọi người với nhau nữa. Sống giữa nhiều dân tộc, nhiều nền văn hóa, nhiều tôn giáo khác nhau tại Châu Á, Giáo Hội phải là “Giáo Hội hiệp thông”. Đây là điều tối quan trọng, bởi vì có Hiệp Thông đích thực thì Giáo Hội mới là bằng chứng để các dân tộc Á Châu thấy mà tin tưởng (số 24).

 

  1. Thể theo ý định muôn đời của Chúa Cha, Giáo Hội đã được báo trước từ thưở ban sơ của thế giới, rồi được chuẩn bị trong Cựu ước, được Đức Kitô thành lập và được Chúa Thánh Thần giới thiệu cho thế  giới trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội ấy “đang tiến bước trong cuộc lữ hành của mình giữa bao bách hại của thế giới và giữa bao an ủi của Thiên Chúa, đang vẫn nỗ lực trở nên hoàn thiện trong vinh quang thiên quốc. Vì Thiên Chúa đã muốn “toàn thể nhân loại trở thành một dân của Chúa, làm nên một thân thể của Đức Kitô và được xây dựng thành một đền thờ của Chúa Thánh Thần”, nên Giáo Hội trong thế giới này chính là “kế hoạch yêu thương nhân loại của Thiên Chúa mà con người có thể trông thấy, chính là bí tích của sự cứu độ. Bởi đó không thể hiểu Giáo Hội chỉ như một tổ chức xã hội hay cơ quan phục vụ sự an sinh cho loài người. Dù cưu mang trong mình nhiều con người tội lỗi, Giáo Hội cũng phải được chúng ta coi là nơi ưu tiên cho Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, là nơi Thiên Chúa quyết định mạc khải đời sống nội tâm nhiệm mầu của mình và thực hiện chương trình cứu độ thế giới.

Trọng tâm của mầu nhiệm Giáo Hội chính là mối hiệp thông nối kết Đức Kitô Lang Quân với mọi người đã chịu phép Rửa. Nhờ sự hiệp thông sống động và có khả năng đem lại sự sống ấy, “các Kitô hữu không còn thuộc về mình nữa, mà đã trở thành của Chúa.” Một khi kết hợp với Chúa Con trong mối dây yêu thương của Thánh Thần, các Kitô hữu cũng kết hợp với Chúa Cha, và từ sự hiệp thông này mà các Kitô hữu được hiệp thông với nhau qua Đức Kitô trong Thánh Thần. Nếu thế, mục tiêu trước tiên của Giáo Hội là làm bí tích diễn tả sự kết hiệp nội tâm của con người với Thiên Chúa và, vì sự hiệp thông giữa con người với nhau xuất phát từ sự hiệp thông của họ với Thiên Chúa, Giáo Hội cũng là bí tích diễn tả sự thống nhất của nhân loại.

Một đòi hỏi thiết yếu của cuộc sống trong Đức Kitô là hễ ai hiệp thông với Chúa thì phải sinh hoa kết quả:”Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Như thế, thật là đúng khi bảo rằng ai không sinh hoa kết quả, thì ấy là người đã không sống trong sự hiệp thông: ”Cành nào không sinh hoa trái thì Cha Thầy sẽ tỉa đi” (Ga 15,2). Hiệp thông với Đức Kitô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, chính là điều kiện cần thiết để sinh hoa kết quả: và sự hiệp thông với người khác, một món quà của Đức Kitô và Thánh Thần, chính là hoa quả tuyệt vời nhất mà cành cây có thể sinh ra. Hiểu như thế thì hiệp thông và tuyền giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm thấu và bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói “hiệp thông vừa là gốc vừa là hoa trái của việc truyền giáo: hiệp thông đưa tới truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành trong sự hiệp thông”

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 24).

 

2/ Những gì phải làm để Hiệp thông tại Châu Á

  1. a.              Hiệp thông với Thiên Chúa

Muốn Hiệp thông với Thiên Chúa phải trung thành với việc tìm hiểu và lắng nghe Lời Chúa, phải cầu nguyện và chiêm niệm, phải cử hành các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, phải nêu gương sống hiệp thông thực sự cũng như sống yêu thương liêm chính. Người dân Á Châu rất dễ tỏ lòng kính trọng và sẵn sàng nghe theo những người đạo đức thật sự. Do đó những việc như cầu nguyện, ăn chay, sống khổ hạnh, từ bỏ, khiêm nhường, thanh bạch, trầm lặng …. thường được người dân Á Châu rất quí mến. Tông Huấn nhắc nhở rằng: phải có lửa thì mới chia lửa cho người khác được, nghĩa là phải có mới cho được. Do đó Kitô hữu tại Châu Á phải sống theo một linh đạo truyền giáo trong đó cầu nguyện và chiêm niệm là trọng tâm (số 23).

  1. Cộng đoàn Kitô hữu càng đâm rễ sâu trong kinh nghiệm với Thiên Chúa, kinh nghiệm phát xuất từ một lòng tin sống động, thì cộng đoàn ấy càng đáng tin cậy khi loan báo cho người khác Nước Chúa đã hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô. Điều này sẽ xảy ra khi họ trung thành lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và chiêm niệm, cử hành mầu nhiệm Đức Giêsu trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, và nêu gương hiệp thông thật sự trong đời sống cũng như có đức ái trọn vẹn. Giáo Hội địa phương phải thiết tha với việc chiêm ngắm Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, đồng thời phải không ngừng nỗ lực cho có sự kết hợp mật thiết hơn với Ngài.  Sứ mạng ấy là hoạt động với tinh thần chiêm niệm và chiêm niệm bằng hoạt động. Bởi đó một nhà truyền giáo không có kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa trong kinh nguyện và chiêm niệm sẽ ảnh hưởng rất ít về mặt thiêng liêng hoặc sẽ ít thành công trong việc truyền giáo. Đây là một kết luận rút ra từ kinh nghiệm thi hành tác vụ linh mục của tôi (….): Tương lai của việc truyền giáo tùy thuộc phần lớn vào đời sống chiêm niệm. Tại Châu Á, quê hương của các tôn giáo lớn qua đó không những  cá nhân mà cả dân tộc bày tỏ lòng khát khao thế giới thần linh, Giáo Hội được kêu gọi hãy trở thành một Giáo Hội cầu nguyện, hết sức thiêng liêng, cả khi dấn thân vào các bận tâm nhân bản và xã hội trước mắt. Mọi Kitô hữu cần phải sống một linh đạo truyền giáo lấy cầu nguyện và chiêm niệm làm trọng tâm.

Tại Châu Á, một người có tôn giáo thật sự sẽ sớm được kính trọng và được hưởng ứng. Cầu nguyện, chay tịnh và khổ hạnh dưới nhiều hình thức khác nhau là những điều rất được trân trọng. Từ bi, siêu thoát, khiêm nhường, giản dị và thinh lặng là những điều mà tín đồ của bất cứ tôn giáo nào cũng coi là những giá trị lớn. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng lưu ý rằng muốn việc cầu nuyện không trở nên xa lạ với sự thăng tiến con người, “phải liên kết công tác xây dựng công lý, bác ái và từ thiện với một đời sống cầu nguyện và chiêm niệm thật sự, và linh đạo này cũng phải là cội nguồn sinh ra mọi công tác phúc  âm hóa”.

Xác tín tầm quan trọng của các chứng nhân chính hiệu trong công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á, các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã tuyên bố : ”Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được công bố bởi những người được thúc đẩy và linh hứng bởi tình thương Chúa Cha dành cho con cái Ngài, biểu lộ qua con người Giêsu Kitô. Việc công bố Tin Mừng là một sứ mạng đòi phải có những người thánh thiện làm cho người khác nhận biết và yêu mến Đấng Cứu Thế ấy qua chính đời sống mình. Ta chỉ có thể đốt lửa bởi một vật gì đó đang cháy. Thế nên, Tin Mừng chỉ có thể được loan báo một cách thành công tại Châu Á, khi các Giám Mục, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đang rạo rực tình yêu đối với Đức Kitô, khao khát làm cho Ngài được nhiều người nhận biết hơn, yêu mến và theo đuổi nhiều hơn. Kitô hữu nào giới thiệu Đức Kitô thì phải đưa sứ điệp mà mình sắp công bố vào trong đời sống của mình.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 24).

b. Hiệp thông trong nội bộ Giáo Hội.

–                    Các chủ chăn trong Giáo Hội.

–                    Các Giáo Hội địa phương, các giáo phận.

–                    Các giáo xứ.

–                    Các cộng đoàn nhỏ, các phong trào canh tân..

