Mục 6: Điều Răn Thứ Sáu

"Ngươi không được ngoại t́nh" (Xh 20;14; Đnl 5:18 )


I.       "Thiên Chúa dựng nên họ, có nam có nữ ..."  (2231-2336)

Thiên Chúa là t́nh yêu, Ngài dựng nên con người theo h́nh ảnh Ngài và trao cho họ ơn gọi là biết yêu thương và cảm thông.  Phái tính ảnh hưởng trên toàn bộ con người, đặc biệt là đời sống t́nh cảm, khả năng yêu thương và truyền sinh, và mọi tương quan với người khác.  Mỗi người phải nh́n nhận và chấp nhận phái tính của ḿnh.  Sự khác biệtbổ sung cho nhau về thể xác, tinh thần và tâm linh hướng đến đời sống hôn nhân và gia đ́nh.  Sự ḥa hợp của đôi vợ chồng và của xă hội tùy thuộc phần nào vào việc hai bên nam nữ bổ túc, đáp ứng và nâng đỡ lẫn nhau.  Người nam và người nữ b́nh đẳng về phẩm giá, dù cách thức khác nhau, cả hai là h́nh ảnh của Thiên Chúa.  Sự kết hợp giữa người nam và người nữ trong hôn nhân mô phỏng nơi thân xác con người sự quảng đại và sung măn của Tạo Hóa.  Chúa Giêsu đă đến trả lại cho thụ tạo t́nh trạng tinh tuyền nguyên thủy của chúng.  Truyền thống của Hội Thánh hiểu điều răn thứ sáu đề cập đến mọi lănh vực về phái tính của con người.

II.    Ơn gọi sống khiết tịnh (2337-2359)

Sống khiết tịnh là ḥa hợp phái tính vào sự hiệp nhất của đời sống thể lư và tinh thần.  Phái tính thuộc về thế giới sinh lư, nhưng thực sư thuộc về cá nhân con người khi được hội nhập vào sự liên hệ giữa người với người, trong việc người nam và người nữ hiến thân cho nhau trọn vẹn và suốt đời.  Như vậy, đức khiết tịnh liên quan đến toàn thể nhân vị và đ̣i hiến thân trọn vẹn (2337).

Tính toàn vẹn của con người - Người khiết tịnh duy tŕ sự toàn vẹn sức mạnh của sự sống và t́nh yêu trong ḿnh.  Họ không chấp nhận cuộc sống hai mặt, cách nói hai ư.  Đức khiết tịnh gồm việc học biết tự chủ, một cách huần luyện sử dụng tự do. Con người phải chọn hoặc chế ngự các đam mê hoặc làm nô lệ chúng.  Muốn chế ngự chúng, phải biết ḿnh, hăm ḿnh, giữ các điều răn Thiên Chúa, thực hành các nhân đức, và trung thành cầu nguyện.  Muốn sống khiết tịnh phải giữ đức tiết độ, v́ nhân đức này dùng lư trí để hướng dẫn các đam mê và các thèm muốn giác quan của con người.  Muốn tự chủ phải luyện tập lâu dài và công phu.  Đời sống khiết tịnh cũng có những qui luật tăng trưởng, phải qua những giai đoạn bất toàn và cả tội lỗi.  Sống khiết tịnh là nhiệm vụ của mỗi người, nhưng cũng liên hệ với nỗ lực về văn hóa, v́ sự thăng tiến của nhân vị và sự phát triển của xă hội lệ thuộc nhau.  Người ta chỉ sống khiết tịnh được, khi các quyền của con người được tôn trọng, đặc biệt quyền được thông tin và giáo dục về luân lư và tâm linh.  Đức khiết tịnh là một nhân đức luân lư, nhưng cũng là hồng ân của Thiên Chúa (2338-2345).

Tính toàn vẹn của hiến thân -  Dưới ảnh hưởng của đức ái, đức khiết tịnh là trường dạy tự hiến.  Người khiết tịnh thành nhân chứng cho ḷng trung tín và yêu thương của Thiên Chúa.  Đức khiết tịnh nảy nở trong t́nh bằng hữu, giúp ta bước theo, và bắt chước Đấng đă hiến thân trọn vẹn cho ta.  Thiên Chúa hứa ban sự sống vĩnh cửu cho người sống khiết tịnh.  Nó biểu lộ rơ ràng qua t́nh bằng hữu với tha nhân, dẫn đến sự hiệp thông tinh thần (2346-2347).

