Nhân
đức là một khuynh hướng theo thói quyen và
chắc chắn để hết sức làm điều
tốt. Người nhân
đức hướng về sự thiện với
tất cả năng lực thể xác và tinh thần. Họ
cố gắng theo đuổi điều thiện và
dứt khoát chọn lựa bằng những hành động
cụ thể (1803).
I.
Các
đức tính nhân bản (1804-1811)
Các
đức tính nhân bản
hay nhân đức là
những thái độ chắc chắn, khuynh hướng
vững bền, thói quen hướng thiện của lư trí
và ư chí; chúng điều khiển các hành động, các
đam mê, và hướng dẫn cách ăn ở của ta
theo lư trí và đức tin. Các
đức tính này đem lại cho ta sự thoải mái,
tự chủ và an vui, để sống một cuộc
đời tốt đẹp. Người
nhân đức tự nguyện làm điều lành.
Muốn có các đức tính luân lư này, ta phải
cố gắng luyện tập. Các
đức tính hướng mọi năng lực của
con người đến sự hiệp thông với t́nh yêu
Thiên Chúa (1804).
Các
nhân đức căn bản -
Có bốn nhân đức đóng vai tṛ "bản lề,"
v́ các nhân đức khác xoay quanh chúng, là khôn ngoan, công b́nh,
can đảm và tiết độ; cũng gọi là các nhân
đức căn bản (1805).
Khôn
ngoan
giúp lư trí nhận ra điều lành và chọn
những phương thế tốt để đạt
được nó. Khôn
ngoan không phải là do dự, tráo trở hay vờ vĩnh.
Nó vạch ra quy tắc và giới hạn cho các
đức tính khác. Nó
hướng dẫn phán đoán của lương tâm. Nhờ
nó, ta áp dụng đúng đắn các nguyên tắc luân
lư vào từng trường hợp cụ thể, và không
phải do dự về điều lành phải làm và
điều dữ phải tránh (1806).
Công
b́nh
thể hiện qua quyết tâm trả cho Thiên Chúa
những ǵ thuộc về Thiên Chúa và cho tha nhân
những ǵ thuộc về họ; đối với Thiên
Chúa là "nhân đức thờ phượng";
đối với tha nhân, là tôn trọng quyền
lợi của mỗi người, đối xử chính
trực với họ và thực thi công ích, ngay cả
trong tư tưởng (1807).
Can
đảm
giúp ta kiên tŕ và quyết tâm theo đuổi
điều tốt. Nó
giúp ta chống lại cám dỗ và vượt qua các chướng
ngại trong đời sống luân lư. Nhờ can đảm,
ta thắng sợ hăi, ngay cả cái chết,
đương đầu với thử thách và bách
hại, sẵn sàng hy sinh mạng sống v́ chính nghĩa
(1808).
Tiết
độ
giúp ta kiềm chế sức lôi cuốn của
lạc thú và sử dụng chừng mực của
cải. Tiết độ
giúp ư chí làm chủ các bản năng và kềm
chế các ham muốn trong một giới hạn chính
đáng (1809).
Nhân
đức và ân sủng.
Nhờ ơn Chúa, các nhân đức tôi luyện tính
t́nh và giúp ta dễ dàng làm điều thiện. Ơn
cứu độ của Đức Kitô đem lại cho chúng
ta ân sủng cần thiết để kiên tâm trau dồi
các nhân đức. Muốn tập nhân đức, cần
phải luôn cầu xin ơn soi sáng, nhờ đến các
bí tích, cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghe theo
tiếng Ngài gọi để yêu chuộng điều
thiện và lánh xa điều ác (1810-1811).
II.
Các
nhân đức Đối Thần
Các
nhân đức đối thần là các nhân đức làm
cho ta có khả năng thông phần bản tính Thiên Chúa.
