Đoạn 3: Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền


Hội Thánh có bốn đặc điểm là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.  Bốn đặc điểm này là những nét đặc thù của Hội Thánh đă được bày tỏ qua ḍng lịch sử.  Nhờ những đặc điểm này mà chúng ta nhận ra Hội Thánh là Nhiệm Thể Đức Kitô (811-812).

I.       Hội Thánh Duy Nhất (813-822)

Hội Thánh duy nhất v́ bắt nguồn từ Thiên Chúa Duy Nhất, có vị Sáng Lập là Đức Kitô,linh hồn là Chúa Thánh Thần.  Các phần tử được liên kết với nhau bằng đức ái, một đức tin duy nhất, việc phụng tự chung, nhất là các bí tích, và qua việc kế vị các Tông Đồ của các giám mục.  Hội Thánh chân chính do Chúa Giêsu thiết lập được tồn tại nơi Hội Thánh Công Giáo.  V́ chỉ qua Hội Thánh Công Giáo mới đạt được đầy đủ các phương tiện cứu độ (813-816).

Ngay từ thời sơ khai đă có ít nhiều rạn nứt trong Hội Thánh. Sau đó có nhiều phân rẽ trầm trọng hơn và nhiều cộng đoàn đă ly khai khỏi Hội Thánh Công Giáo, đôi khi tại lỗi của những người ở cả hai bên. Những đoạn tuyệt làm tổn thương sự hiệp nhất của Nhiệm Thể Đức Kitô là do tội lỗi gây ra.  Ngày nay những người sinh trưởng trong các cộng đoàn ấy không thể bị kết tội chia rẽ, và được Hội Thánh kính trọng và yêu thương như anh em.  Được công chính hóa và tháp nhập vào Đức Kitô nhờ đức tin khi chịu Phép Rửa, họ có quyền mang danh Kitô hữu. Các giáo hội của họ cũng chứa đựng “nhiều yếu tố thánh hóa và chân lư" không nằm trong giới hạn hữu h́nh của Hội Thánh Công Giáo. Chúa Thánh Thần dùng những giáo hội và cộng đoàn ấy như những phương tiện cứu độ có sức mạnh xuất phát từ sự sung măn của ân sủng và của chân lư mà Đức Kitô đă trao phó cho Hội Thánh Công Giáo (817-819).

Đức Kitô mời gọi sự hiệp nhất hoàn toàn giữa những ai theo Người. Chúng ta phải đáp trả bằng cách canh tân thường xuyên, hoán cải tận tâm hồn, bằng cầu nguyện chung, bằng hiểu biết nhau trong t́nh huynh đệ, qua việc huấn luyện đại đồng, đối thoại giữa các thần học gia, hợp tác trong các việc bác ái. V́ việc hợp nhất hoàn hảo vượt quá khả năng loài người, chúng ta phải đặt hết hy vọng vào Đức Kitô là Đấng duy nhất có thể làm cho chúng ta nên một (820-822).

II.    Hội Thánh Thánh Thiện (823-827)

Hội Thánh thánh thiện v́ nhờ kết hợp với Đức Kitô nên được Người thánh hóa, và được ban đủ các phương tiện cứu độ mà Thiên Chúa dùng để thánh hóa chúng ta.  Sự thánh thiên của Hội Thánh nơi trần thế dù thật sự, nhưng chưa hoàn hảo.  Chúng ta phải cố gắng trở nên hoàn thiện bằng cách noi gương Đức Kitô, Đấng hoàn toàn thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, không hề phạm tội, nhưng đă nhận chúng ta vào Hội Thánh Người để giúp chúng ta sám hối và canh tân.  Trong cố gắng này, chúng ta có các thánh, nhất là Đức Mẹ, làm gương mẫu thánh thiện, nhân đức và trung tín để noi theo.

III. Hội Thánh Công Giáo (830-856)

"Công Giáo" là phổ quát theo nghĩa toàn diện.  Hội Thánh là Công Giáo v́ được Đức Kitô hiện diện ở đó, trao trọn vẹn các phương tiện cứu độ theo ư Người, và sai đến với toàn thể nhân loại (830-831).

Mỗi giáo hội địa phương hiệp thông trong đức tin và bí tích với giám mục là công giáo trọn vẹn khi thông hiệp với Hội Thánh Rôma. Hội Thánh phổ quát không phải chỉ là một liên minh các giáo hội địa phương, nhưng do ơn gọi và sứ mạng, được mọc rễ trong những mảnh đất văn hóa, xă hội, dân tộc khác nhau, nên có những bộ mặt và những cách diễn tả khác nhau. Sự đa dạng về kỷ luật, nghi thức phụng vụ,… này càng nói lên đặc tính công giáo của Hội Thánh (832-835).

Hoàn toàn thuộc về Hội Thánh Công Giáo là những người chấp nhận trọn vẹn đức tin, các bí tích, và liên kết với Đức Kitô trong tổ chức hữu h́nh mà Người điều khiển qua ĐGH và các Giám Mục.  Những ai đă lănh Phép Rửa, nhưng không tuyên xưng đức tin trọn vẹn hoặc không hiệp thông với ĐGH, th́ cũng hiệp thông cách nào đó với Hội Thánh Công Giáo. Với các Hội Thánh Chính Thống, sự hiệp thông này rất sâu đậm (836-838).