Những cách sống khiết tịnh - Mọi tín hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh tùy theo bậc sống của ḿnh.  Kitô hữu là người đă mặc lấy Đức Kitô, khuôn mẫu của đời sống khiết tịnh.  Khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu cam kết giữ đức khiết tịnh trong đời sống t́nh cảm.  Có ba h́nh thức sống khiết tịnh: khiết tịnh của bậc hôn nhân, của người góa bụa và của người đồng trinh.  Những người đă đính hôn cũng được mời gọi tiết dục để giữ khiết tịnh.  Họ sẽ dành những hành động biểu lộ t́nh yêu vợ chồng cho sau ngày thành hôn.  Họ phải giúp nhau sống khiết tịnh (2348-2350).

Những lỗi phạm đến đức khiết tịnh (2351-2356):

ü      Dâm ô là ham muốn sai trái hay hưởng thụ vô độ khoái lạc t́nh dục, không nhằm mục đích truyền sinh và kết hợp trong t́nh yêu .

ü      Thủ dâm tự bản chất là một hành động sai trái trầm trọng.  Tuy nhiên trách nhiệm luân lư có thể được giảm bớt, cả đến mức tối thiểu, v́ thiếu trưởng thành t́nh cảm, áp lực của thói quen, trạng thái lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lư xă hội.

ü      Tà dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.  Đây là lỗi nặng.  Ngoài ra, tà dâm c̣n là một gương xấu nghiêm trọng khi làm băng hoại giới trẻ.

ü      Sách báo và tranh ảnh khiêu dâm làm tổn thương nặng nề đến phẩm giá của những người liên hệ, v́ người này trở thành đối tượng cho một thú vui thô lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính cho người kia.  Đó là một lỗi nặng.

ü      Măi dâm xúc phạm đến phẩm giá của người bán dâm.  Kẻ mua dâm phạm tội nặng.  Măi dâm bao giờ cũng là tội trọng; nhưng trách nhiệm của kẻ mại dâm có thể giảm bớt v́ túng thiếu, bị hăm dọa hay áp lực xă hội.

ü      Hiếp dâm là dùng bạo lực bắt kẻ khác làm t́nh.  Hiếp dâm tự nó là một tội trọng, lại càng thêm nặng nề khi cha mẹ hay người giáo dục lạm dụng thân xác các em được ủy thác cho họ.

Đức khiết tịnh và sự đồng tính luyến ái - Đồng tính luyến ái là những liên hệ giữa những người bị lôi cuốn tính dục với người cùng phái.  Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng. Truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: "Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn".   Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên và không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.  Một số người có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn.  Với những người này, khuynh hướng ấy là một thử thách.  Nếu là Kitô hữu, họ được mời kết hợp với hy sinh của Chúa trên thập giá v́ những khó khăn họ gặp phải trong t́nh trạng đó.  Chúng ta phải đón nhận họ với ḷng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công.  Họ cũng được mời gọi sống khiết tịnh.  Họ có thể và phải cương quyết tiến dần đến sự toàn thiện Kitô giáo nhờ kinh nguyện và ân sủng bí tích, nhờ biết tự chủ để củng cố tự do nội tâm và nhờ sự nâng đỡ của một t́nh bạn vô vị lợi (2357-2359).

III.  T́nh Yêu Vợ Chồng

Theo ư định của Thiên Chúa, phái tính hướng về t́nh yêu vợ chồng. Trong hôn nhân, ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần.  Giữa hai tín hữu, sự liên kết hôn nhân được thánh hóa bằng bí tích.  Những hành vi của sự kết hợp mật thiết và thanh khiết của vợ chồng đều cao quư và chính đáng.  Chúng biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau, nhờ đó họ làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn.  Chính Thiên Chúa đă muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm thấy một sự vui thú và thỏa măn cả thể xác lẫn tinh thần.  Nhờ sự kết hợp của vợ chồng, hai mục đích của hôn nhân được thực hiện, lợi ích của chính họ và lưu truyền sự sống. Không thể tách rời hai giá trị này của hôn nhân mà không làm thay đổi đời sống tinh thần của hai người cũng như phương hại đến lợi ích của hôn nhân và tương lai của gia đ́nh. Như thế t́nh yêu vợ chồng đ̣i hỏi người nam và người nữ vừa phải chung thủy vừa phải sẵn sàng đón nhận con cái (2360-2363).