  1. Quy tụ chung quanh Đấng kế vị Thánh Phêrô, cùng cầu nguyện và làm việc với nhau, các Giám mục trong hội Nghị đặc biệt dành cho Châu Á  lần này đã trở thành hiện thân của sự hiệp thông Giáo Hội giữa các Giáo Hội địa phương vô cùng khác biệt được lãnh đạo bằng đức ái. (….) Thật vậy, chính khi đặt mình trong viễn tượng hiệp thông Giáo Hội, người ta mới thấy rõ hơn thẩm quyền của Đấng kế vị thánh Phêrô mang tính phổ quát, không phải một quyền hành mang tính pháp lý trên các Giáo Hội địa phương mà là một sự trổi vượt mang tính mục vụ nhằm xây dựng sự hiệp nhất trong đức tin và đời sống toàn thể Dân Chúa. Ý thức rằng “trong vai trò Đấng kế vị Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng có nhiệm vụ hết sức độc đáo là bảo đảm và đẩy mạnh sự hiệp nhất trong Giáo Hội.
  2. Mỗi Giáo Hội địa phương phải được xây dựng vững vàng bằng cách minh chứng tinh thần hiệp thông với Giáo Hội, vì đây chính là bản chất làm cho cộng đoàn ấy là Giáo Hội . Các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã quyết định mô tả giáo phận là sự hiệp thông của các cộng đoàn chung quanh vị mục tử ; trong đó giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân tham gia cuộc “đối thoại bằng đời sống và bằng tâm hồn”, cuộc đối thoại được Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Giáo phận là nơi ưu tiên cho ta thấy cụ thể hình ảnh sự hiệp thông của các cộng đoàn giữa bao thực tế xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa, và kinh tế vô cùng phức tạp của Châu Á. Nói tới sự hiệp thông Giáo Hội là ngụ ý rằng mỗi Giáo Hội địa phương phải trở thành cái mà các nghị phụ Thượng Hội Đồng gọi là “Giáo Hội tham gia” hay đúng hơn là “Giáo hội mà trong đó mọi người có phần và phải góp phần”, tức là một Giáo Hội mà trong đó mọi người đều sống đúng ơn gọi riêng của mình và thi hành đúng vai trò riêng của mình. Muốn xây dựng cộng đoàn “hiệp thông để truyền giáo” và “truyền giáo bằng hiệp thông”, người ta cần phải nhìn nhận, phát triển và sử dụng hiệu quả đoàn sủng của mỗi thành phần trong Giáo Hội. Các riêng, cần cổ võ sự tham gia nhiều hơn nữa của giáo dân và các người tận hiến vào việc lập kế hoạch mục vụ và quyết định, thông qua các cơ chế mang tính tham gia như  Hội Đồng Mục Vụ và các Hội Nghị Giáo Xứ.
  3. Tại mỗi giáo phận, giáo xứ vẫn là nơi thông thường cho tín hữu qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo Hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội. Thế nên, các nghị phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các vị chủ chăn hãy nghĩ ra những phương cách mới mẻ và hữu hiệu để chăn dắt các tín hữu, làm sao cho mỗi người, nhất là người nghèo, cảm nhận được mình là một thành phần thực thụ của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa. Cùng với giáo dân lập kế hoạch mục vụ, điều đó phải trở thành một nét sinh hoạt bình thường của mọi giáo xứ. Thượng Hội Đồng lưu ý đặc biệt hơn nữa giới trẻ là thành phần mà “giáo xứ cần phải tạo nhiều điều kiện hơn để họ hiệp thông và cộng tác …” Không ai bị loại trừ một cách tiên thiên không cho tham gia trọn vẹn vào sinh hoạt và sứ mạng của giáo xứ chỉ vì gốc gác xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa hay giáo dục. Nếu mỗi môn đệ Đức Kitô có điều gì đó để cống hiến cho cộng đoàn, thì cộng đoàn cũng phải tỏ ra sẵn sàng tiếp nhận và sử dụng sự cống hiến ấy.
  4. Trong bối cảnh ấy và dựa trên kinh nghiệm mục vụ của mình, các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới giá trị của các Cộng đoàn Giáo Hội Cơ bản như một phương thế hữu hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông cộng tác trong các giáo xứ và giáo phận, và như một lực lượng thật sự cho công cuộc phúc âm hóa. Những tập thể nhỏ bé này sẽ giúp các tín hữu sống thành những cộng đoàn đức tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kitô hữu đầu tiên (Cv 2,44-47 ; 4,32-35). Các tập thể này còn giúp các thành viên sống Tin Mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc cho một xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh tình thương. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích Giáo Hội tại Châu Á, nơi nào có thể được, hãy coi các Cộng đoàn Giáo Hội Cơ bản ấy như một nét tích cực trong công tác phúc âm hóa của Giáo Hội. Nhưng các cộng đoàn ấy chỉ thực sự hữu hiệu, khi biết hiệp thông với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội toàn cầu, hiệp thông từ trong tâm hồn với các vị chủ chăn và Huấn Quyền của Giáo Hội, sẵn sàng mở rộng trong tinh thần truyền giáo, không rơi vào tình trạng cô lập hay triển khai theo một ý thức hệ nào như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết  trong Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng, số 58.
  5. Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận vai trò các Phong Trào Canh Tân trong việc xây dựng sự hiệp thông, tạo các cơ hội cho người ta kinh nghiệm Thiên Chúa một cách thâm sâu hơn qua đức tin và các bí tích, và cổ võ việc hoán cải đời sống. Những ai tham gia các hiệp hội và các phong trào ấy hãy góp tay xây dựng Giáo Hội địa phương, không coi mình như những tổ chức thay thế các cơ chế giáo phận và sinh hoạt giáo xứ. Sự hiệp thông trong Giáo Hội sẽ trở nên vững chắc hơn, khi các người lãnh đạo các phong trào ấy tại địa phương cùng làm việc chung với các vị chủ chăn trong tinh thần bác ái, vì lợi ích của mọi người (1 Cor 1,13).

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 25).

c. Sự liên đới giữa các Giáo Hội.

  1. Sự hiệp thông nội bộ trên đây sẽ giúp góp phần xây dựng sự liên đới giữa các Giáo Hội địa phương. Quan tâm tới các nhu cầu tại chỗ là điều hợp tình hợp lý và cần thiết, nhưng vì sự hiệp thông, các Giáo Hội địa phương vẫn phải cởi mở tiếp nhận nhau và cộntg tác với nhau, để dù dị biệt, các Giáo Hội ấy vẫn cho thấy và bảo vệ được mối hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu. Muốn hiệp thông thì phải hiểu nhau và có sự phối hợp trong việc thi hành sứ mạng, mà vẫn không làm hại tới sự tự trị và quyền lợi của mỗi Giáo Hội đúng theo truyền thống của Giáo Hội ấy về thần học, phụng vụ và thiêng liêng. Tuy nhiên, lịch sử cũng cho thấy sự hiệp thông  giữa các Giáo Hội Á Châu đã bị tổn thương như thế nào do những chia rẽ giữa các Giáo Hội ấy. Qua nhiều thế kỷ, quan hệ giữa các Giáo Hội khác nhau về quyền tài phán, về truyền thống phụng vụ và cách truyền giáo đã có lúc trở nên căng thẳng và khó khăn. Các Giám mục có mặt tại Thượng Hội Đồng này đã nhìn nhận rằng, thậm chí cho tới hôm nay trong nội bộ và giữa các Giáo Hội địa phương ở Châu Á thỉnh thoảng vẫn xảy ra những chia rẽ đáng tiếc, thường đi đôi với những sự khác nhau về nghi thức, ngôn ngữ, chủng tộc, giai cấp và ý thức hệ. Một số vết thương đã phần nào được chữa khỏi, nhưng vẫn chưa được lành hoàn toàn. Ý thức rằng chỗ nào yếu kém trong sự hiệp thông thì lời chứng và nỗ lực truyền giáo của Giáo Hội ở chỗ đó bị thiệt hại, các nghị phụ đã đề nghị những bước cụ thể để củng cố lại quan hệ giữa các Giáo Hội Á Châu. Ngoài những lời nói ủng hộ và khuyến khích thiêng liêng cần thiết, các nghị phụ còn đề nghị một sự phân phối linh mục cân bằng hơn, liên đới trong vấn đề tài chính một cách hữu hiệu hơn, trao đổi văn hóa và thần học, gia tăng các cơ hội cộng tác giữa các giáo phận với nhau.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 26).

d. Sự  liên đới với các tôn giáo

  1. Dựa trên Thần học của sự hiệp thông, Công Đồng Vatican II đã mô tả Giáo Hội là Dân Chúa đang hành hương, một dân mà không dân nào không có liên hệ cách này hay cách khác. Trên cơ sở đó, các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh mối liên hệ nhiệm mầu giữa Giáo Hội và tín đồ các tôn giáo khác của Châu Á, ghi nhận rằng các tín đồ ấy có liên hệ (với Giáo Hội) bằng nhiều cách và ở nhiều mức độ khác nhau. Giữa đông đảo các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo khác nhau như thế, “càng thấy sống đời sống Giáo Hội như một sự hiệp thông quan trọng thế nào”. Thật ra, công tác phục vụ sự hiệp nhất do Giáo Hội thực hiện có một tầm quan trọng đặc biệt tại Châu Á, vì tại đây có quá nhiều căng thẳng, chia rẽ và xung đột, do những khác biệt về chủng tộc, xã hội, văn hóa, ngôn ngữ, kinh tế và tôn giáo gây ra. Chính trong bối cảnh ấy các Giáo Hội địa phương ở Châu Á, hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô, cần cổ vũ sự hiệp thông nhiều hơn nữa trong tâm trí cũng như trong tâm hồn bằng sự cộng tác mật thiết hơn giữa các Giáo Hội với nhau. Một điều cũng quan trọng không kém đối với sứ mạng phúc âm hóa của họ là xây dựng các quan hệ với các Giáo Hội và các cộng đồng Kitô khác, cũng như với tín đồ các tôn giáo khác. Bởi đó, Thượng Hội Đồng nhắc lại sự dấn thân của Giáo Hội Á Châu với công tác cải thiện các quan hệ đại kết cũng như sự đối thoại giữa các tôn giáo, vì nhìn nhận rằng xây dựng sự hiệp nhất, nỡ lực hòa giải, thiết lập các dây liên đới, xúc tiến sự đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hóa, loại bỏ những thành kiến và gầy dựng sự tin tưởng giữa các dân tộc, đó chính là những công việc vô cùng quan trọng để Giáo Hội thi hành sứ mạng phúc âm hóa trên châu lục này. Muốn vậy, toàn thể cộng đồng Công Giáo phải thành thật xét mình, phải can đảm hòa giải và tiếp tục dấn thân đối thoại. Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba này, ai cũng thấy rõ là muốn có khả năng phúc âm hóa, Giáo Hội phải ra sức phục vụ cho sự nghiệp hiệp nhất ấy trong mọi chiều kích. Hiệp thông và truyền giáo phải đi đôi với nhau.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 24).

 

Trao đổi:

  1. 1.              Khi nói tới Hiệp Thông, người Công giáo phải hiểu như thế nào? (Ai hiệp thông với ai? hiệp thông trong những lãnh vực nào, trên nền tảng nào?)
  2. 2.              Tại sao Hiệp thông và Truyền giáo phải đi đôi với nhau? Hiệp thông mà không dẫn tới Truyền Giáo có thật sự là Hiệp Thông không? và Truyền Giáo mà không có Hiệp Thông thì sẽ như thế nào?
    1. 3.              Người ta nói “Giáo Hội Việt Nam chưa thể hiện rõ nét Tính Hiệp Thông”, các bạn nghĩ gì về nhận định ấy? Giáo Hội chúng ta còn yếu kém ở mặt nào? và cần phải đẩy mạnh Hiệp Thông với người ở trong và với người ở ngoài (Giáo Hội) như thế nào?

