Mục 7: Bí tích Hôn Phối


"Hôn ước, mà một người nam và người nữ thỏa thuận với nhau để suốt đời chung sống, tự bản tính hướng về điều cho hai vợ chồng và việc sinh sản cùng giáo dục con cái. Đức Kitô đă nâng hôn ước giữa những người đă chịu phép Thánh Tẩy lên hàng bí tích" (1601)

I.       Hôn Nhân trong chương tŕnh của Thiên Chúa

Từ đầu đến cuối, Kinh Thánh nói về hôn nhân, "mầu nhiệm" hôn nhân, việc thiết lập và ư nghĩa mà Thiên Chúa đă ban cho nó, nguồn gốc và mục đích của hôn nhân, những biến chuyển qua ḍng lịch sử cứu độ, những khó khăn do tội và việc canh tân trong Chúa, trong Giao Ước Mới giữa Đức Kitô và Hội Thánh. (1602)

Hôn nhân trong trật tự tạo dựng - Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân.  V́ Ngài đă dựng nên người nam và người nữ, nên ơn gọi hôn nhân được ghi khắc ngay trong bản tính của họ.  Con người biết yêu v́ họ giống Thiên Chúa, là T́nh yêu. Thiên Chúa chúc phúc cho t́nh yêu hôn nhân để nó được trở nên sung măn và thể hiện trong việc bảo tồn công tŕnh tạo dựng.  Thánh Kinh khẳng định người nam người nữ được tạo dựng cho nhau. (1603-1605)

Hôn nhân dưới ách tội lỗi - Qua mọi thời đại, sự hiệp nhất của hôn nhân bị đe dọa bởi bất hoà, óc thống trị, bất trung, ḷng ghen tương và những xung đột có thể đưa đến hận thù và đoạn tuyệt.  Xáo trộn là do tội lỗi mà ra.  Trật tự của công tŕnh sáng tạo vẫn tồn tại dù bị xáo trộn nặng nề.  Để chữa lành những vết thương do tội lỗi, con người cần Chúa trợ giúp bằng ân sủng, mà với ḷng nhân hậu vô biên Ngài không bao giờ từ chối họ (1615-1608). 

Hôn nhân trong Lề Luật Môsê - Ư thức đạo đức về sự duy nhất và bất khả phân ly của hôn nhân được phát triển dần dần trong Cựu Ước.  Tục đa thê của các tổ phụ và vua chúa chưa được đẩy lui rơ rệt, v́ họ c̣n "cứng ḷng."  Khi nh́n giao ước của Chúa với dân Israel dưới h́nh ảnh của một t́nh yêu hôn nhân độc hữu và chung thủy, các ngôn sứ đă dọn ḷng Dân Tuyển Chọn để họ ư thức sâu xa về tính duy nhất và bất khả phân ly của hôn nhân.  Truyền thống luôn nhận thấy trong sách Diễm Ca lời diễn tả t́nh yêu con người theo nghĩa là phản ánh t́nh yêu của Thiên Chúa, một t́nh yêu "mănh liệt như sự chết" (1609-1611)

Hôn nhân trong Chúa - Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel theo h́nh ảnh hôn nhân, chuẩn bị một giao ước mới vĩnh cửu.  Hội Thánh coi việc Đức Kitô hiện diện trong tiệc cưới Cana có một tầm quan trọng đặc biệt.  Hội Thánh nh́n sự kiện này như Lời Chúa xác nhận hôn nhân là việc tốt và công bố hôn nhân từ đây là dấu chỉ hữu hiệu về sự hiện diện của Đức Kitô.  Trong khi rao giảng, Đức Kitô cho thấy rơ ư nghĩa nguyên thủy của hôn nhân như thuở ban đầu Đấng Sáng Tạo đă muốn.   Đức Kitô nhấn mạnh rằng hôn nhân bất khả phân ly.  Người đă ban sức mạnh và ân sủng để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân trong chiều kích mới của Nước Thiên Chúa.  Ân sủng của hôn nhân Kitô giáo là hoa quả của Thánh Giá Đức Kitô, nguồn mạch mọi đời sống Kitô hữu.  Toàn bộ đời sống Kitô giáo mang dấu ấn của t́nh yêu "hôn nhân" giữa Đức Kitô và Hội Thánh. (1612 -1617).

