I. Giêsu (430-435)
Danh
xưng Giêsu, tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa
Cứu Độ”. Chúa Giêsu đến để cứu chúng
ta khỏi tội lỗi. Ơn
cứu độ này chính là sự sống và ân sủng
của Thiên Chúa ở đời này và hạnh phúc đời
sau trên Thiên Đàng. Danh Giêsu
là danh thần linh, danh duy nhất mang lại ơn cứu
độ. Danh Giêsu là
trọng tâm của kinh nguyện Kitô giáo.
II. Kitô (436-440)
Từ
"Kitô", tiếng Hy
Lạp, có nghĩa là "được xức dầu".
Kitô trở nên tên riêng
của Chúa Giêsu v́ Người đă chu toàn sứ
mạng thần linh của Đấng Kitô.
Trong Cựu Ước các vua, tư tế, và ngôn
sứ, được xức dầu nhân danh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đă làm trọn các lời tiên tri trong
Cựu Ước về Đức Kitô qua ba sứ vụ tư
tế, ngôn sứ và vương đế.
Người được Đức Chúa Cha và Chúa Thánh
Thần xức dầu. Người
đă nhận danh hiệu Kitô trước mặt các Tông
Đồ, nhưng đă không cho phép công khai gọi Người
bằng danh hiệu ấy, v́ người Do Thái khi ấy
mong đợi một Đức Kitô như một lănh tụ
chính trị. Ư nghiă chân
chính của Đấng Được Xức Dầu được
biểu lộ khi Chúa Giêsu chịu chết và sống
lại v́ tội chúng ta. Từ
đó, Hội Thánh công nhận Người là Đấng
Messia, là Đức Kitô.
III. Con Một Thiên Chúa (441-445)
Trong
Cựu Ước “con Thiên Chúa” được dùng
để gọi các thiên sứ, dân
IV. Chúa (446-455)
Cựu
Ước gọi Thiên Chúa là
Chúa. Tân Ước cũng
dùng "Chúa" để nói về Chúa Giêsu.
Trong suốt thời công khai, Người đă làm
những việc đầy quyền năng trên thiên nhiên,
bệnh tật, ma quỷ, sự chết và tội lỗi;
chứng tỏ Người có quyền tối thượng
của Thiên Chúa. Trong các
sách Tin Mừng, những kẻ đến xin Người
cứu chữa đều thờ lạy Người và
gọi Người là “Chúa”. Thánh Thôma thờ lạy Người
rằng “Lạy Chúa và Thiên Chúa của con.”
V́ Chúa Giêsu là Chúa, nên Hội Thánh tin rằng Người
là ch́a khóa, trung tâm, và cứu cánh của tất cả
lịch sử nhân loại. Danh
xưng "Chúa" nói lên quyền tối thượng
của Thiên Chúa. Tuyên xưng hay kêu cầu Chúa Giêsu là Chúa
có nghĩa là tin vào thiên tính của Người .