 

IV. ĐỐI THOẠI ĐỂ TRUYỀN GIÁO

1. Tầm quan trọng của đối thoại

Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á nhận định rằng: Giáo Hội đang phải thực hiện một cuộc Phúc âm hóa mới cho thế giới, vì thế giới đa số chưa biết Đức Giêsu Kitô, mà còn muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi sự tiến bộ và thịnh vượng của mình. Cho nên điều Giáo Hội phải quan tâm để Phúc âm hóa thế giới không phải là tìm những gì thiết yếu để nói cho thế giới , nhưng là nói những điều đó cách nào để thế giới hiểu rõ và sẵn sàng chấp nhận. Đức Gioan Phaolô II trong Tông Thư 2001 đã viết: ”Đối thoại có tầm quan trọng rất đặc biệt để thiết lập một nền tảng vững chắc cho hòa bình, và xua đuổi bóng ma dễ sợ của những cuộc chiến tranh tôn giáo đã nhiều phen làm cho lịch sử nhân loại phải vấy máu” (số 55). Như thế đối thoại ngày nay trở nên một thành tố cốt yếu trong sứ vụ Phúc âm hóa của Giáo Hội  (GHCA, 29).

  1. Cần phải mở một kỷ nguyên mới loan báo Tin Mừng không những vì sau hai ngàn năm vẫn còn một phần lớn gia đình nhân loại chưa nhận biết Đức Kitô, mà còn vì tình hình mà Giáo Hội cũng như thế giới đang sống trước thềm thiên niên kỷ mới này là một tình hình đặt ra nhiều thách đố đối với niềm tin tôn giáo và các chân lý phát xuất từ niềm tin ấy. Gần như ở đâu cũng thấy có xu hướng xây dựng sự tiến bộ và thịnh vượng mà không cần liên hệ với Thiên Chúa, đồng thời giản lược chiều kích tôn giáo của con người thành một chiều kích  thuộc lãnh vực riêng tư. Một xã hội mà bị tách ra khỏi chân lý căn bản nhất về con người hay bị tách khỏi quan hệ giữa con người với Đấng Tạo Hóa, chỉ có thể là càng ngày càng lạc xa nguồn sự sống, nguồn tình yêu và nguồn hạnh phúc thôi. Cái thế kỷ khủng khiếp đang tiến nhanh tới hồi kết, đã minh chứng cho ta thấy sự gì sẽ xảy ra khi người ta bỏ rơi sự thật và sự tốt lành để chạy theo quyền lực và sự bành trướng bản thân mình. Tân phúc âm hóa hay là lời kêu gọi hoán cải để lãnh ơn sủng và sự khôn ngoan, chính là nguồn hy vọng chính hiệu duy nhất cho phép ta nghĩ tới một thế giới tốt đẹp hơn và một tương lai sáng sủa hơn. Vấn đề còn lại không phải là Giáo Hội có điều gì quan trọng để nói với con người hôm nay không, mà là Giáo Hội phải nói điều ấy như thế nào cho minh bạch và thuyết phục.

Trong thời gian nhóm họp Công Đồng Vatican II, Đức Phaolô VI trong Thông điệp “Ecclesiam suam” đã tuyên bố rằng: vấn đề quan hệ giữa Giáo Hội và thế giới hôm nay chính là một trong những mối bận tâm lớn  nhất  của thời đại. Ngài viết rằng: “vấn đề ấy đã xuất hiện và mang tính khẩn trương tới mức tạo ra một gánh nặng trên tâm hồn chúng ta, cũng như trở thành một yếu tố kích thích, một lời mời gọi chúng ta”. Kể từ  Công Đồng ấy, Giáo Hội luôn tỏ ý muốn theo đuổi quan hệ ấy trong tinh thần đối thoại. Tuy nhiên, muốn đối thoại không phải chỉ là một chiến thuật để sống chung hòa bình  giữa các dân tộc; nhưng đó là một phần thiết yếu trong sứ mạng Giáo Hội, vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương của Chúa Cha với nhân loại thông qua Chúa Con trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Giáo Hội chỉ có thể hoàn thành sứ mạng của mình theo một cách giống như cách Thiên Chúa đã làm trong Đức Giêsu Kitô: Ngài đã trở thành con người, chia sẻ cuộc sống con người và nói bằng ngôn ngữ loài người để truyền đạt sứ điệp cứu độ. Sự đối thoại mà Giáo Hội đề xuất được xây dựng trên nền tảng là logic của sự Nhập Thể (đã làm người, thì sinh sống ăn nói như mọi người, với mọi người để loan báo và thực hiện sứ điệp cứu độ). Bởi đó không phải vì điều gì khác hơn là do liên đới một cách nhiệt tình, vô vị lợi mà Giáo Hội đã mở cuộc đối thoại với những con người Á Châu đang tìm kiếm sự thật trong tình thương.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 29).

2. Ý nghĩa đối thoại

63.  Từ ngữ Đối thoại có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Trước hết, ở cấp độ thuần túy con người, nó có nghĩa là thông tin cho nhau nhằm đưa đến một mục đích chung, hoặc ở một cấp độ sâu xa hơn, nó nhằm nói đến một sự hiệp thông liên nhân vị (giữa con người với nhau). – Thứ đến, từ ngữ đối thoại có thể sử dụng theo nghĩa một thái độ cung kính và thân thiện (lãnh vực hành động), thấm nhập hoặc cần thấm nhập tất cả các sinh hoạt cấu tạo nên sứ mệnh truyền bá Phúc Am của Giáo Hội. Đúng hơn gọi là “tinh thần đối thoại”. – Nghĩa thứ ba nằm trong một bối cảnh của thực trạng đa tôn giáo, từ ngữ đối thoại có nghĩa là “toàn bộ những tương quan liên tôn, tích cực và xây dựng, với những người và những cộng đồng của các tín ngưỡng dị biệt, nhằm tìm cách quen biết nhau và làm phong phú cho nhau”.

(Hội đồng Tòa Thánh về liên lạc với các tôn giáo, Đối thoại và Rao Truyền, 9).

3. Đối thoại đại kết

Lý do: Các tín đồ cùng tin Chúa Kitô tại  Châu Á chỉ là thiểu số, muốn đem dân tộc Á Châu về với Chúa Kitô như lệnh truyền của Ngài thì cần phải hiệp nhất, hiệp thông với nhau. Có hiệp nhất thì thế giới mới tin rằng Chúa Cha đã cử Chúa Con đến, như Đức Giêsu Kitô đã cầu nguyện.

Thái độ phải có: (1) Bác ái được biểu lộ trong ước muốn sẵn sàng cộng tác với các tín đồ khi có thể. (2) Trung thành với Giáo Hội Công giáo dù biết nhiều tín đồ Công giáo có nhiều khuyết điểm. (3) Suy xét phân định để biết những cái tốt cái hay đáng ca ngợi. (4) Thành thật muốn gạn đục khơi trong và đổi mới.

  1. Tại Châu Á, là nơi số Kitô hữu tương đối nhỏ, sự chia rẽ càng làm cho công việc truyền giáo trở nên khó khăn hơn. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng “ gương xấu của một Kitô giáo chia rẽ đúng là một trở ngại lớn cho công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á. Thật vậy, nhiều người Á Châu đang tìm kiếm sự hòa hợp và thống nhất qua tôn giáo và văn hóa của họ đã coi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một lời chứng chống lại Đức Giêsu Kitô. Bởi đó, Giáo Hội Công Giáo tại Châu Á cảm thấy bị thôi thúc cách đặc biệt phải cùng với các Kitô hữu  khác làm việc cho sự hiệp nhất, ý thức rằng muốn có được một sự hiệp thông trọn vẹn, mọi người phải sống bác ái, biết phân định, can đảm và luôn hy vọng. “Muốn cho công cuộc đại kết được trung thực và sinh kết quả, phía người Công giáo cần phải có một số thái độ căn bản: trước hết là bác ái, biểu lộ qua sự  nhân hậu và lòng khao khát cộng tác mỗi khi có thể với tín hữu các Giáo Hội và các cộng đồng khác ; thứ đến là trung thành đối với Giáo Hội Công giáo của mình, dù vẫn không làm ngơ hay phủ nhận những khuyết điểm của một số thành phần trong Giáo Hội; ba là phải có óc phân định để biết đánh giá tất cả những gì là tốt đẹp và đáng khen. Sau cùng là chân thành ước ao được thanh tẩy và được đổi mới. Dù vẫn nhìn nhận còn nhiều khó khăn trong các quan hệ Kitô hữu, không những từ các thành kiến kế thừa từ quá khứ, mà còn do những phê phán dựa trên những tin tưởng rất sâu đậm ràng buộc chính lương tâm, nhưng các nghị phu Thượng Hội Đồng vẫn nêu ra những dấu chỉ phản ảnh các quan hệ đã được cải thiện giữa một số Giáo Hội và Cộng đồng Kitô giáo tại  Châụ Á (….). Những điều này chính là cơ sở vững chắc cho hai bên tiếp tục công cuộc đối thoại đại kết rất kết quả qua thiên niên kỷ tới, một thiên niên kỷ mà chúng ta hy vọng và cầu xin sẽ chấm dứt hoàn toàn những chia rẽ đã diễn ra trong thiên kỷ sắp sửa kết thúc này.

Trên bình diện thực hành, Thượng Hội Đồng đề nghị các Hội Đồng Giám Mục quốc gia tại Châu Á hãy mời các Giáo Hội Kitô khác tham gia vào việc cầu nguyện và tham khảo bàn bạc để tìm ra những khả năng xây dựng những cơ cấu và tổ chức mới mang tính đại kết, có thể giúp đẩy mạnh các Kitô hữu.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 30.2).

 

4. Đối thoại với các anh em thuộc các tôn giáo khác.