Khiết tịnh v́ Nước Trời - Đức Kitô là trọng tâm của toàn bộ đời sống Kitô giáo. Phải coi trọng mối liên kết với Chúa hơn mọi mối liên kết khác, dù là gia đ́nh hoặc xă hội (x. Lc 14,26; Mc 10,28-31).  Khiết tịnh v́ Nước Trời là một hoa quả đặc biệt của ân sủng bí tích Thánh Tẩy, một dấu chỉ nổi bật về sự trổi vượt của mối liên kết với Đức Kitô.  Bí tích Hôn Phối và đời sống Khiết Tịnh v́ Nước Trời đều phát xuất từ Đức Kitô.  Người đem lại cho hai lối sống này ư nghĩa và ban ân sủng cần thiết để ở bậc nào người ta cũng có thể sống đúng theo thánh ư Người.  (1618-1620)

II.    Cử hành bí tích Hôn Phối

Trong nghi lễ Latinh, hôn nhân giữa hai người Công Giáo thường được cử hành trong Thánh Lễ, v́ các bí tích đều liên hệ với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.  Đôi hôn phối bày tỏ sự ưng thuận hiến thân cho nhau qua việc liên kết với việc Đức Kitô hiến thân cho Hội Thánh, điều được hiện tại hoá trong Thánh Lễ, và qua việc rước Thánh Thể để nhờ kết hợp với Ḿnh và Máu Đức Kitô, họ "trở thành một thân thể" trong Người.  Đôi hôn phối cũng nên lănh nhận bí tích Giao Hoà để chuẩn bị cử hành bí tích Hôn Phối. (1621-1622)

Theo truyền thống Latinh, chính đôi hôn phối là thừa tác viên ban bí tích Hôn Phối cho nhau khi họ bày tỏ sự ưng thuận kết hôn trước mặt Hội Thánh.  Trong truyền thống các Giáo Hội Đông Phương, linh mục hay giám mục chủ lễ làm chứng việc đôi hôn phối trao đổi lời ưng thuận kết hôn, nhưng lời chúc hôn của các ngài cũng cần thiết để bí tích thành sự.  Nhờ lời nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần của bí tích này, đôi hôn phối lănh nhận Chúa Thánh Thần là sự hiệp thông t́nh yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh.  Chính Chúa Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của họ, nguồn mạch t́nh yêu của họ, và sức mạnh giúp họ chung thủy (1623-1624).

III.   Sự ưng thuận kết hôn

Người kư kết giao ước hôn nhân phải là một người nam và một người nữ đă rửa tội, tự do để kết hôn và công khai bày tỏ sự ưng thuận kết hôn.  Hội Thánh coi việc hai người bày tỏ sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết "làm nên hôn nhân".  Sự ưng thuận phải là hành vi ư chí của mỗi người phối ngẫu.  Thiếu sự tự do, hôn nhân không thành.  "Tự do" nghĩa là không bị ép buộc, không bị cưỡng bức v́ bạo lực hay quá sợ hăi do một nguyên cớ ngoại tại, cũng không bị ngăn trở theo luật tự nhiên hay giáo luật (1625-1629)

Linh mục (hay phó tế), chứng giám nghi thức Hôn Phối, nhân danh Hội Thánh nhận lời ưng thuận của đôi bên và chúc lành cho họ.  V́ lư do này, Hội Thánh thường đ̣i buộc các tín hữu phải kết hôn theo thể thức của Hội Thánh v́ những lư do sau (1630-1631):

ü      hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh, có những nghĩa vụ và quyền lợi giữa đôi vợ chồng và đối với con cái;

ü      bí tích Hôn Phối là một hành vi Phụng Vụ, do đó, nên cử hành trong nghi thức Phụng Vụ công khai của Hội Thánh;

ü      v́ hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh, nên phải có sự chắc chắn v́ thế phải có những người làm chứng;

ü      việc công khai bày tỏ sự ưng thuận bảo vệ lời cam kết và giúp vợ chồng sống chung thủy.

