I.
Công
Chính Hóa (1987-1995)
Công
chính hóa là ân sủng Chúa Thánh Thần làm cho ta nên công chính
nhờ tin vào Đức Kitô qua bí tích Thánh Tẩy, và
nhờ kết hợp với cuộc Vượt Qua của
Người bằng cách chết cho tội lỗi.
Công tŕnh đầu tiên Chúa Thánh Thần thực
hiện nơi ta là sự hoán cải. Dưới
tác động của ân sủng, ta từ bỏ tội
lỗi mà quay về với Thiên Chúa, nhờ đó
được ơn tha thứ và sự công chính. Khi
được công chính hóa, ta được ḥa giải
với Thiên Chúa, được giải phóng khỏi
tội lỗi và được chữa lành. Sự
công chính ở đây chỉ sự công minh chính trực
của t́nh yêu Thiên Chúa. Cùng
với ơn này, Ngài ban cho ta đức tin, đức
cậy, đức mến, và ơn biết vâng theo thánh ư
Ngài. Ta được công
chính hóa nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô,
Đấng đă dâng ḿnh trên Thánh Giá làm của lễ
sống động, thánh thiện và đẹp ḷng Thiên
Chúa, và Máu Người trở nên phương tiện
đền tội cho mọi người. Ơn
này giúp ta sống phù hợp với sự công chính
của Thiên Chúa.
Ơn
công chính hóa mở đầu cho sự cộng tác
giữa ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con người.
Về phía con người,
ơn này được biểu lộ qua sự bằng ḷng
tin theo lời Thiên Chúa mời gọi hoán cải, và
cộng tác bằng đức ái với tác động
của Chúa Thánh Thần. Con
người phải hợp tác với Chúa Thánh Thần
khi đón nhận tác động này mà họ có thể
từ chối. Tuy nhiên, không
có ân sủng Chúa, họ không thể nhờ ư chí tự
do của ḿnh đạt tới sự công chính trước
mặt Ngài. Chúa Thánh
Thần là vị thầy nội tâm. Ơn
công chính hóa khai sinh "con người nội tâm" và
đem lại ơn thánh hóa toàn thể con người.
II.
Ân
Sủng (1996-2005)
Chúng
ta được công chính hóa nhờ ân sủng của Thiên
Chúa. Ân sủng là một
ân huệ, một sự trợ giúp nhưng không mà Chúa
ban để ta trở thành con cái Ngài. Ân
sủng cho ta tham dự vào sự sống Thiên Chúa. Nhờ
bí tích Thánh Tẩy, chúng ta thành chi thể của Nhiệm
thể Đức Kitô, và thành nghĩa tử Thiên Chúa,
được gọi Ngài là "Cha". Chúng
ta lănh nhận sự sống của Chúa Thánh Thần.
Ân sủng của Đức Kitô là ân huệ nhưng không,
qua đó Thiên Chúa ban cho ta sự sống của Ngài. Đó
là ơn thánh hóa hay thần
hóa ta nhận được trong bí tích Thánh Tẩy. Ơn
này là một trạng thái siêu nhiên bền vững, hoàn
thiện hóa linh hồn để chúng ta có thể sống
với Thiên Chúa và hành động nhờ t́nh yêu của
Ngài. Chúng ta phân biệt
ơn thường sủng
và ơn hiện sủng. Ơn
thường sủng là
trạng thái thường xuyên để sống và làm
theo tiếng gọi của Thiên Chúa, c̣n ơn hiện
sủng là những can thiệp của Thiên Chúa lúc
khởi đầu cuộc hoán cải hoặc trong
quá tŕnh thánh hóa (1996-2000).
Chuẩn
bị con người đón nhận ân sủng
cũng là một công tŕnh của ân sủng. Việc
chuẩn bị này cần thiết để khơi
dậy và nâng đỡ sự cộng tác của ta vào
việc công chính hóa nhờ đức tin, vào việc thánh
hóa nhờ đức ái. Thiên
Chúa tự do đi bước trước, và Ngài muốn
con người tự do đáp
trả. Chỉ khi
tự nguyện, con người mới có thể bước
vào hiệp thông t́nh yêu (2001-2002).