  1. a.                   Lý do: Đối thoại liên tôn không phải chỉ để giúp hai bên hiểu biết nhau và được thêm phong phú, nhưng là thành tố trong sứ vụ Phúc Âm hóa. Dẫu biết rằng các tôn giáo khác có những điều chân thật và thánh thiện, như là phản ảnh sự thật soi sáng muôn dân. Giáo Hội vẫn phải đối thoại để chứng thực cho các tín đồ bạn biết chỉ có Đức Giêsu Kitô mới có thể cứu độ trọn vẹn, và chỉ có Giáo Hội của Ngài  là phương thế  thông thường để được cứu độ.
  2. b.                   Điều kiện phải có: Trong tiến trình đối thoại liên tôn, không được từ bỏ các nguyên tắc truyền thống đức tin và xác tín tôn giáo, cũng không được hòa hoãn giả tạo, nhưng phải chứng tỏ cho nhau thấy mỗi bên muốn cho nhau được tiến bộ hơn về tôn giáo mình, và xóa bỏ đi những thành kiến, bất khoan dung và hiểu lầm.

           – Kitô hưũ còn phải có một đức tin trưởng thành và chắc chắn, phải sống hạnh phúc trong cộng đoàn đức tin của mình. Vì thế cần phải được đào tạo để đối thoại.

           – Phải đối thoại “bằng cuộc sống và bằng tấm lòng”, một tấm lòng khiêm tốn dịu dàng, không tự phụ cũng không trịch thượng trong khi gặp gỡ nhau.

  1. Trong Tông Thư  “Tertio Millennio Advenniente” (Khi ngàn năm thứ ba tới), tôi đã chỉ ra rằng một thiên niên kỷ nữa sắp tới đúng là một cơ hội tốt để đẩy mạnh việc đối thoại giữa các tôn giáo và để tổ chức các cuộc gặp gỡ các nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn trên thế giới. Tiếp xúc, đối thoại và cộng tác với tín đồ các tôn giáo khác chính là một công việc mà Cộng Đồng Vatican II đã giao cho toàn thể Giáo Hội làm như một bổn phận và một thách đố. Những nguyên tắc hướng dẫn việc quan hệ cách tích cực với các truyền thống tôn giáo khác đã được nêu ra trong Tuyên Ngôn của Công Đồng “Nostra aetate” (Vào thời đại chúng ta), ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965. Đây chính là bản hiến chương của việc đối thoại liên tôn giáo trong thời đại chúng ta. Đứng trên quan điểm Kitô giáo, đối thoại liên tôn giáo không phải chỉ là một cách để giúp các bên biết nhau và làm giàu cho nhau. Nhưng đó còn là một phần trong chính sứ mạng phúc âm hoá của Giáo Hội, là một cách thực hiện sứ mạng “đến với lương dân”. Khi tham gia đối thoại liên tôn giáo, các Kitô hữu xác tín rằng chỉ có Đức Kitô đem lại sự cứu độ trọn vẹn và cộng đoàn Giáo Hội mà họ đang tham gia là phương thế thông thường để được ơn cứu độ. Đến đây tôi xin nhắc lại những gì tôi đã viết cho Hội Nghị khoáng đại lần thứ năm của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu: “Dù Giáo Hội vui sướng nhìn nhận bất cứ điều gì chân thật và thánh thiện trong các truyền thống tôn giáo của Phật Giáo, An Độ Giáo và Hồi Giáo đều là phản  ảnh sự thật đang khai sáng mọi người, nhưng như thế không có nghĩa là Giáo Hội phải bớt đi nhiệm vụ và quyết tâm của mình, tức là tuyên bố một cách dứt khoát Đức Giêsu Kitô là “đường đi, sự thật và sự sống” …Thật ra các tín đồ các tôn giáo khác vẫn có thể nhận được ơn Chúa và được Đức Kitô cứu độ ngoài phương thế thông thường mà Ngài đã lập ra, điều ấy không loại bỏ việc họ được kêu gọi đến nhận lãnh đức tin và phép Rửa như Chúa hằng muốn cho hết mọi người” (x. SVĐCĐ 55).

Trong  quá trình đối thoại ấy, như tôi đã viết trong Thông Điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio) “không được bỏ qua những nguyên tắc hay theo chủ nghĩa thỏa hiệp giả tạo, mà cả hai bên cùng phải đưa ra và tiếp nhận được những bằng chứng giúp nhau  tiến tới trên con đường tìm tòi và sống kinh nghiệm tôn giáo, cũng như loại trừ những thành kiến, thái độ bất khoan nhượng và những ngộ nhận về nhau “. Chỉ những ai có đức tin Kitô Giáo trưởng thành và sâu sắc mới đủ tư cách  tham gia việc đối thoại liên tôn giáo chính hiệu. “Chỉ những Kitô hữu nào từng đắm mình trong mầu nhiệm Đức Kitô và đang sống hạnh phúc trong cộng đoàn đức tin của mình mới có thể tham gia các cuộc đối thoại liên tôn giáo mà không sợ gặp rủi ro, ngược lại có hy vọng gặt hái những hoa trái tốt đẹp “…Bởi đó, Giáo Hội tại Châu Á cần phải giới thiệu những mô hình xứng hợp cho việc đối thoại liên tôn giáo – phúc âm hóa trong khi đối thoại và đối thoại để phúc âm hóa – và cung cấp cho những người tham gia việc đối thoại ấy một sự đào tạo thích đáng.

Sau khi nhấn mạnh nhu cầu đối thoại liên tôn giáo để tạo niềm tin vững chãi vào Đức Kitô, các nghị phụ Thượng Hội Đồng tiếp tục đề cập tới nhu cầu tổ chức cuộc đối thoại bằng cuộc sống và bằng con tim. Môn đệ Đức Kitô phải có con tim dịu dàng và khiêm tốn của Thầy mình, không bao giờ tự phụ, không bao giờ tỏ vẻ luồn cúi khi gặp gỡ các đối tác của mình trong cuộc đối thoại (x.Mt 11, 29). “Những quan hệ giữa các tôn giáo sẽ được mở mang tốt đẹp nhất là khi mọi người sống trong bầu khí cởi mở đối với nhau, có ý muốn lắng nghe, tôn trọng và thông cảm người khác trong những sự dị biệt của họ. Để làm được tất cả những việc này, cần phải có tình yêu đối với người khác. Từ đó mới có sự cộng tác, hoà hợp và  làm giàu cho nhau”.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 31).

5. Những hình thức đối thoại liên tôn

  1. Văn kiện Đối thoại và Rao truyền (1991) vạch ra các hình thức đối thoại :

1/ đối thoại bằng cuộc sống : mỗi người cố gắng sống tinh thần cởi mở và sống với nhau như láng giềng tốt, cùng nhau chia vui sẻ buồn, chia sẻ các vấn đề và lo âu của con người.

2/ đối thoại bằng cộng tác  với nhau trong công việc phát triển con người toàn diện, và giải phóng con người trọn vẹn

3/ đối thoại bằng trao đổi thần học: các nhà chuyên môn tìm cách đào sâu kiến thức về các giasản tôn giáo của nhau và thẩm định các giá trị siêu nhiên nơi các tôn giáo bạn.

4/ đối thoại bằng chia sẻ kinh nghiệm tôn giáo: đi sâu vào chính truyền thống tôn giáo của mình, chia sẻ những giá trị siêu nhiên phong phú của mình, chẳng hạn những giá trị liên quan đến cầu nguyện và chiêm niệm, đến đức tin và những con đường tìm đến Thiên Chúa hoặc Đấng Tuyệt đối.

(Hội đồng Tòa Thánh về liên lạc với các tôn giáo, Đối thoại và Rao Truyền , 42).

6. Những trở ngại và khó khăn cho việc đối thoại

  1. Ở đây chúng ta nêu lên một số những trở ngại được xem là quan trọng hơn cả cho việc đối thoại :

a. Không bám rễ sâu  đủ trong chính đức tin của riêng mình.

b. Không hiểu biết đầy đủ tín ngưỡng và phương thức hành đạo của các tôn giáo khác có thể đưa đến một lối sống thẩm định thiếu sót về ý nghĩa của chúng, và đôi lúc còn có những giải thích sai trật.

c. Những dị biệt có tính cách văn hóa phát xuất từ trình độ kiến thức khác nhau, hoặc từ lối vận dụng các cách diễn tả khác nhau.

d. Những nhân tố xã hội – chính trị xảy ra trong quá khứ có liên quan đến hai bên tranh chấp, xung đột .

e. Hiểu sai các từ ngữ như trở lại, phép rửa, đối thoại …

f. Chưa hoặc thiếu cởi mở, đưa đến một thái độ tự vệ, hay còn đi đến tình  trạng gây hấn.

g. Thiếu xác tín về đối thoại liên tôn, mà một số người có thể xem như một phận vụ dành riêng cho những nhà chuyên môn và một số khác lại xem như một dấu chứng thua cuộc, hoặc như là một sự phản bội lại đức tin.

h. Nghi ngờ về các động lực muốn đối thoại của phía bên kia.

i. Trình bày hay diễn tả các xác tín tôn giáo của mình theo tinh thần hiếu chiến hiếu thắng.

j. Không bao dung và có thái độ trịch thượng do yếu tố chính trị, kinh tế, chủng tộc …

k.Một số hiện tượng của bầu khí tôn giáo hiện nay: trào lưu duy vật vô thần đang lên, dủng dưng về tôn giáo và sự  gia tăng các giáo phái mới tạo ra nhiều vấn đề mới….

(Hội đồng Tòa Thánh về liên lạc với các tôn giáo, Đối Thoại và Rao Truyền, 74).

 

Trao đổi :

  1. 1.              Đối thoại có tầm quan trọng như thế nào trong công cuộc Truyền giáo tại Việt Nam?
  2. 2.              Người Công giáo Việt Nam phải biết đối thoại với những ai nếu muốn loan báo Tin Mừng cứu độ cho những người không Công giáo?
  3. 3.              Để biết cách đối thoại với những người không tin sống chung quanh mình  người giáo dân Việt Nam vần dược trang bị những gì ?