Sự thủy chung của vợ chồng - Đời sống vợ chồng được gầy dựng do giao ước hôn nhân nghĩa là sự ưng thuận cá nhân và không thể rút lại được.  Cả hai hiến thân cho nhau vĩnh viễn và trọn vẹn.  Họ không c̣n là hai, nhưng đă trở thành một thân thể duy nhất.  Thiên Chúa là Đấng trung tín v́ Ngài kiên tŕ giữ lời thề hứa.  Bí tích Hôn Phối làm cho hai vợ chồng tham dự vào sự trung tín của Đức Kitô đối với Hội Thánh.  Nhờ sống khiết tịnh trong hôn nhân, họ minh chứng mầu nhiệm đó trước mặt thế gian (2364-2365).

Truyền sinh trong hôn nhân - Truyền sinh là một ân huệ, một mục tiêu của hôn nhân, v́ t́nh yêu vợ chồng tự nhiên hướng về việc sinh sản con cái.  V́ thế Hội Thánh dạy rằng "mọi hành vi ân ái phải tự nó mở ngỏ cho việc truyền sinh".  Trong khi thi hành bổn phận truyền sinh và giáo dục, đôi vợ chồng biết rằng ḿnh cộng tác với t́nh yêu của Thiên Chúa sáng tạo và như trở thành những người diễn đạt t́nh yêu của Người.  Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm đó là điều ḥa sinh sản.  Khi có lư do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài khoảng cách giữa các lần sinh nở, nhưng phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lư.  Tiết dục định kỳ cũng như những phương pháp điều ḥa sinh sản đặt nền tảng trên việc tự quan sát và sử dụng những thời gian không thể thụ thai, đều phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của luân lư.  Những phương pháp này tôn trọng thân thể của vợ chồng, khuyến khích họ âu yếm và giúp nhau hướng đến tự do chân chính.  Trong hôn nhân, hai vợ chồng hiến thân trọn vẹn cho nhau.  Việc ngừa thai đi ngược lại v́ họ không c̣n trao tặng cho nhau trọn vẹn nữa.  Nhà Nước có trách nhiệm mang lại lợi ích cho các công dân, nên có quyền can thiệp để định hướng việc gia tăng dân số.  Tuy nhiên, chỉ được làm qua những thông tin khách quan và tôn trọng tự do mà thôi.  Trong lănh vực này, Nhà Nước không có quyền can thiệp bằng những phương thế trái luân lư (2366-2372).

Con cái là quà tặng của Thiên Chúa -  Thánh Kinh và Thánh Truyền coi những gia đ́nh đông con là một dấu chỉ phúc lành của Chúa và ḷng quảng đại của cha mẹ.  Và thật đau khổ cho những đôi vợ chồng không con.  Những nghiên cứu nhằm giải quyết chứng vô sinh rất đáng khuyến khích, với điều kiện chúng phải đúng theo dự định và ư muốn của Thiên Chúa.  Những kỹ thuật phá vỡ liên hệ phụ mẫu qua sự can thiệp của một người thứ ba như cho tinh trùng, trứng, cho mượn tử cung, thụ tinh nhân tạo… vi phạm quyền của đứa trẻ và độc quyền làm cha làm mẹ của đôi vợ chồng.  Nếu được thực hiện cho đôi vợ chồng, những kỹ thuật thụ thai nhân tạo cùng nguồn vẫn không thể chấp nhận được, v́ tách rời hành vi tính dục với việc truyền sinh.  Về phương diện luân lư, việc truyền sinh mất đi sự hoàn thiện đặc thù của nó, khi không c̣n là kết quả của quan hệ vợ chồng.  Đứa trẻ là một món quà ưu việt của hôn nhân.  Tin Mừng cho thấy rằng không có con không phải là một điều dữ tuyệt đối.  Đôi vợ chồng nào, sau khi đă tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, vẫn không có con, được mời gọi liên kết với Thập Giá của Chúa là nguồn mạch mọi phong phú thiêng liêng.  Họ có thể sống quảng đại bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc tham gia những công tác phục vụ tha nhân (2373-2379).