Ngoài
mục đích thánh hóa chúng ta, ân sủng cũng gồm các
ơn giúp ta có khả năng cộng
tác vào việc cứu độ tha nhân và phát triển
Hội Thánh. Đó là
các ân sủng bí tích,
mỗi bí tích ban ơn riêng. Ngoài
ra, c̣n có đặc sủng
qui hướng về ơn thánh hóa và có
mục đích phục vụ lợi ích chung của
Hội Thánh. Trong các đặc sủng, có các
ơn chức phận được ban cho người
thi hành các nhiệm vụ của đời Kitô hữu và
các thừa tác vụ trong ḷng Hội Thánh.
V́ ân sủng thuộc b́nh diện siêu nhiên, nên vượt
tầm kinh nghiệm của ta, và chỉ nhận biết
được bằng đức tin, nên ta không thể
dựa vào t́nh cảm hay các việc làm để kết
luận rằng ta đă được công chính hóa và
được cứu rỗi. Tuy
nhiên, việc suy niệm về các ơn Chúa trong đời
ta và các thánh, cho ta một bảo đảm rằng ân
sủng đang hoạt động trong ta, giúp cho đức
tin của ta thêm lớn mạnh, và tín thác hơn vào Thiên
Chúa (2003-2005).
III.
Công Phúc (2006-2011)
Theo
đúng nghĩa, chúng ta chẳng có công ǵ trước
mặt Thiên Chúa. Nhưng v́ Ngài đă tự do an bài cho ta
cộng tác với ân sủng nên ta có thể lập công
trước mặt Ngài. Công
đầu tiên thuộc về ân sủng của Thiên Chúa.
Khi nhận ta làm nghĩa
tử, Ngài cho ta "đồng thừa tự" với
Đức Kitô. Công trạng
của ta là hồng ân của Ngài. Trên
b́nh diện ân sủng, không ai lập được công
để đáng nhận ân sủng mở đầu cho các
ơn hoán cải, tha thứ và công chính hóa, v́ đó là sáng
kiến của Thiên Chúa. Sau
đó, dưới tác động của Chúa Thánh Thần
và đức ái, ta mới có thể lập công để
đáng lănh nhận cho ḿnh và tha nhân những ân sủng
hữu ích cho việc thánh hóa, gia tăng ân sủng và t́nh
yêu, cũng như đạt được sự sống
đời đời. Theo
sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể
lập công để đáng lănh nhận những lợi
ích trần thế như sức khỏe, t́nh bạn….
Các Kitô hữu vẫn cầu xin Thiên Chúa ban cho ḿnh các
ân sủng và lợi ích này. Lời
cầu nguyện có thể làm Thiên Chúa thương nghe và
ban ân sủng cần thiết giúp chúng ta làm những
việc đáng thưởng. T́nh
yêu Đức Kitô trong ta là nguồn mọi công trạng
của ta trước mặt Thiên Chúa. Ân
sủng kết hợp ta với Người trong t́nh yêu,
bảo đảm tính siêu nhiên của các việc ta làm,
do đó bảo đảm công trạng trước
mặt Thiên Chúa và người ta. Các
thánh luôn ư thức rằng công trạng của các ngài hoàn
toàn do ân sủng.
III.
Sự
thánh thiện của Kitô hữu (2012-2029)
Tất
cả mọi Kitô hữu đều được kêu
gọi nên thánh. Để nên
thánh, chúng ta phải dùng các sức lực mà Đức
Kitô đă ban để làm theo thánh ư Chúa Cha trong mọi
sự. Chúng ta phát
triển đời sống thiêng liêng để càng ngày càng
kết hợp mật thiết hơn với Đức Kitô. Sự
kết hợp này được gọi là "thần bí",
v́ nhờ các bí tích và các mầu nhiệm thánh, ta
được tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô,
và trong Người, ta được tham dự vào mầu
nhiệm của Ba Ngôi. Con
đường tiến đến hoàn thiện phải qua
Thập Giá. Không tài nào
đạt được sự thánh thiện, nếu không
từ bỏ chính ḿnh và chiến đấu nội tâm. Sự
tiến bộ thiêng liêng đ̣i phải tu luyện và
khổ chế. Là con cái
của Mẹ Hội Thánh, chúng ta hy vọng Thiên Chúa là
Cha sẽ ban ơn giúp chúng ta bền đỗ đến
cùng và ban phần thưởng cho các việc, mà nhờ ân
sủng của Ngài, chúng ta đă làm trong sự kết
hợp với Đức Kitô. V́
cùng sống theo một quy luật, ta được chia
sẻ "niềm hy vọng hồng phúc" với
những người mà Thiên Chúa đă quy tụ trong "thành
thánh Giêrusalem mới từ trời."