Chuẩn bị hôn nhân là điều rất quan trọng để lời cam kết của đôi hôn phối trở thành một hành vi tự do và trách nhiệm, cũng như hôn ước có nền tảng nhân bản và Kitô giáo vững bền.  Gương sáng và sự dạy dỗ của cha mẹ và các gia đ́nh là điều tiên quyết.  Vai tṛ của các mục tử và cộng đoàn tín hữu cũng không thể thiếu được trong việc truyền thụ các giá trị nhân bản và Kitô giáo của hôn nhân và gia đ́nh, nhất là trong thời đại mà giới trẻ đang chứng kiến nhiều cảnh gia đ́nh đổ vỡ. Cần phải giáo dục thanh thiếu niên hợp thời và đúng cách về giá trị, vai tṛ và cách thể hiện t́nh yêu hôn nhân, nhất là trong gia đ́nh. Để một khi các em biết giá trị của đức khiết tịnh (1632).

Hôn phối hỗn hợp và khác đạo - Hôn nhân hỗn hợp có thể gặp nhiều khó khăn, nhưng không phải là không thể vượt qua, nếu họ cố gắng kết hợp những ǵ đă lănh nhận nơi cộng đoàn của họ và cùng nhau học hỏi để sống trung thành với Đức Kitô.  Những khó khăn này xuất phát từ sự chia rẽ giữa các Kitô hữu đến nay vẫn chưa giải quyết được.  Hôn nhân khác đạo c̣n gặp nhiều khó khăn hơn. Những bất đồng quan điểm về đức Tin và hôn nhân, cũng như những năo trạng tôn giáo khác nhau, có thể dẫn đến những căng thẳng trong gia đ́nh, nhất là về việc giáo dục con cái.  Một nguy hiểm khác là người ta có thể dửng dưng về tôn giáo.  Theo luật hiện hành của Giáo Hội Latinh, Hôn Phối hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép của giáo quyền.  Hôn phối khác đạo chỉ thành sự khi có phép chuẩn.  Muốn được phép hay được chuẩn, hai đương sự phải biết và chấp nhận những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân và bên Công Giáo xác nhận cam kết giữ đức tin của ḿnh, bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công Giáo, cũng phải cho bên không Công Giáo biết rơ những điều ấy.  Trong trường hợp hôn phối khác đạo, bên Công Giáo có trách nhiệm đặc biệt: "Chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ chồng có đạo". Chính t́nh yêu hôn nhân chân thành, việc khiêm tốn và kiên nhẫn thực thi những nhân đức gia đ́nh và siêng năng cầu nguyện có thể chuẩn bị cho người không có đạo được ơn làm con Chúa (1633-1637).

IV.  Hiệu quả của bí tích Hôn Phối

Hiệu quả hôn phối là tạo nên mối dây hôn phối.  Hơn nữa, ân sủng của bí tích Hôn Phối củng cố t́nh yêu và sự kết hợp bất khả phân ly giữa hai vợ chồng (1638).

Mối dây Hôn Phối - Chính Thiên Chúa đóng ấn xác nhận hôn ước của hai người.  Hôn ước được liên kết với giao ước Thiên Chúa kư kết với nhân loại.  Dây hôn phối do chính Thiên Chúa liên kết nên hôn nhân thành sự và hoàn hợp, giữa hai người đă được rửa tội, không bao giờ được tháo gỡ (1639-1640).

Ân sủng bí tích Hôn Phối - Ân sủng đặc biệt của bí tích Hôn Phối là kiện toàn t́nh yêu vợ chồng, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly của họ.  Nhờ ân sủng này, "họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái."  Đức Kitô chính là nguồn ân sủng này.  Người ngự trong họ, ban cho họ sức mạnh để vác thập giá mà theo Người, mà hối cải, tha thứ cho nhau, chia sẻ gánh nặng của nhau v́ kính yêu Đức Kitô, và yêu thương nhau bằng t́nh yêu siêu nhiên, âu yếm, và có kết quả (1641-1642).

