Bản
Tuyên Xưng Đức Tin của chúng ta bắt đầu
với Thiên Chúa, là nguyên thủy và cứu cánh của
mọi sự. Kinh Tin Kính bắt đầu với Thiên Chúa
Cha (198).
Tôi
tin kính Đức Chúa Trời
là lời xác quyết đầu
tiên của Kinh Tin Kính và là lời căn bản nhất.
Tất cả các tín điều trong Kinh Tin Kính đều
tùy thuộc vào tín điều này (199).
Thiên
Chúa tự mặc khải là Đấng Duy Nhất cho dân
II. Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài (203-213)
Trong
Thánh Kinh, tên của một người diễn tả căn
tính và ư nghĩa đời họ. Thiên
Chúa đă tỏ ḿnh ra cho dân Ngài cách tiệm tiến dưới
nhiều Danh Thánh khác nhau. Mặc
khải của Ngài cho ông Môsê tại núi Sinai được
nhận là căn bản cho Cựu và Tân Ước.
ü
Ngài đă nói rằng Ngài
là Thiên Chúa của Abraham, Issac, và Giacob. Ngài
hằng sống từ đời đời và tiếp
tục sống đến muôn đời.
ü
Ngài mặc khải tên Ngài
là YHWY (Giavê), nghĩa là Ta là “Đấng
Tự Hữu,” luôn hiện diện bên cạnh Dân Ngài
để giải cứu họ.
ü
Sau khi dân
ü
Thiên Chúa tỏ cho dân
III. Đấng Hằng Hữu, là Chân Lư và T́nh Yêu (214-221)
Thiên
Chúa là Chân Lư, v́ Ngài là Ánh
Sáng, nơi Ngài không có một chút tăm tối nào; Ngài
không hề thay đổi và không hề gian dối; Ngài luôn
thực hiện những lời Ngài hứa.
Chân Lư của Ngài được biểu lộ qua
sự khôn ngoan Ngài dùng điều khiển toàn thể
trật tự vũ trụ. Thiên
Chúa là "T́nh Yêu". T́nh
yêu "vĩnh cửu" giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần. Ngài
chia sẻ t́nh yêu này với ta.
T́nh yêu thắng mọi bất trung, và đưa
đến hồng ân quư giá nhất là "Thiên Chúa đă
yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài." Trong
mọi công tŕnh, Ngài biểu lộ ḷng ưu ái, nhân
hậu, ân sủng và t́nh yêu; Ngài cũng tỏ ra là Đấng
đáng tin cậy, bền vững, trung tín, và chân thật.
IV. Ngụ ư của Đức Tin vào Một Thiên Chúa (222-231)
Tin
vào Thiên Chúa nghĩa là nhận biết sự cao cả
của Ngài, và luôn sống trong niềm tạ ơn. Cũng
có nghĩa là nhận ra phẩm giá của tất cả
những ai được dựng nên giống h́nh ảnh
Thiên Chúa, sử dụng những ǵ Thiên Chúa đă
dựng nên cách chính đáng, và tín thác vào Thiên Chúa trong
mọi hoàn cảnh.