Chương 1

Tôi Tin Kính Thiên Chúa Là Cha


Bản Tuyên Xưng Đức Tin của chúng ta bắt đầu với Thiên Chúa, là nguyên thủy và cứu cánh của mọi sự. Kinh Tin Kính bắt đầu với Thiên Chúa Cha (198).

Mục 1: Tôi Tin Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng Tạo Thành Trời Đất

Đoạn 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời

Tôi tin kính Đức Chúa Trời là lời xác quyết đầu tiên của Kinh Tin Kính và là lời căn bản nhất.  Tất cả các tín điều trong Kinh Tin Kính đều tùy thuộc vào tín điều này (199).

I.       Tôi tin kính Một Thiên Chúa (Duy Nhất) (200-202)

Thiên Chúa tự mặc khải là Đấng Duy Nhất cho dân Israel . Chính Chúa Giêsu xác định Thiên Chúa là "Chúa Duy Nhất", và có Ba Ngôi.

II.    Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài (203-213)

Trong Thánh Kinh, tên của một người diễn tả căn tính và ư nghĩa đời họ.  Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra cho dân Ngài cách tiệm tiến dưới nhiều Danh Thánh khác nhau.  Mặc khải của Ngài cho ông Môsê tại núi Sinai được nhận là căn bản cho Cựu và Tân Ước.

ü      Ngài đă nói rằng Ngài là Thiên Chúa của Abraham, Issac, và Giacob. Ngài hằng sống từ đời đời và tiếp tục sống đến muôn đời.

ü      Ngài mặc khải tên Ngài là YHWY (Giavê), nghĩa là Ta là “Đấng Tự Hữu,” luôn hiện diện bên cạnh Dân Ngài để giải cứu họ. 

ü      Sau khi dân Israel phạm tội thờ ḅ vàng, Ngài nhận lời ông Môsê và đồng hành giữa họ. Ngài cho biết Ngài là Đấng hay thương xót và nhân hậu, chậm bất b́nh, giàu nhân ái và trung tín. Ngài thương ta đến nỗi hiến tế Con Một của Ngài để cứu ta khỏi tội lỗi.

ü      Thiên Chúa tỏ cho dân Israel biết rằng ngoài Ngài ra không có thần nào khác. Ngài siêu vượt thế giới và lịch sử.  Chính Ngài đă dựng nên trời đất, là "Đấng Hiện Hữu" từ muôn đời, cho nên Ngài luôn trung tín với chính ḿnh và với các lời Ngài hứa.

III.  Đấng Hằng Hữu, là Chân Lư và T́nh Yêu (214-221)

Thiên Chúa là Chân Lư, v́ Ngài là Ánh Sáng, nơi Ngài không có một chút tăm tối nào; Ngài không hề thay đổi và không hề gian dối; Ngài luôn thực hiện những lời Ngài hứa.  Chân Lư của Ngài được biểu lộ qua sự khôn ngoan Ngài dùng điều khiển toàn thể trật tự vũ trụ. Thiên Chúa là "T́nh Yêu".  T́nh yêu "vĩnh cửu" giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Ngài chia sẻ t́nh yêu này với ta.  T́nh yêu thắng mọi bất trung, và đưa đến hồng ân quư giá nhất là "Thiên Chúa đă yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài."  Trong mọi công tŕnh, Ngài biểu lộ ḷng ưu ái, nhân hậu, ân sủng và t́nh yêu; Ngài cũng tỏ ra là Đấng đáng tin cậy, bền vững, trung tín, và chân thật.

IV.  Ngụ ư của Đức Tin vào Một Thiên Chúa (222-231)

Tin vào Thiên Chúa nghĩa là nhận biết sự cao cả của Ngài, và luôn sống trong niềm tạ ơn.  Cũng có nghĩa là nhận ra phẩm giá của tất cả những ai được dựng nên giống h́nh ảnh Thiên Chúa, sử dụng những ǵ Thiên Chúa đă dựng nên cách chính đáng, và tín thác vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.


Trở về mục lục - Đọc tiếp