Các nhân này là nền tảng, linh hồn và nét đặc
thù của hoạt động luân lư Kitô giáo. Thiên Chúa
ban cho ta các nhân đức này để ta có khả năng
hành động như con cái Ngài và đáng hưởng
sự sống đời đời. Các
nhân đức đối thần là bảo chứng Chúa
Thánh Thần hiện diện và tác động trong
những năng lực của con người.
Có ba nhân đức đối thần là tin, cậy,
mến (1812-1813).
Đức
tin
giúp chúng ta tin vào Thiên Chúa, cùng tất cả
những ǵ Ngài đă phán và mặc khải cũng như
Hội Thánh dạy phải tin, v́ Thiên Chúa là chân lư. Đức
tin không có đức cậy và đức mến,
sẽ không kết hợp ta trọn vẹn với Đức
Kitô và không làm cho ta trở nên chi thể sống động
trong Nhiệm Thể Người. Chúng
ta không những phải giữ và sống đức
tin, mà c̣n phải tuyên xưng, làm chứng và truyền
bá đức tin. (1814-1816).
Đức
cậy
giúp chúng ta khao khát Nước Trời và sự
sống vĩnh cửu, nhờ tin tưởng vào các
lời hứa của Đức Kitô và phó thác vào ơn
Chúa Thánh Thần, chứ không dựa vào sức ḿnh. Đức
cậy bảo vệ ta khỏi thất vọng, nâng
đỡ ta, giúp ta phấn khởi mong đợi
hạnh phúc muôn đời. Đức
cậy giải thoát ta khỏi ḷng ích kỷ và
đưa ta đến hạnh phúc của đức ái.
Các Mối Phúc Thật hướng niềm hy
vọng của ta lên Thiên Quốc. Nhờ
công ơn và cuộc khổ nạn của Đức Kitô,
Thiên Chúa ǵn giữ chúng ta trong đức cậy. Đức
cậy được diễn tả và nuôi dưỡng
trong kinh nguyện, nhất là kinh Lạy Cha (1817-1821).
Đức
mến
hay đức
ái giúp ta yêu mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự, và v́ Chúa mà thương
yêu tha nhân như chính ḿnh. Đức
Kitô đặt đức ái làm điều răn
mới. Đức ái là
hoa quả của Chúa Thánh Thần và là chu toàn lề
luật. Thánh Phaolô
kể ra các đặc điểm của đức ái:
"Đức ái th́ nhẫn nhục, không ghen tương,
không khoe khoang, không tự đắc, không làm điều
bất chính, không t́m tư lợi, không nóng giận, không
hận thù, không mừng v́ điều ác, nhưng vui v́
điều chân thật. Đức ái tha thứ tất
cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng
tất cả." Đức
ái cao trọng hơn mọi nhân đức, và đứng
đầu các nhân đức đối thần. Đức
ái gợi hứng và thúc đẩy việc tập
luyện mọi nhân đức.
Đức ái là nguồn mạch và cùng đích
của việc thực hành các nhân đức trong đời
sống Kitô hữu. Đức
ái bảo đảm, thanh luyện và nâng khả năng
yêu thương của con người lên mức hoàn
thiện siêu nhiên. Đời
sống luân lư được sinh động nhờ
đức ái, đem lại cho các Kitô hữu sự
tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa. Hoa
quả của đức ái là niềm vui, b́nh an và ḷng
thương xót (1822-1829).
III.
Ân
huệ và hoa quả của
Chúa Thánh Thần (1830-1832)
Chúa
Thánh Thần ban các ơn nâng đỡ đời sống
luân lư của ta. Các ơn
này là những khuynh hướng cố định giúp ta
ngoan ngoăn sống theo Thánh Thần.
Bảy ơn Chúa Thánh
Thần là các ơn khôn ngoan, thông minh, biết lo
liệu, dũng cảm, hiểu biết, đạo đức
và kính sợ Chúa. Các
hoa quả của Chúa Thánh Thần là Bác ái, hoan lạc,
b́nh an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện,
hiền ḥa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và
thanh khiết.