"Ngươi
không được ngoại t́nh" (Xh 20;14; Đnl
I.
"Thiên
Chúa dựng nên họ, có nam có nữ ..."
(2231-2336)
Thiên
Chúa là t́nh yêu, Ngài dựng nên con người theo h́nh
ảnh Ngài và trao cho họ ơn
gọi là biết yêu thương
và cảm thông. Phái
tính ảnh hưởng trên toàn bộ con người,
đặc biệt là đời sống t́nh cảm,
khả năng yêu thương và truyền sinh, và mọi tương
quan với người khác. Mỗi
người phải nh́n nhận và chấp
nhận phái tính của ḿnh. Sự
khác biệt và bổ
sung cho nhau về thể xác, tinh thần và tâm linh hướng
đến đời sống hôn nhân và gia đ́nh. Sự
ḥa hợp của đôi vợ chồng và của xă
hội tùy thuộc phần nào vào việc hai bên nam nữ
bổ túc, đáp ứng và nâng đỡ lẫn nhau.
Người nam và người nữ b́nh đẳng
về phẩm giá, dù cách thức khác nhau, cả hai là h́nh
ảnh của Thiên Chúa. Sự
kết hợp giữa người nam và người
nữ trong hôn nhân mô phỏng nơi thân xác con người
sự quảng đại và sung măn của Tạo Hóa.
Chúa Giêsu đă đến trả lại cho thụ
tạo t́nh trạng tinh tuyền nguyên thủy của chúng.
Truyền thống của Hội Thánh hiểu điều
răn thứ sáu đề cập đến mọi lănh
vực về phái tính của con người.
II.
Ơn
gọi sống khiết tịnh (2337-2359)
Sống
khiết tịnh là ḥa hợp phái tính vào sự hiệp
nhất của đời sống thể lư và tinh thần.
Phái tính thuộc về
thế giới sinh lư, nhưng thực sư thuộc
về cá nhân con người khi được hội
nhập vào sự liên hệ giữa người với người,
trong việc người nam và người nữ hiến
thân cho nhau trọn vẹn và suốt đời. Như
vậy, đức khiết tịnh liên quan đến toàn
thể nhân vị và đ̣i hiến thân trọn vẹn
(2337).
Tính
toàn vẹn của con người
- Người khiết tịnh duy tŕ sự toàn vẹn
sức mạnh của sự sống và t́nh yêu trong ḿnh.
Họ không chấp nhận cuộc sống hai mặt,
cách nói hai ư. Đức
khiết tịnh gồm việc học
biết tự chủ, một cách huần luyện
sử dụng tự do. Con người phải chọn
hoặc chế ngự các đam mê hoặc làm nô lệ chúng.
Muốn chế ngự chúng, phải biết ḿnh, hăm
ḿnh, giữ các điều răn Thiên Chúa, thực hành các
nhân đức, và trung thành cầu nguyện. Muốn
sống khiết tịnh phải
giữ đức tiết độ, v́ nhân đức
này dùng lư trí để hướng dẫn các đam mê và
các thèm muốn giác quan của con người.
Muốn tự chủ phải luyện
tập lâu dài và công phu. Đời
sống khiết tịnh cũng có những qui
luật tăng trưởng, phải qua những giai
đoạn bất toàn và cả tội lỗi. Sống
khiết tịnh là nhiệm vụ của mỗi người,
nhưng cũng liên hệ với nỗ
lực về văn hóa, v́ sự thăng tiến
của nhân vị và sự phát triển của xă hội
lệ thuộc nhau. Người
ta chỉ sống khiết tịnh được, khi các
quyền của con người được tôn trọng,
đặc biệt quyền được thông tin và giáo
dục về luân lư và tâm linh. Đức
khiết tịnh là một nhân đức luân lư, nhưng
cũng là hồng ân của Thiên Chúa (2338-2345).
Tính
toàn vẹn của hiến thân
- Dưới ảnh hưởng
của đức ái, đức khiết tịnh là trường
dạy tự hiến. Người
khiết tịnh thành nhân chứng cho ḷng trung tín và yêu thương
của Thiên Chúa. Đức
khiết tịnh nảy nở trong t́nh
bằng hữu, giúp ta bước theo, và bắt chước
Đấng đă hiến thân trọn vẹn cho ta. Thiên
Chúa hứa ban sự sống vĩnh cửu cho người
sống khiết tịnh. Nó
biểu lộ rơ ràng qua t́nh
bằng hữu với tha nhân, dẫn đến sự
hiệp thông tinh thần (2346-2347).