 

 

V. HỘI NHẬP VĂN HÓA: LÀM CHO TIN MỪNG NHẬP THỂ  VÀO NỀN VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC.

 Từ sau Công Đồng Vatican II Hội Nhập văn Hóa đã trở thành một việc làm cấp bách. Hội Nhập Văn Hóa không phải chỉ là một cuộc nghiên cứu mà là một cuộc sống qua một tiến trình chậm chạp. Hội Nhập Văn Hóa là biến đổi thâm sâu những giá trị văn hóa chân thật bằng cách hội nhập vào Kitô giáo và có nghĩa là làm cho Kitô giáo ăn rễ sâu vào trong các nền văn hóa khác nhau của con người.

  1. Khi thi hành hoạt động truyền giáo của mình giữa các dân tộc, Giáo Hội tiếp xúc với những nền văn hoá khác nhau và thực hiện tiến trình hội nhập văn hoá. Đây là một đòi hỏi đậm nét trong suốt quá trình lịch sử của Giáo Hội, và ngày nay đòi hỏi này trở nên đặc biệt rõ rệt và cấp bách.

Quá trình Giáo Hội thâm nhập vào nền văn hoá của các dân tộc đòi hỏi nhiều thời gian : đó không phải chỉ là thích ứng bên ngoài, vì hội nhập văn hoá “có nghĩa là biến đổi thâm sâu những giá trị văn hoá chân thật bằng cách hội nhập vào Kitô giáo, và có nghĩa là làm cho Kitô giáo ăn rễ sâu vào trong các nền văn hoá khác nhau của con người “. Như thế, đây là một tiến trình sâu xa và toàn diện gắn liền với sứ điệp Kitô giáo cũng như suy tư và nếp sống của Giáo Hội. Nhưng đó cũng là một tiến trình khó khăn, vì không được làm tổn hại đặc tính và sự toàn vẹn đức tin Kitô giáo bất cứ cách nào.

Qua việc hội nhập văn hoá, Giáo Hội làm cho Tin Mừng nhập thể vào các nền văn hoá khác nhau, và đồng thời Giáo Hội dẫn đưa các dân tộc cũng như các nền văn hoá riêng của họ vào trong chính cộng đoàn Giáo Hội; Giáo Hội truyền thông cho các nền văn hoá ấy những giá trị của mình, bằng cách đón nhận những gì là tối đẹp trong các nền văn hoá đó và đổi mới các nền văn hoá đó từ bên trong. Về phần mình, qua việc hội nhập văn hoá, Giáo Hội trở thành dấu chỉ rõ rệt hơn về bản chất của mình,và trở thành khí cụ thích hợp hơn cho sứ vụ của mình.

Nhờ hoạt động này trong các Giáo Hội địa phương, chính Giáo Hội phổ quát được phong phú về những cách diễn tả, và về những giá trị mới trong các lĩnh vực khác nhau của nếp sống Kitô hữu, chẳng hạn như việc loan báo Tin Mừng, việc phụng tự, nền thần học, những việc từ thiện; Giáo Hội  nhận biết và diễn tả mầu nhiệm Chúa Kitô rõ rệt hơn và được thúc đẩy tự canh tân không ngừng. Những chủ đề trên đã có trong Công Đồng, và kế đó, trong các giáo huấn của Huấn  Quyền  tôi đã không ngừng đề cập đến trong những lần viếng thăm mục vụ tại các Giáo Hội trẻ trung.

Hội nhập văn hoá là một tiến trình chậm chạp bao gồm toàn bộ phạm vi của sinh hoạt truyền giáo và có liên hệ đến những tác nhân khác nhau trong sứ vụ đến với muôn dân: các cộng đoàn Kitô giáo trên  đà phát triển, các vị chủ chăn có trách nhiệm phân định và khích lệ việc tiến hành hội nhập văn hoá.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 52).

Những thừa sai phải am tường việc Hội Nhập Văn Hóa như am tường ngôn ngữ, lịch sử của các dân tộc địa phương; phải yêu mến di sản văn hóa địa phương để có thể trình bày Tin Mừng một cách phù hợp với cách suy luận và cảm nghiệm của người địa phương (TG 26)

  1. Các nhà truyền giáo xuất thân  từ những Giáo Hội và những xứ sở khác phải thâm nhập vào trong thế giới văn hoá, xã hội của những người mà mình được sai đến, bằng cách vượt qua những qui cách nơi môi trường gốc của mình. Vì vậy, họ phải học ngôn  ngữ của nơi tới làm việc,  phải am hiểu những cách diễn tả ý nghĩa nhất trong nền văn hoá của dân địa phương, bằng cách nhờ kinh nghiệm trực tiếp mà khám phá ra những giá trị ở đó . Chỉ với những am hiểu như thế, họ mới có thể trao cho các dân tộc ấy mầu nhiệm dấu ẩn,  một cách khả tín và có kết quả (Rm 16,25-27; Ep 3,5). Đối với họ chắc chắn không phải là từ khước căn tính văn hoá của mình, nhung là hiểu biết, đề cao, cổ võ và phúc âm hoá văn hoá của môi trường họ đang làm việc, và như vậy, họ có thể thực sự tiếp xúc với môi trường đó, bằng cách chấp nhận một kiểu sống trở thành dấu chỉ cho chứng tá Tin Mừng và cho tình liên đới với mọi người .

Được Tin Mừng linh hứng,  các cộng đoàn Giáo hội đang thành hình, sẽ có thể dần dần diễn tả kinh nghiện Kitô giáo một cách độc đáo, miễn là trung thành với những yêu cầu khách quan của đức tin đích thực. Nhằm mục đích này, đặc biệt trong những gì liên quan đến những lĩnh vực tế nhị nhất của việc hội nhập văn hoá, các Giáo Hội địa phương trong cùng một lãnh thổ sẽ phải làm việc trong tinh thần  hiệp thông với nhau, và với toàn thể Giáo hội, xác tín rằng chỉ có sự lưu tâm đến Giáo Hội và các Giáo Hội địa phương mới có thể giúp họ có khả năng chuyển dịch kho tàng đức tin bằng nhiều cách diễn tả khác nhau hợp lý. Chính vì thế, những nhóm đã được nghe loan báo Tin Mừng sẽ cống hiến những yếu tố giúp “chuyển dịch “sứ điệp Tin Mừng, trong  khi lưu ý đến những yếu tố tích cực đã tích luỹ được qua hiều thế kỷ, nhờ sự gặp gỡ của Kitô giáo với những nền văn hoá khác nhau, nhung đừng quên những nguy cơ biến chất đôi khi đã xuất hiện .

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 53).

 

Hội Nhập Văn Hóa phải tiến hành đúng đắn và được chỉ đạo bởi hai nguyên tắc: Tương hợp với Tin Mừng và Hiệp thông với Giáo Hội phổ quát. Phải khẳng định mọi nền văn hóa dù là những vườn hoa tươi đẹp, vẫn là sản phẩm của con người, nghĩa là có sai lầm. Do đó khi Hội Nhập Văn Hóa không được đánh mất chính mình bằng cách quá đề cao các nền văn hóa địa phương vì thiếu quân bình thiếu suy xét. Các Giám Mục có nhiệm vụ canh chừng để không ai  lạc đường trong khi Hội Nhập Văn Hóa.

  1. Về vấn đề này, còn một số khẳng định căn bản. Việc hội nhập văn hoá tiến hành đúng đắn phải được chỉ đạo bởi hai nguyên tắc: “Sự tương hợp với Tin mừng và sự hiệp thông với Giáo Hội phổ quát “ các Giám Mục  phải lưu tâm đến sự trung thành, và nhất là phân định, điều này đòi hỏi phải có sự quân bình sâu sắc; bởi vì người ta có nguy cơ , do thiếu suy xét , đi từ vong thân văn hoá đến chỗ đánh giá quá cao văn hoá, một sản phẩm của con người, và vì thế  có in dấu vết của tội lỗi . Chính văn hoá cũng cần được “thanh tẩy, nâng cao và kiện toàn.

Một tiến trình như thế phải được thực hiện theo từng cấp độ để thực sự là cách diễn tả kinh nghiệm Kitô giáo của cộng đoàn; Đức Giáo Hoàng  Phao-lô VI đã nói ở Kampala: ”Cần phải có thời gian ấp ủ mầu nhiệm Kitô giáo trong đặc tính của dân tộc anh em, để rồi tiếng nói đặc sắc , trong sáng và chân thực hơn của dân tộc anh em được vang lên một cách hài hòa, trong bản hợp ca nhiều giọng của Giáo hội phổ quát”  Kết cục, hội nhập văn hoá phải là công việc của tất cả Dân Thiên Chúa chứ không phải chỉ là của một vài nhà chuyên môn, bởi vì đã rõ Dân Thiên Chúa phản ánh cảm thức chân thực của đức tin, điều mà ta không bao giờ được quên. Quả thực, việc hội nhập văn hoá phải được hướng dẫn và khuyến khích, nhưng không được gò ép để khỏi gây ra những phản ứng tiêu cực nơi các Kitô hữu: đó phải là cách diễn tả sinh hoạt cộng đoàn, tức là phải chín muồi giữa lòng cộng đoàn chứ không phải là kết quả của những tìm kiếm uyên bác. Bảo vệ những giá trị truyền thống  là kết quả của một đức tin đã trưởng thành.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 54).

 

5.1 THÁCH ĐỐ CỦA VIỆC HỘI NHẬP VĂN HÓA

  1. Văn hóa là không gian vô cùng quan trọng, trong đó con người sẽ có dịp đối diện với Tin Mừng. Văn hóa là kết quả phát xuất từ cuộc sống và sinh hoạt của một tập thể nhân loại nào đó. Nên những người thuộc về tập thể ấy cũng được nền văn hóa trong đó họ sinh sống khuôn đúc lên tới một mức nào đó. Nếu con người và xã hội thay đổi, văn hóa cũng sẽ thay đổi theo. Ngược lại, nếu văn hóa đổi thay thì con người và xã hội cũng được văn hóa ấy biến đổi theo. Đã đành Tin Mừng và việc phúc âm hóa không đồng nhất với văn hóa, nhưng độc lập với văn hóa. Nhưng Nước Chúa lại đến với những con người đã có liên hệ sâu xa với một nền văn hóa nhất định nào đó, và không thể xây dựng Nước Chúa mà không vay mượn một số yếu tố lấy từ các nền văn hóa nhân loại.