V.     Ích lợi và đ̣i hỏi của t́nh yêu vợ chồng

T́nh yêu vợ chồng nhắm đến một sự hiệp nhất giữa hai người không những chỉ về thể xác mà đưa đến việc hợp thành một trái tim, và một linh hồn; nó đ̣i hỏi sự bất khả phân ly và chung thủy trao hiến cho nhau một cách dứt khoát, nó mở ngỏ cho việc sinh sản (1643).

Sự hợp nhất và bất khả phân ly của Hôn Nhân - Tự bản chất, t́nh yêu vợ chồng đ̣i hỏi sự hợp nhất và bất khả phân ly giữa họ.  Sự hiệp thông giữa hai người được xác nhận, thanh lọc, và hoàn thiện nhờ sự hiệp thông trong Đức Kitô, và càng thâm sâu đậm nhờ cùng chia sẻ một đức tin và cùng đón rước Thánh Thể.  Đa thê là ngược lại với t́nh yêu vợ chồng là t́nh yêu độc quyền và không thể phân chia. (1644-1645)

T́nh yêu chung thủy của vợ chồng - Tự bản chất, t́nh yêu hôn nhân đ̣i hỏi hai vợ chồng phải chung thủy v́ dựa trên sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước của Ngài, và của Đức Kitô với Hội Thánh.  Qua bí tích t́nh yêu vợ chồng được tham dự vào t́nh yêu của Thiên Chúa; t́nh yêu này hướng dẫn và nâng đỡ họ; nhờ chung thủy với nhau, họ có thể làm chứng nhân cho t́nh yêu trung tín của Thiên Chúa.  Có những hoàn cảnh hai người không thể tiếp tục chung sống được v́ nhiều lư do khác nhau, Hội Thánh chấp nhận để họ ly thân. Nhưng họ vẫn là vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và không được tự do tái hôn.  Việc tái hôn của những người đă ly dị khi người phối ngẫu c̣n sống, nghịch lại ư định và lề luật của Thiên Chúa mà Đức Kitô đă dạy.  Những người này không bị tách ra khỏi Hội Thánh, nhưng không được rước lễ; họ vẫn sống đời Kitô hữu, nhất là giáo dục con cái trong đức tin. (1646-1651).

Sẵn sàng sinh sản con cái - Một mục đích chính của hôn nhân là sinh sản và dạy dỗ con cái.  Thiên Chúa muốn con người hợp tác vào công việc tạo dựng của Ngài bằng việc truyền sinh.  V́ thế từ đó phát sinh ra t́nh yêu vợ chồng và cơ cấu của nếp sống gia đ́nh.  Con cái là ân huệ cao quư nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ.  T́nh yêu vợ chồng c̣n phong phú nhờ những hoa quả của đời sống luân lư, tinh thần và siêu nhiên được cha mẹ truyền cho con cái qua việc giáo dục (1652-1654).

VI.  Hội Thánh tại gia (1654-1658)

Đức Kitô đă muốn sinh ra và lớn lên trong gia đ́nh Thánh Gia.  Gia đ́nh tín hữu là nơi con cái tiếp nhận nền móng đức tin. V́ vậy, gia đ́nh được gọi rất đúng là “Hội Thánh tại gia”, cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, trường học phát triển các đức tính tự nhiên và đức ái Kitô giáo.  Chính trong gia đ́nh, người ta học biết làm việc với sự nhẫn nại và niềm vui, yêu thương huynh đệ, quảng đại tha thứ luôn, nhất là phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và hy lễ đời sống.  Các gia đ́nh cũng phải mở rộng cửa nhà đón tiếp tất cả những người v́ hoàn cảnh phải sống độc thân v́ họ cũng cần có t́nh gia đ́nh.


Trở về mục lục - Trang Sau