Những
cách sống khiết tịnh
- Mọi tín hữu đều được mời
gọi sống khiết tịnh tùy theo bậc sống
của ḿnh. Kitô hữu là
người đă mặc lấy Đức Kitô, khuôn mẫu
của đời sống khiết tịnh. Khi
nhận bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu cam
kết giữ đức khiết tịnh trong đời
sống t́nh cảm. Có ba
h́nh thức sống khiết tịnh: khiết tịnh
của bậc hôn nhân,
của người góa bụa
và của người đồng
trinh. Những người
đă đính hôn cũng
được mời gọi tiết dục để
giữ khiết tịnh. Họ
sẽ dành những hành động biểu lộ t́nh yêu
vợ chồng cho sau ngày thành hôn. Họ
phải giúp nhau sống khiết tịnh (2348-2350).
Những
lỗi phạm đến đức khiết tịnh
(2351-2356):
ü
Dâm
ô là
ham muốn sai trái hay hưởng thụ vô độ khoái
lạc t́nh dục, không nhằm mục đích truyền
sinh và kết hợp trong t́nh yêu .
ü
Thủ
dâm
tự bản chất là một hành động sai trái
trầm trọng. Tuy nhiên
trách nhiệm luân lư có thể được giảm
bớt, cả đến mức tối thiểu, v́
thiếu trưởng thành t́nh cảm, áp lực của thói
quen, trạng thái lo âu cũng như những yếu tố
khác về tâm lư xă hội.
ü
Tà
dâm là
quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người
nam và một người nữ.
Đây là lỗi nặng. Ngoài
ra, tà dâm c̣n là một gương xấu nghiêm trọng
khi làm băng hoại giới trẻ.
ü
Sách
báo và tranh ảnh khiêu dâm
làm tổn thương nặng nề đến phẩm giá
của những người liên hệ, v́ người này
trở thành đối tượng cho một thú vui thô
lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính cho người
kia. Đó là một lỗi
nặng.
ü
Măi
dâm xúc
phạm đến phẩm giá của người bán dâm. Kẻ
mua dâm phạm tội nặng. Măi
dâm bao giờ cũng là tội trọng; nhưng trách
nhiệm của kẻ mại dâm có thể giảm bớt
v́ túng thiếu, bị hăm dọa hay áp lực xă
hội.
ü
Hiếp
dâm là
dùng bạo lực bắt kẻ khác làm t́nh. Hiếp
dâm tự nó là một tội trọng, lại càng thêm
nặng nề khi cha mẹ hay người giáo dục
lạm dụng thân xác các em được ủy thác cho
họ.
Đức
khiết tịnh và sự đồng tính luyến ái
- Đồng
tính luyến ái là những liên hệ giữa những người
bị lôi cuốn tính dục với người cùng phái.
Kinh Thánh vốn xem chúng như
những suy đồi nghiêm trọng. Truyền thống
Hội Thánh luôn tuyên bố: "Các hành vi đồng tính
luyến ái tự bản chất là thác loạn".
Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên và
không thể chấp nhận được trong bất
cứ trường hợp nào.
Một số người có khuynh hướng đồng
tính luyến ái thâm căn. Với
những người này, khuynh hướng ấy là
một thử thách. Nếu
là Kitô hữu, họ được mời kết hợp
với hy sinh của Chúa trên thập giá v́ những khó khăn
họ gặp phải trong t́nh trạng đó.
Chúng ta phải đón nhận họ với ḷng tôn
trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối
xử bất công. Họ
cũng được mời gọi sống khiết
tịnh. Họ có thể
và phải cương quyết tiến dần đến
sự toàn thiện Kitô giáo nhờ kinh nguyện và ân
sủng bí tích, nhờ biết tự chủ để
củng cố tự do nội tâm và nhờ sự nâng
đỡ của một t́nh bạn vô vị lợi
(2357-2359).
III.
T́nh
Yêu Vợ Chồng
Theo
ư định của Thiên Chúa, phái tính hướng về
t́nh yêu vợ chồng. Trong hôn nhân, ái ân trở thành
dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp
thông tinh thần. Giữa
hai tín hữu, sự liên kết hôn nhân được thánh
hóa bằng bí tích. Những
hành vi của sự kết hợp mật thiết và thanh
khiết của vợ chồng đều cao quư và chính
đáng. Chúng biểu
hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau, nhờ
đó họ làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và
biết ơn. Chính Thiên
Chúa đă muốn rằng trong nhiệm vụ truyền
sinh đôi vợ chồng cảm thấy một sự vui
thú và thỏa măn cả thể xác lẫn tinh thần. Nhờ
sự kết hợp của vợ chồng, hai mục
đích của hôn nhân được thực hiện,
lợi ích của chính họ và lưu truyền sự
sống. Không thể tách rời hai giá trị này của hôn
nhân mà không làm thay đổi đời sống tinh
thần của hai người cũng như phương
hại đến lợi ích của hôn nhân và tương
lai của gia đ́nh. Như thế t́nh yêu vợ chồng
đ̣i hỏi người nam và người nữ vừa
phải chung thủy vừa phải sẵn sàng đón
nhận con cái (2360-2363).