    (ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 21.1).

Trong quá trình gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau của thế giới, Giáo Hội chẳng những truyền đạt các chân lý và giá trị của mình, cũng như đổi mới các nền văn hóa ấy từ bên trong, mà còn thu dụng nhiều yếu tố tích cực tìm thấy được từ các nền văn hóa khác nhau ấy. Đây là con đường bắt buộc các nhà truyền giáo phải đi qua khi giới thiệu đức tin Kitô giáo và biến nó thành một phần trong di sản văn hóa của một dân tộc. Ngược lại, các nền văn hóa khác nhau ấy, một khi đã được tinh lọc và đổi mới lại dựa vào Tin Mừng, sẽ trở thành những cách diễn đạt rất xác đáng đức tin duy nhất của Kitô giáo. “Nhờ hội nhập văn hóa, về phần mình, Giáo Hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn cho biết bản chất thật của mình, cũng như trở hành một dụng cụ đắc lực hơn thi hành sứ mạng”. Dấn thân với các nền văn hóa như thế xưa nay đã trở thành một phần trong cuộc hành trình của Giáo Hội trong lịch sử. Thế nhưng, ngày nay vấn đề này trở nên cấp thiết đặc biệt khi so sánh với tình hình đa chủng tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa của  Châu Á, một nơi vẫn coi Kitô giáo như  xa lạ.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 21.2).

Đến đây, ta cần  nhớ lại những gì các nghị phụ thường nói trong Thượng Hội Đồng: Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc đưa đức tin Kitô giáo hội nhập văn hóa vào Châu Á. Thánh Thần đã từng đưa chúng ta vào chân lý toàn diện cũng sẽ tạo điều kiện cho cuộc đối thoại của chúng ta với các giá trị văn hóa và tôn giáo của các dân tộc được kết quả, vì Ngài đã có mặt ở các dân tộc ấy một cách nào đó rồi (…). Khi cống hiến cho người khác Tin Mừng Cứu Chuộc, Giáo Hội cố gắng tìm hiểu văn hóa của họ. Giáo Hội tìm cách hiểu ra não trạng và tâm hồn của người nghe, những giá trị và tập quán, những vấn đề và khó khăn, những hy vọng và ước mơ của họ. Một khi biết được và hiểu được những khía cạnh khác nhau này của văn hóa, Giáo Hội có thể mở cuộc đối thoại cứu độ; Giáo Hội có thể giới thiệu Tin Mừng Cứu Độ cho tất cả những ai tự nguyện muốn lắng nghe và muốn đáp trả, giới thiệu một cách kính trọng nhưng cũng rõ ràng và xác tín không kém. Bởi đó những người Á Châu muốn biến niềm tin Kitô giáo thành của mình trong tư cách của những người Á Châu, có thể an tâm rằng những hy vọng và ước mơ, những lo âu và đau khổ của họ chẳng những đã được Đức Giêsu đảm nhận lấy, mà còn trở thành điểm nóng cho ơn đức tin và quyền năng Thánh Thần đi sâu vào cuộc sống của họ.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 21.3).

 

5.2 NHỮNG LÃNH VỰC THEN CHỐT CẦN HỘI NHẬP VĂN HÓA

a. Phát triển nền Thần học hội nhập văn hóa

  1. Thượng Hội Đồng đã khuyến khích các nhà thần học trong một công việc tế nhị là phát triển một nền thần học đã hội nhập văn hóa, nhất là trong môn Kitô học.  Phải tiến hành công tác suy tư thần học với lòng tôn trọng các cảm nhận của các Kitô hữu, để nhờ được hướng dẫn từ từ làm quen với các hình thức hội nhập văn hóa diễn tả đức tin, dân chúng không cảm thấy bối rối hay khó chịu. Trong mọi trường hợp, phải tiến hành việc hội nhập văn hóa bằng cách bảo đảm sự tương hợp của nó với Tin Mừng và bảo đảm sự hiệp thông với đức tin của Giáo Hội toàn cầu, phù hợp với truyền thống Giáo Hội và luôn nhằm củng cố đức tin của dân chúng. Muốn biết sự hội nhập văn hóa có đúng đắn không, ta sẽ xem dân chúng tại đó có trở nên gắn bó hơn với đức tin Kitô giáo của họ hay không sau khi hiểu đức  tin ấy rõ ràng hơn từ văn hóa của mình.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á,  21.1).

b. Phụng vụ

Phụng vụ là cội nguồn và là cao điểm của toàn bộ đời sống và sứ mạng Kitô giáo. Phụng vụ là phương thế nắm vai trò quyết định trong việc phúc âm hóa, nhất là tại Châu Á, vì tại đây tín đồ các tôn giáo rất bị thu hút trước sự thờ phượng, các lễ hội tôn giáo và các việc đạo đức bình dân. Phần lớn phụng vụ của các Giáo Hội Đông Phương đã được hội nhập văn hóa một cách thành công qua nhiều thế kỷ có tác động qua lại với văn hóa địa phương. Tuy nhiên, các Giáo Hội mới được thành lập cần phải làm sao cho phụng vụ trở thành một nguồn nuôi dưỡng ngày càng quan trọng hơn cho đời sống tâm linh của các dân tộc bằng cách vận dụng các yếu tố rút tỉa từ các nền văn hóa địa phương, một cách khôn ngoan và hiệu quả. Tuy nhiên, đưa phụng vụ hội nhập văn hóa không phải chỉ là chú ý tới các giá trị văn hóa truyền thống, các biểu tượng và nghi lễ; còn phải lưu ý tới những thay đổi trong ý thức và thái độ của đồng bào do các nền văn hóa nặng tính tiêu thụ và thế tục đang ảnh hưởng đến cảm quan của người Á Châu về sự thờ phượng và cầu nguyện.

Các Hội Đồng Giám Mục quốc gia và khu vực cần cộng tác mật thiết hơn với Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích để tìm ra phương thế hữu hiệu cổ võ các hình thức thờ phượng thích hợp với bối cảnh Á Châu. Viêc cộng tác ấy hết sức quan trọng, vì Phụng Vụ Thánh là nơi diễn tả và cử hành một niềm tin chung của hết mọi Giáo Hội, và vì thế, các Giáo Hội địa phương không thể sửa đổi Phụng Vụ một cách độc lập với Giáo Hội toàn cầu, một khi Phụng Vụ đã trở thành một di sản chung của toàn thể Giáo Hội.

c. Kinh Thánh

  1. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng hết sức nhấn mạnh tới tầm quan trọng của ngôn từ Kinh Thánh khi tiếp tục chuyển giao sứ điệp cứu độ cho các dân tộc Á Châu, vì tại đây ngôn từ truyền đạt được đánh giá rất cao trong việc bảo tồn và trao đổi kinh nghiệm tôn giáo. Bởi đó, cần phải phát triển công tác tông đồ Thánh Kinh một cách hiệu quả, sao cho các bản văn Thánh Kinh được phổ biến rộng rãi hơn và được sử dụng dồi dào hơn trong tinh thần cầu nguyện giữa các thành phần Giáo Hội Á Châu. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã lưu ý phải lấy đó làm nền tảng cho mọi công việc rao giảng, truyền giáo, huấn giáo và tu đức dưới bất cứ hình thức nào. Cần phải cổ võ và hỗ trợ những nỗ lực chuyển dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ địa phương. Việc đào tạo về Thánh Kinh phải được coi là một phương thế quan trọng trong nỗ lực giáo dục dân chúng trong đức tin và trang bị cho họ thi hành công tác loan báo Tin Mừng. Phải đưa các khóa học học có định hướng mục vụ về Thánh Kinh, nhấn mạnh tới việc áp dụng các điều được giảng dạy vào các thực tế phức tạp của đời sống tại Châu Á, vào trong chương trình đào tạo hàng giáo sĩ, người tận hiến và giáo dân. Cũng nên phổ biến Thánh Kinh cho tín đồ các tôn giáo khác, vì Lời Chúa có sức mạnh gây cảm kích cho các tâm hồn và Thánh Thần mặc khải chương trình cứu độ của Thiên Chúa cho thế giới thông qua Thánh Kinh. Ngoài ra, thể văn kể chuyện trong nhiều tác phẩm của Kinh Thánh rất gần với các bản văn tôn giáo điển hình của Châu Á.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á,  22.4).

d. Đào tạo các nhà rao giảng Tin Mừng

  1. Một khía cạnh then chốt khác nữa của việc hội nhập văn hóa, quyết định phần lớn tương lai của tiến trình này, là việc đào tạo các người rao giảng Tin Mừng. Trong quá khứ, việc đào tạo này thường bám sát phong thái, phương pháp và chương trình nhập từ Tây Phương. Các nghị phụ Thương Hội Đồng, tuy vẫn đánh giá cao những ơn ích do phương thức đào tạo này mang lại,  cũng đã nhìn nhận một đóng góp tích cực do các nỗ lực gần đây nhằm thích nghi việc đào tạo các người rao giảng Tin Mừng cho phù hợp với bối cảnh văn hóa của Châu Á. Song song với việc tạo cho đức tin nền tảng vững chắc trong các môn học liên quan đến Kinh Thánh và các Giáo Phụ, các chủng sinh còn cần phải nắm vững và hiểu biết chi tiết di sản triết học và thần học của Giáo Hội, như tôi đã kêu gọi trong tông thư  “Fides et Ratio” (Đức Tin và Lý Trí). Với sự chuẩn bị này, họ sẽ rút tỉa được những lợi ích khi tiếp xúc với các truyền thống triết học và tôn giáo của Châu Á. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng cũng khuyến khích các giáo sư và ban giám đốc các chủng viện tìm cách hiểu biết sâu xa các yếu tố làm nên linh đạo và kinh nghiệm thích hợp với tâm hồn người Á Châu, cũng như tham gia sâu xa hơn vào công cuộc tìm kiếm một cuộc sống triển nở hơn của các dân tộc Á Châu  ấy.

