Mục 2: Ðiều Răn Thứ Hai


I. Danh Thiên Chúa là Thánh

Ðiều răn thứ hai dạy phải tôn kính danh Chúa.  Trong các lời mặc khải, lời mặc khải về Danh Thiên Chúa chiếm hàng đầu.  Thiên Chúa bày tỏ Danh Ngài cho những kẻ tin, cho họ biết chính mầu nhiệm bản thân Ngài.  Danh Ngài là Thánh, nên không được lạm dụng.  Chỉ được kêu cầu Danh Thánh để chúc tụng, ca ngợi và tôn vinh Ngài mà thôi. Tôn kính Danh Chúa là tôn kính chính Thiên Chúa và mọi thực tại thánh.  Các tín hữu phải làm chứng cho Danh Chúa bằng cách can đảm tuyên xưng đức tin.  Việc rao giảng và giáo huấn phải được làm trong tinh thần thờ kính đối với Thánh Danh Chúa Giêsu (2142-2145).  Ðiều răn này cấm:

ü      Lạm dụng Danh Chúa là sử dụng bất xứng đối với danh Thiên Chúa, Ðức Kitô, Ðức Mẹ Maria và toàn thể các thánh (2146).

ü      Những lời hứa nhân danh Thiên Chúa, đều liên hệ đến danh dự, sự trung thành, chân thật và uy quyền của Ngài. Thất hứa là lạm dụng Danh Ngài, và biến Ngài thành kẻ nói dối (2147).

ü      Lộng ngôn là xúc phạm đến Thiên Chúa trong lòng hay ngoài miệng bằng những lời hận thù, than trách, thách thức, kể cả nói phạm đến Hội Thánh, các thánh và những sự thánh.  Lạm dụng danh Thiên Chúa để che đậy hay phạm tội ác là gây cớ cho người ta ghét đạo. Lộng ngôn là một tội trọng ( 2148 ).

ü      Thề nguyền vô cớ, dù không cố tình cũng là thiếu tôn kính Chúa. Ðiều răn này cấm dùng Danh Chúa trong việc ma thuật (2149).

II.    Kêu Tên Chúa Vô Cớ (2150-2155)

Ðiều răn thứ hai cấm thề gian.  Thề gian là xin Thiên Chúa làm chứng cho một lời nói dối.  Bội thề là thề hứa mà không có ý giữ hay không giữ.  Người bội thề thiếu lòng tôn kính Thiên Chúa, họ phạm đến thánh danh Ngài.  Chúa Giêsu dạy rằng mọi lời thề luôn qui chiếu về Thiên Chúa, và trong mọi lời nói của ta, phải tôn trọng sự hiện diện cũng như sự chân thật của Thiên Chúa.  Nói thật là tôn kính sự hiện diện của Chúa, nói dối là xúc phạm đến Ngài.  Có thể thề nếu có lý do chính đáng.  Vì danh Thiên Chúa là thánh, không được kêu tên Chúa vô cớ.  Khi chính quyền bất hợp pháp buộc thề thì có quyền từ chối.

III.  Danh Kitô hữu

Qua bí tích Thánh Tẩy, mỗi Kitô hữu nhận được một tên riêng trong Hội Thánh.  Cha mẹ, người đỡ đầu và cha xứ cần lưu tâm để đặt cho họ một tên Kitô giáo.  Vị thánh bổn mạng nêu gương đức ái và luôn chuyển cầu cho ta.  Các Kitô hữu bắt đầu các kinh nguyện và việc làm bằng dấu Thánh Giá "nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen".  Thiên Chúa gọi từng người bằng chính tên của họ.  Tên là người, nên phải được tôn trọng như dấu chỉ nhân phẩm của người mang tên đó.  Mỗi người sẽ mang tên của mình mãi mãi. (2156-2167)


Trở về mục lục - Trang Sau