Sự
thủy chung của vợ chồng
- Đời sống vợ chồng được gầy
dựng do giao ước hôn nhân nghĩa là sự ưng
thuận cá nhân và không thể rút lại được. Cả
hai hiến thân cho nhau vĩnh viễn và trọn vẹn. Họ
không c̣n là hai, nhưng đă trở thành một thân
thể duy nhất. Thiên Chúa
là Đấng trung tín v́ Ngài kiên tŕ giữ lời thề
hứa. Bí tích Hôn
Phối làm cho hai vợ chồng tham dự vào sự trung tín
của Đức Kitô đối với Hội Thánh. Nhờ
sống khiết tịnh trong hôn nhân, họ minh chứng
mầu nhiệm đó trước mặt thế gian
(2364-2365).
Truyền
sinh trong hôn nhân
- Truyền sinh là một ân huệ, một mục
tiêu của hôn nhân, v́ t́nh yêu vợ chồng tự nhiên
hướng về việc sinh sản con cái.
V́ thế Hội Thánh dạy rằng "mọi hành
vi ân ái phải tự nó mở ngỏ cho việc
truyền sinh". Trong khi
thi hành bổn phận truyền sinh và giáo dục, đôi
vợ chồng biết rằng ḿnh cộng tác với t́nh
yêu của Thiên Chúa sáng tạo và như trở thành
những người diễn đạt t́nh yêu của Người.
Một khía cạnh đặc
biệt của trách nhiệm đó là điều
ḥa sinh sản. Khi có lư
do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài
khoảng cách giữa các lần sinh nở, nhưng
phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan
của luân lư. Tiết
dục định kỳ cũng như những phương
pháp điều ḥa sinh sản đặt nền tảng trên
việc tự quan sát và sử dụng những thời
gian không thể thụ thai, đều phù hợp với các
tiêu chuẩn khách quan của luân lư. Những
phương pháp này tôn trọng thân thể của vợ
chồng, khuyến khích họ âu yếm và giúp nhau hướng
đến tự do chân chính. Trong
hôn nhân, hai vợ chồng hiến thân trọn vẹn cho
nhau. Việc ngừa thai
đi ngược lại v́ họ không c̣n trao tặng cho
nhau trọn vẹn nữa. Nhà
Nước có trách nhiệm mang lại lợi ích cho các công
dân, nên có quyền can thiệp để định hướng
việc gia tăng dân số. Tuy
nhiên, chỉ được làm qua những thông tin khách
quan và tôn trọng tự do mà thôi. Trong
lănh vực này, Nhà Nước không có quyền can
thiệp bằng những phương thế trái luân lư
(2366-2372).
Con
cái là quà tặng của Thiên Chúa
- Thánh Kinh và Thánh
Truyền coi những gia
đ́nh đông con là một dấu chỉ phúc lành
của Chúa và ḷng quảng đại của cha mẹ.
Và thật đau khổ cho những đôi vợ
chồng không con. Những
nghiên cứu nhằm giải quyết chứng vô sinh
rất đáng khuyến khích, với điều kiện
chúng phải đúng theo dự định và ư muốn
của Thiên Chúa. Những
kỹ thuật phá vỡ liên hệ phụ mẫu qua
sự can thiệp của một người thứ ba như
cho tinh trùng, trứng, cho mượn tử cung, thụ tinh
nhân tạo… vi phạm quyền của đứa trẻ
và độc quyền làm cha làm mẹ của đôi
vợ chồng. Nếu
được thực hiện cho đôi vợ chồng,
những kỹ thuật thụ thai nhân tạo cùng
nguồn vẫn không thể chấp nhận được,
v́ tách rời hành vi tính dục với việc truyền
sinh. Về phương
diện luân lư, việc truyền sinh mất đi sự hoàn
thiện đặc thù của nó, khi không c̣n là kết
quả của quan hệ vợ chồng.