IV.   Những tội phạm đến phẩm giá hôn nhân (2380-2386)

Ngoại t́nh là ăn nằm với một người không phải vợ hay chồng ḿnh. Cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều tuyệt đối cấm ngoại t́nh.  Ngoại t́nh là điều bất công, làm tổn hại đến dây liên kết hôn nhân, vi phạm quyền của người phối ngẫu và xâm phạm định chế hôn nhân.  Người ấy làm phương hại đến lợi ích của việc sinh sản và của con cái vốn cần đến sự kết hợp bền vững của cha mẹ (2380-2381).

Ly dị - Chúa Giêsu nhấn mạnh đến ư định ban đầu của Thiên Chúa là hôn nhân bất khả phân ly, không thể tháo gỡ v́ bất cứ lư do ǵ, ngoại trừ cái chết.  Ly dị là một tội nặng phạm đến luật tư nhiên, làm tổn thương bí tích cứu độ mà bí tích hôn phối là một dấu chỉ.  Ly dị là phi luân v́ làm xáo trộn gia đ́nh và xă hội.  Trong một số trường hợp đă được Giáo Luật dự liệu, đôi vợ chồng có thể được phép ly thân nhưng không được ly dị.  Nếu việc ly hôn về phần đời là phương cách duy nhất c̣n lại để bảo đảm một số quyền lợi chính đáng, chăm sóc con cái hoặc bảo vệ gia sản, th́ có thể tạm chấp nhận mà không lỗi về luân lư.  Nhưng không được tái hôn hay ăn ở với người khác.   Người tái hôn sau khi ly dị, phạm tội ngoại t́nh công khai và thường xuyên. Nếu một trong đôi vợ chồng là nạn nhân vô tội của phán quyết ly dị do ṭa án dân sự, người này không vi phạm luật luân lư.

Những tội khác đến phẩm giá hôn nhân (2387-2400)

ü      Đa thê không phù hợp với luật luân lư, tuyệt đối nghịch lại với sự hiệp thông vợ chồng, với phẩm giá b́nh đẳng của hai người.  Theo đức công b́nh, người đa thê khi trở thành Kitô hữu phải chu toàn trách vụ tài trợ cho các bà vợ trước và con cái của họ (2387).

ü      Loạn luân là quan hệ tính dục giữa những người cùng huyết tộc hoặc hôn tộc, mà luật cấm kết hôn với nhau.  Loạn luân phá vỡ quan hệ gia đ́nh và cho thấy một sự thoái hóa trở về thú tính.  Có thể gọi là loạn luân những lạm dụng tính dục do những người trưởng thành đối với trẻ em hoặc thiếu niên đă được ủy thác cho họ. Người này phải chịu trách nhiệm gấp đôi (2388-2389). 

ü      Tự do sống chung là khi một người nam và một người nữ sống như vợ chồng nhưng không chịu tiến hành hôn nhân chính thức theo luật.  Có nhiều hoàn cảnh khác nhau: ăn ở với nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng tính chất của hôn nhân, không chịu ràng buộc nhau bằng những cam kết dài lâu.  Tất cả những trường hợp này xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, phá hủy ư niệm về gia đ́nh, làm suy giảm cảm thức về ḷng thủy chung. Chúng nghịch với luật luân lư v́ hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân; ngoài hôn nhân, việc đó luôn là một tội trọng và không được hiệp thông các bí tích (2390).

ü      Ngày nay, nhiều người đ̣i hỏi "quyền thử nghiệm", khi có ư định kết hôn.  Về phương diện luân lư, sự kết hợp xác thịt chỉ hợp pháp khi đă chính thức kết hôn.  T́nh yêu không chấp nhận thử nghiệm; nhưng đ̣i hỏi hiến thân cho nhau trọn vẹn và dứt khoát (2391).


Trở về mục lục - Trang Sau