Ngoài ra, vì công việc hội nhập văn hóa là công việc chung của toàn thể Dân Chúa, nên vai trò của người giáo dân rất quan trọng. Hơn ai hết, họ chính là những người được mời gọi biến đổi xã hội, cộng tác với các Giám Mục, linh mục và tu sĩ, bằng cách thổi “tinh thần của Đức Kitô” vào não trạng, tập quán, luật lệ và cơ chế của thế giới mà trong đó họ đang sống. Việc đưa Tin Mừng hội nhập văn hóa một cách rộng rãi hơn ở mọi cấp trong xã hội Á Châu sẽ tùy thuộc phần lớn vào việc đào tạo thích đáng mà mỗi Giáo Hội địa phương làm được cho hàng giáo dân của mình.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á,  22.5).

 

Trao đổi :

  1. 1.              Thế nào là Hội nhập Văn hóa?
    1. 2.                  Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người đã hội nhập văn hóa của dân tộc Do Thái như thế nào và đã dùng các chất liệu của văn hóa Do Thái để diễn tả Tin Mừng Cúu độ như thế nào?
    2. 3.                  Để hội nhập văn hóa thành công, người Công giáo Việt Nam cần được trang bị như thế nào?
    3. 4.                  Trong hoàn cảnh hiện nay, Đạo Công Giáo Việt Nam cần  ưu tiên hội nhập văn hóa ở những lãnh vực nào? và phải tiến hành như thế nào cho đạt kết quả?

 


VI. THĂNG TIẾN CON NGƯỜI

Việc rao giảng Tin Mừng luôn bao hàm sự giải phóng và phát triển toàn diện con người, vì đây là ý nguyện mà Đức Giêsu đã thể hiện trong suốt cả cuộc đời.

Không thể tách rời sứ vụ rao giảng Tin Mừng và sứ mạng phát triển thăng tiến nhân loại vì con người được phúc âm hóa không là một hữu thể trừu tượng mà là một hữu thể thuộc lãnh vực xã hội kinh tế. Việc cứu chuộc không chỉ là cứu rỗi con người đơn thuần mà còn phải trải rộng tới những cơ chế xã hội của họ để chúng cũng thấm nhuần tính Phúc Am, là những đòi hỏi của tình thương, công bằng và hòa bình.

 

6.1 QUAN TÂM ĐẾN CON NGƯỜI

  1. Những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những người đau khổ, cũng là những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng các môn đệ Chúa.

(Công đồng Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ ,1).

Giáo Hội chọn con người là con đường đầu tiên mà Giáo Hội phải đi qua để chu toàn sứ vụ của mình

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Bách chu niên, 33).

Vì thế nhân loại là con đường trước tiên Giáo Hội phải theo trong khi thực thi sứ vụ của mình. Nhân loại là con đường trước tiên và căn bản của Giáo Hội, con đường đã được Đức Kitô vạch ra, con đường trải qua mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc.

6.2 NGƯỜI NGHÈO LÀ ĐỐI TƯỢNG ĐẦU TIÊN CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO

  1. Trung thành với tinh thần của các mối phúc, Giáo Hội được mời gọi chia sẻ với người nghèo và những người bị áp bức dưới mọi hình thức. Chính vì thế, tôi khuyên nhủ tất cả các môn đệ Đức Kitô và tất cả các cộng đoàn Kitô hữu, từ gia đình đến giáo phận, từ giáo xứ đến dòng tu, hãy chân thành duyệt xét đời sống của mình trong chiều hướng liên đới với người nghèo. Đồng thời tôi cảm ơn các nhà truyền giáo, nhờ sự hiện diện đầy tình mến và sự phục vụ khiêm tốn  đã hoạt động cho việc phát triển toàn diện con người cũng như xã hội, nhờ các cơ sở giáo dục, các trung tâm sức khỏe, các trại phong, các nơi đón tiếp những người tàn tật và già cả, những sáng kiến thăng tiến phụ nữ và nhiều điều khác nữa. Tôi khích lệ những người thiện chí trong các tổ chức tư nhân, ngày nay càng lúc càng gia tăng, đã hiến thân cho các hoạt động từ thiện và thăng tiến con người.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 60).

6.3 PHẨM GIÁ CON NGƯỜI

  1. Con người, chứ không phải của cải hay kỹ thuật, là chủ thể và là mục tiêu chính yếu của sự phát triển. Thế nên, sự phát triển mà Giáo Hội xúc tiến vượt ra ngoài những vấn đề kinh tế và kỹ thuật. Sự phát triển ấy bắt đầu và kết thúc với sự toàn vẹn của con người, đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được ban cho một phẩm giá cũng như các quyền hạn bất khả nhượng từ chính Thiên Chúa. Các bản Tuyên Ngôn Quốc tế khác nhau về các quyền con người cũng như các sáng kiến đa dạng được cảm hứng từ các tuyên ngôn ấy chính là dấu hiệu cho thấy càng ngày người ta càng quan tâm tới phẩm giá con người, cả ở cấp toàn cầu. Rất tiếc, trong thực tế, các bản tuyên ngôn này thường bị vi phạm. Năm mươi năm sau ngày long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền, nhiều người vẫn là nạn nhân của những hình thức bóc lột và sử dụng phi nhân nhất, biến họ thành nô lệ thực sự cho những kẻ có nhiều quyền thế hơn, cho một ý thức hệ, cho quyền lực kinh tế, cho những hệ thống chính trị đàn áp, cho chủ nghĩa kỹ thuật thống trị hay sự xâm nhập của các phương tiện truyền thông đại chúng.

Các nghị phụ Thượng Hội Đồng ý thức rất rõ những sự xâm phạm liên tục đối với các quyền con người tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Châu Á, nơi có hằng triệu triệu người đang phải chịu sự kỳ thị, bóc lột, nghèo đói và bị gạt ra bên lề xã hội. Các ngài đã nói lên nhu cầu đặt ra cho toàn thể Dân Chúa tại Châu Á là phải nhận thức rõ về một thách đố không thể tránh được, không thể từ khước được, đó là bênh vực các quyền con người, cũng như đẩy mạnh công lý và hòa bình.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 33).

 

6.4 ƯU TIÊN YÊU THƯƠNG NGƯỜI NGHÈO

  1. Trong lúc tìm cách thăng tiến phẩm giá con người, Giáo Hội tỏ ra yêu thương ưu tiên người nghèo và người không có tiếng nói trong xã hội, vì Chúa đã tự đồng hóa mình với họ một cách đặc biệt (Mt 25,40). Tình thương ấy không loại trừ ai, mà chỉ thể hiện một sự ưu tiên trong phục vụ như toàn bộ truyền thống Kitô giáo đã làm chứng. “Yêu thương ưu tiên người nghèo và có những quyết định xuất phát từ tình thương ấy không là gì khác hơn là muốn ôm hết con số đông đảo những người đói khát, túng thiếu, vô gia cư, không được chăm sóc về y tế, và nhất là, không hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn. Không thể không xét đến sự có mặt của những thực tế ấy. Làm ngơ không biết đến tức là đã bắt chước “ông nhà giàu” làm bộ không biết người hành khất Lazarô nằm trước cổng nhà mình (Lc 16,19-31).

Điều này đặc biệt đúng đối với Châu Á , một lục địa có tài nguyên phong phú và có những nền văn  minh lớn, nhưng lại là quê hương của một số quốc gia nghèo nhất trên thế giới, và là nơi có hơn nửa dân số phải chịu thiếu thốn, nghèo đói và chịu bóc lột. Những người nghèo tại Châu Á cũng như những người nghèo trên thế giới sẽ luôn tìm được lý do vững chãi để hy vọng ngay trong chính mệnh lệnh Tin Mừng dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta (Ga 13,34). Giáo Hội tại Châu Á cũng không thể làm gì khác hơn là ra sức thi hành mệnh lệnh ấy đối với người nghèo, trong lời nói cũng như trong hành động.

Sự liên đới đối với người nghèo sẽ trở nên đáng tin hơn, nếu bản thân các Kitô hữu cũng sống giản dị, theo gương Đức Giêsu sống giản dị, tin sâu xa và yêu chân thành mọi người, nhất là đối với người nghèo và những người bị khai trừ. Chắc chắn đó là những dấu hiệu rất rõ cho thấy Tin Mừng đang vào cuộc thế nào. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi các người Công Giáo Á Châu hãy chấp nhận một lối sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng, để phục vụ công cuộc truyền giáo của Giáo Hội một cách tốt đẹp hơn và để Giáo Hội trở thành Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 34.1-2).

 

 

6.5 NGƯỜI BẢN XỨ

  1. Hầu như ở nước nào của Châu Á cũng có đông đảo người bản xứ, mà một số trong họ đang sống trong điều kiện kinh tế thấp nhất. Thượng Hội Đồng một lần nữa ghi nhận rằng các dân bản xứ ấy lại thường cảm thấy bị cuốn hút bởi con người Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội Người, như là một cộng đoàn yêu thương và phục vụ. Đây chính là cánh đồng bao la cho các hoạt động giáo dục và y tế, cũng như cho việc cổ võ dấn thân xã hội. Cộng đoàn Công giáo cần gia tăng công việc mục vụ giữa những người này bằng việc quan tâm tới các ưu tư và các vấn đề công bằng đang tác động lên đời sống của họ. Muốn thế, phải tỏ lòng kính trọng sâu xa đối với tôn giáo truyền thống của họ và các giá trị của tôn giáo ấy. Cũng cần phải giúp họ biết tự giúp mình, để họ có thể làm việc mà cải thiện hoàn cảnh của họ, hầu trở thành các người phúc âm hóa chính nền văn hóa và xã hội của mình.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 34.5)

 

6.6 TRẺ EM

  1. Không ai có thể thờ ơ mãi trước đau khổ của vô số trẻ em tại Châu Á, đang trở thành nạn nhân của những sự bóc lột và bạo lực kinh khủng tới mức không thể chịu nổi, không phải chỉ do tội ác của những cá nhân mà thường là hậu quả trực tiếp của những cơ chế thối nát của xã hội. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã ghi nhận rằng, việc bắt trẻ em lao động, lạm dụng tình dục trẻ em và nghiện ngập ma túy là những tệ đoan xã hội ảnh hưởng tới trẻ em trực tiếp nhất, và thêm vào những tệ đoan ấy là tình trạng nghèo đói. Giáo Hội phải làm hết sức mình để khắc phục những tệ đoan ấy, để hành động thay mặt những người bị bóc lột nhiều nhất và để tìm cách hướng dẫn những con người nhỏ bé ấy đến với tình yêu của Đức Giêsu vì Nước Trời là của họ (Lc 18,16).