Đứa trẻ là một món quà ưu việt của
hôn nhân. Tin Mừng cho
thấy rằng không có con không phải là một điều
dữ tuyệt đối. Đôi
vợ chồng nào, sau khi đă tận dụng mọi
trợ giúp chính đáng của y khoa, vẫn không có con,
được mời gọi liên kết với Thập Giá
của Chúa là nguồn mạch mọi phong phú thiêng liêng. Họ
có thể sống quảng đại bằng cách nhận
nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc
tham gia những công tác phục vụ tha nhân (2373-2379).
IV.
Những
tội phạm đến phẩm giá hôn nhân (2380-2386)
Ngoại
t́nh
là ăn nằm với một người không phải
vợ hay chồng ḿnh. Cả Cựu Ước lẫn Tân
Ước đều tuyệt đối cấm ngoại t́nh.
Ngoại t́nh là điều bất công, làm tổn
hại đến dây liên kết hôn nhân, vi phạm
quyền của người phối ngẫu và xâm phạm
định chế hôn nhân. Người
ấy làm phương hại đến lợi ích của
việc sinh sản và của con cái vốn cần đến
sự kết hợp bền vững của cha mẹ
(2380-2381).
Ly
dị
- Chúa Giêsu nhấn mạnh đến ư định ban
đầu của Thiên Chúa là hôn nhân bất khả phân
ly, không thể tháo gỡ v́ bất cứ lư do ǵ,
ngoại trừ cái chết. Ly
dị là một tội nặng phạm đến luật
tư nhiên, làm tổn thương bí tích cứu độ
mà bí tích hôn phối là một dấu chỉ.
Ly dị là phi luân v́
làm xáo trộn gia đ́nh và xă hội.
Trong một số trường hợp đă
được Giáo Luật dự liệu, đôi vợ
chồng có thể được
phép ly thân nhưng không được ly dị.
Nếu việc ly hôn về phần đời là phương
cách duy nhất c̣n lại để bảo đảm
một số quyền lợi chính đáng, chăm sóc con cái
hoặc bảo vệ gia sản, th́ có thể tạm
chấp nhận mà không lỗi về luân lư.
Nhưng không được tái hôn hay ăn ở
với người khác. Người
tái hôn sau khi ly dị, phạm tội ngoại t́nh công khai
và thường xuyên. Nếu một trong đôi vợ
chồng là nạn nhân vô tội của phán quyết ly
dị do ṭa án dân sự, người này không vi phạm
luật luân lư.
Những
tội khác đến phẩm giá hôn nhân
(2387-2400)
ü
Đa
thê không
phù hợp với luật luân lư, tuyệt đối
nghịch lại với sự hiệp thông vợ chồng,
với phẩm giá b́nh đẳng của hai người. Theo
đức công b́nh, người đa thê khi trở thành
Kitô hữu phải chu toàn trách vụ tài trợ cho các bà
vợ trước và con cái của họ (2387).
ü
Loạn
luân là
quan hệ tính dục giữa những người cùng
huyết tộc hoặc hôn tộc, mà luật cấm
kết hôn với nhau. Loạn
luân phá vỡ quan hệ gia đ́nh và cho thấy một
sự thoái hóa trở về thú tính.
Có thể gọi là loạn luân những lạm
dụng tính dục do những người trưởng thành
đối với trẻ em hoặc thiếu niên đă
được ủy thác cho họ. Người này
phải chịu trách nhiệm gấp đôi (2388-2389).
ü
Tự
do sống chung
là khi một người nam và một người nữ
sống như vợ chồng nhưng không chịu tiến
hành hôn nhân chính thức theo luật.
Có nhiều hoàn cảnh khác nhau: ăn ở với
nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng
tính chất của hôn nhân, không chịu ràng buộc nhau
bằng những cam kết dài lâu.
Tất cả những trường hợp này xúc
phạm phẩm giá của hôn nhân, phá hủy ư niệm
về gia đ́nh, làm suy giảm cảm thức về ḷng
thủy chung. Chúng nghịch với luật luân lư v́ hành
vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn
nhân; ngoài hôn nhân, việc đó luôn là một tội
trọng và không được hiệp thông các bí tích
(2390).
ü
Ngày
nay, nhiều người đ̣i hỏi "quyền
thử nghiệm", khi có ư định kết hôn. Về
phương diện luân lư, sự kết hợp xác
thịt chỉ hợp pháp khi đă chính thức kết hôn.
T́nh yêu không chấp
nhận thử nghiệm; nhưng đ̣i hỏi hiến thân
cho nhau trọn vẹn và dứt khoát (2391).