Những ai chưa lănh nhận Tin Mừng cũng được an bài bằng nhiều cách để thuộc về Dân Thiên Chúa: những người Do Thái, dân Thiên Chúa trong Cựu Ước; người Hồi Giáo, tự nhận là giữ đức tin của Abraham, cũng thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất.  Liên hệ giữa Hội Thánh và các tôn giáo ngoài Kitô giáo trước hết căn cứ trên liên hệ giữa loài người với nhau, có cùng một nguồn gốc và một cứu cánh.  Hội Thánh nh́n nhận các tôn giáo khác cũng đang t́m kiếm, "trong bóng tối và qua các h́nh tượng", Thiên Chúa mà họ không biết nhưng gần gũi. Nhưng trong đời sống tôn giáo, con người có những giới hạn và những sai lầm (839-845). 

Hội Thánh khẳng định rằng mọi ơn cứu độ đều phát xuất từ Đức Kitô là Đầu, qua Hội Thánh là Nhiệm Thể Người.  Hội Thánh này cần thiết cho ơn cứu độ v́ chỉ một ḿnh Đức Kitô là trung gian và là đường cứu độ, và Người hiện diện giữa chúng ta trong Hội Thánh.   V́ thế, những ai biết rằng Hội Thánh Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Đức Kitô như phương tiện cứu rỗi cần thiết mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không kiên tŕ sống trong đó th́ không được cứu độ.  C̣n ai vô t́nh không nhận biết Tin Mừng của Đức Kitô và Hội Thánh, nhưng thành tâm t́m kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, cố gắng chu toàn Thánh Ư Ngài theo sự hướng dẫn của lương tâm, th́ có thể đạt tới ơn cứu độ muôn đời (846-848).

Đức Kitô truyền cho Hội Thánh phải rao giảng Tin Mừng cho thế gian.  Lệnh này phát sinh từ t́nh yêu của Thiên Chúa.  Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ nhận biết chân lư.  V́ tin vào ư muốn này của Thiên Chúa, nên Hội Thánh phải truyền giáo.  Hội Thánh v́ đức ái, và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đă theo gương Đức Kitô trong việc truyền giáo (849-856).

IV.  Hội Thánh Tông Truyền (857-870)

Hội Thánh tông truyền v́ được xây trên nền tảng các Tông Đồ theo 3 nghĩa: (1) được xây trên các Tông Đồ, là những chứng nhân đă được chính Đức Kitô tuyển chọn và sai đi; (2) ǵn giữ và lưu truyền giáo huấn do các Tông Đồ giảng dạy nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần; (3) tiếp tục được giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn qua những người kế vị các Tông Đồ (857).

Sứ vụ các Tông Đồ - Các Tông Đồ là những người được Đức Kitô sai đi để tiếp tục sứ mạng của Người.  Các ngài nhận quyền năng từ Người và là thừa tác viên của Người để ban phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các ngài có nhiệm vụ là làm nhân chứng cho cuộc Phục Sinh của Người và là nền móng của Hội Thánh.  Nhiệm vụ này không truyền lại được.  C̣n nhiệm vụ “làm cho muôn dân thành môn đệ” phải được truyền lại cho đến tận thế (858-860). 

Giám mục - kế vị các Tông Đồ - Để có những người xứng đáng tiếp tục thừa tác vụ của các ngài, các Tông Đồ đă đặt các giám mục lên kế vị, và ban quyền cho họ.  V́ thế, Hội Thánh dạy rằng: Chính Chúa đă lập các giám mục kế vị các Tông Đồ làm mục tử Hội Thánh.  Nên ai nghe các ngài là nghe Đức Kitô, c̣n ai khinh chê các ngài là khinh chê Đức Kitô và Đấng đă sai Người (861-862).

Việc tông đồ - Hội Thánh có tính tông truyền v́ hiệp thông trong đức tin và sự sống với nguồn cội của ḿnh nhờ các đấng kế vị thánh Phêrô và các Tông Đồ.  Hội Thánh c̣n mang tính tông truyền v́ tất cả các phần tử của Hội Thánh đều được sai đi.  Sự thành công của việc tông đồ của mỗi người tùy thuộc vào sự kết hợp sống động của họ với Đức Kitô, với các ơn Chúa Thánh Thần, và đức ái được nuôi dưỡng đặt biệt nhờ bí tích Thánh Thể. Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền trong căn tính sâu xa và tối hậu của ḿnh, v́ nơi Hội Thánh, Nước Trời đă hiện hữu và sẽ hoàn tất trong ngày tận thế.  Hội Thánh không ngừng cố gắng xây dựng NướcTrời dưới thế, luôn tin tưởng rằng t́nh yêu của Đức Kitô sẽ làm cho Hội Thánh nên hoàn hảo, để xứng đáng là Hiền Thê của Người trên Thiên Quốc (863-870).


Trở về mục lục - Đọc tiếp