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 34.6).

 

6.7 PHỤ NỮ

  1. Thượng Hội Đồng bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đối với các phụ nữ đang sống trong những tình cảnh vẫn còn nghiêm trọng tại Châu Á, bị kỳ thị và bạo hành nhiều khi ngay trong chính gia đình mình, tại nơi làm việc và ngay cả trong hệ thống luật pháp. Mù chữ là hiện tượng phổ biến nhất trong giới phụ nữ, và nhiều phụ nữ chỉ được đối xử như một món hàng trong nghề mãi dâm, du lịch và công nghiệp giải trí. Trong cuộc đấu tranh chống lại mọi hình thức bất công và kỳ thị, phụ nữ phải tìm được đồng minh nơi cộng đoàn Kitô hữu, và vì lý do này, Thượng Hội Đồng đề nghị nơi nào có thể, các Giáo Hội địa phương của Châu Á nên đẩy mạnh các hoạt động phục vụ nhân quyền cho các phụ nữ. Mục đích là làm sao tạo ra một sự thay đổi trong thái độ, nhờ hiểu biết thích đáng vai trò của nam và nữ trong gia đình, xã hội và trong Giáo Hội, nhờ ý thức sâu sắc hơn sự bổ sung độc đáo giữa người nam và người nữ, và nhờ nhận thức rõ ràng hơn tầm quan trọng của chiều kích phụ nữ trong mọi lãnh vực đời sống con người. Những đóng góp của người phụ nữ rất thường bị đánh giá thấp hay bỏ qua, và từ đó đưa tới sự nghèo nàn của con người về mặt tâm linh. Giáo Hội tại Châu Á sẽ làm nổi bật phẩm giá và tự do của người phụ nữ một cách rõ ràng và hiệu quả hơn bằng cách khuyến khích phụ nữ tham gia vào đời sống của Giáo Hội, kể cả trong đời sống trí thức của Giáo Hội, và bằng cách mở ra cho các phụ nữ nhiều cơ hội lớn hơn để họ có mặt và hoạt động trong sứ mạng yêu thương và phục vụ của Giáo Hội.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 34.7).

 

6.8 TIN MỪNG VỀ SỰ SỐNG

  1. Công tác phát triển con người sẽ bắt đầu bằng việc phục vụ chính sự sống. Sự sống là một quà tặng cao cả Thiên Chúa ban cho chúng ta: Ngài giao sự sống cho chúng ta như giao một kế hoạch và một trách nhiệm. Bởi thế, chúng ta chỉ là người gìn giữ sự sống, chứ không phải chủ nhân của sự sống. Chúng ta đã tự nguyện đón nhận sự sống và trong tâm tình biết ơn, chúng ta sẽ không ngừng tôn trọng và bảo vệ nó, từ khi nó khởi sự cho đến khi nó kết thúc một cách tự nhiên. Từ khi thụ thai, mạng sống con người là kết quả hành vi sáng tạo của Thiên Chúa và nó sẽ mãi mãi có liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa Tạo Hóa, là nguồn gốc và là cứu cánh duy nhất của sự sống. Vì thế, sẽ không có tiến bộ thật sự, không có xã hội văn minh thật sự, không có sự thăng tiến nhân bản thật sự nếu không biết tôn trọng sự sống con người, nhất là sự sống của những kẻ không có tiếng nói riêng để tự vệ. Sự sống của mỗi người, bất kể còn là con trẻ trong lòng mẹ hay ốm đau, tàn tật hoặc già nua, đều là một quà tặng cho con người.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 35).

 

6.9 CHĂM SÓC SỨC KHỎE

  1. Theo chân Đức Giêsu Kitô động lòng trắc ẩn đối với mọi người đã tìm cách “chữa hết các bệnh họan tật nguyền” (Mt 9,35). Giáo Hội tại Châu Á cũng cam kết dấn thân sâu hơn nữa vào việc chăm sóc người đau ốm, vì đây là một phần quan yếu trong sứ mạng đem ơn cứu độ của Đức Kitô đến cho con người toàn diện. Như người Samari nhân hậu trong dụ ngôn (Lc 10,29-37), Giáo Hội cũng muốn chăm sóc người đau ốm và bệnh tật một cách cụ thể, nhất là tại những nơi thiếu sự chăm sóc y tế sơ đẳng do tình trạng nghèo đói và bị gạt ra ngoài bên lề xã hội.

Nhiều lần trong các dịp thăm viếng Giáo Hội tại nhiều nơi trên thế giới, tôi đã hết sức cảm động trước các bằng chứng phi thường mang tinh thần Kitô giáo của các tu sĩ và người tận hiến, các bác sĩ, các điều dưỡng viên và các nhân viên y tế, nhất là những anh chị em đang làm việc với người tàn tật hoặc torng giai đoạn chăm sóc cuối cùng hoặc đang phải chiến đấu với sự lan tràn các loại bệnh mới như AIDS (SIDA). Các nhân viên y tế Kitô giáo càng ngày càng được mời gọi quảng đại và xả thân hơn để chăm sóc nạn nhân của chứng nghiện ma túy và bệnh AIDS, là những người thường bị xã hội khinh bỉ và bỏ rơi. Nhiều cơ sở y tế Công Giáo tại Châu Á đang phải chịu những áp lực của các chính sách y tế không dựa trên những nguyên tắc Kitô giáo; rồi có nhiều cơ sở phải gánh chịu những khó khăn tài chánh ngày càng cao. Mặc dù thế, ta vẫn phải công nhận chính tình yêu đến quên mình và lòng tận tụy yêu nghề rất đáng nêu gương của những con người ấy đã làm cho các cơ sở đó trở thành nơi phục vụ đáng khâm phục cho xã hội và trở thành một dấu chỉ hết sức rõ ràng và hữu hiệu về tình thương không suy suyển của Thiên Chúa . Phải khuyến khích và ủng hộ các nhân viên y tế ấy trong những gì tốt đẹp mà họ đang thực hiện. Chính sự dấn thân không biết nệt mỏi và sự hiệu năng liên tục của họ là phương cách tốt nhất bảo đảm cho các giá trị và đạo đức Kitô giáo thâm nhập sâu xa vào các hệ thống y tế của châu lục này, biến đổi chúng từ bên trong.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 36).

 

      Trao đổi:

1. Trong xã hội ta hiện nay thành phần nghèo đói, túng thiếu, không có nhà ở, không có việc làm, không có học hành, không có chăm sóc ý tế chiếm  bao nhiêu phần trăm?  Giáo huấn của Chúa Giêsu và của Giáo Hội dạy chúng ta phải làm gì cho thành phần đông đảo này?

2. Tại nuớc ta hiện nay có nhiều tệ nạn xã hội trầm trọng mà nạn phá thai (giết chết sự sống)  là điều nhức nhối nhất đối với những ai chủ trương phò sự sống. Người và Giáo Hội Công giáo phải  làm gì để giảm bớt tệ nạn này?

3. Hiện nay giới y-xã-hội (y tế và xã hội) có một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn người dân về những biện pháp bảo vệ sự sống và chăm sóc sức khỏe cũng như xây dựng nếp sống văn hóa. Giới này đã dược Giáo Hội quan tâm bồi dưởng về mặt giáo lý đức tin cách  tương xứng với vai trò của họ chưa? Tại sao? Các Tòa Giám Mục nên làm gì để giúp anh chị em Công giáo là bác sĩ, y  tá, điều dưỡng và cán sự/nhân viên xã hội?

 

 

7. GIÁO DỤC

  1. Đâu đâu tại Châu Á này ta cũng thấy Giáo Hội dấn thân vào hoạt động giáo dục một cách rõ ràng và rộng rãi; chính đó là một yếu tố then chốt cho Giáo Hội có mặt giữa các dân tộc của lục địa này. Tại nhiều nước, các trường Công Giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc phúc âm hóa, hội nhập đức tin, giới thiệu những cách sống cởi mở và tôn trọng nhau, cổ võ sự cảm thông giữa các tôn giáo. Các truờng học của Giáo Hội thường là những nơi duy nhất cung cấp các cơ hội giáo dục cho thiếu nữ, các dân tộc thiểu số, người nghèo ở thôn quê và trẻ em thiếu may mắn. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng tin chắc rằng mình phải mở rộng và phát triển việc tông đồ giáo dục tại Châu Á, quan tâm đặc biệt hơn tới những người bị thiệt thòi, để tất cả mọi người có khả năng đóng trọn vẹn vai trò công dân trong xã hội. Như các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã ghi nhận, đìều đó có nghĩa là hệ thống giáo dục Công Giáo cần phải nhắm một cách rõ ràng hơn nữa tới việc thăng tiến nhân bản, tạo một mơi trường cho các học sinh không chỉ tiếp thu những yếu tố chính của học đường mà còn nhận được một sự đào tạo nhân bản toàn diện dưa trên giáo huấn của Đức Kitô. Các trường Công Giáo cần phải tiếp tục là nơi cho người ta giới thiệu và tiến nhận đức tin một cách tự do. Cũng thế, các đại học Công Giáo không chỉ tiếp tục tìm sự xuất sắc về học vấn như đã từng nổi tiếng, mà còn phải bảo tồn được một bản sắc Kitô giáo rõ ràng để làm men Kitô giáo trong các xã hội Á Châu.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 37).

 

 Trao đổi :

  1. 1.              Tại Việt Nam từ mấy thập niên không còn trường Công giáo. Đó có là một thiệt thòi cho đất nước và dân tộc nói chung và cho Giáo Hội Công giáo nói riêng không? Tại sao? 
  2. 2.              Báo chí nói khá nhiều về ngành giáo dục của nước ta. Là người Công giáo bạn có thấy tâm hồn mình nhức nhối và đau xót khi  đọc những thông tin đáng buồn ấy không? Bạn thấy mình phải làm gì để đóng góp vào việc thay đổi và hoàn thiện ngành giáo dục nước nhà?