"Ngươi
không được trộm cắp" (Xh 20, 15; Đnl 5,19;
(Mt 19,18).
Điều
răn thứ bảy cấm lấy hoặc giữ tài
sản của kẻ khác cách bất công, hay làm hại
của cải họ. Điều
răn này dạy ta phải giữ công bằng và bác ái
trong việc quản lư những của cải trần
thế. Các Kitô hữu
cố gắng sử dụng mọi của cải trần
thế để phụng sự Thiên Chúa và thực thi bác
ái huynh đệ (2401).
I.
Quyền
chung hưởng của cải trần thế và tư
hữu (2402-2406)
Từ
đầu, Thiên Chúa trao
của cải trần gian cho toàn thể nhân loại.
Tuy nhiên, v́ những lư do chính đáng, Ngài đă cho con người
quyền tư hữu. Quyền
tư hữu không hủy bỏ món quà mà Thiên Chúa
đă ban cho toàn thể nhân loại lúc đầu.
Quyền chung hưởng của cải vẫn ưu
tiên. Người sở
hữu một tài sản chỉ là người quản lư
của Thiên Chúa, có nhiệm vụ sinh lợi và chia
sẻ lợi ích cho người khác, trước hết là
những người thân của ḿnh.
Chủ nhân của những tư liệu sản
xuất, vật chất hay phi vật chất, phải
biết chăm lo để lợi tức của chúng
đem lại ích lợi cho nhiều người. Những
người sở hữu các sản phẩm tiêu thụ
phải sử dụng chừng mực, dành phần tốt
đẹp hơn cho người khách, người đau
ốm, người nghèo khổ.
V́ công ích, chính quyền
có quyền và bổn phận điều tiết việc hành
sử chính đáng quyền sở hữu.
II.
Tôn
trọng con người và tài sản (2407-2418)
Trong
lănh vực kinh tế, tôn trọng nhân phẩm đ̣i chúng
ta phải thực thi nhân đức tiết
độ, công bằng,
và liên đới, theo "luật
vàng" và ḷng quảng đại của Chúa. (2407).
Tôn
trọng tài sản tha nhân
- Điều răn thứ bảy cấm trộm
cắp. Trong trường
hợp khẩn cấp, rơ ràng, và không c̣n cách nào để
đáp ứng cho các nhu cầu cấp thời và thiết
yếu, th́ được phép dùng tài sản tha nhân.
Mọi h́nh thức chiếm đoạt và cầm
giữ cách bất công tài sản tha nhân, dù không
nghịch với dân luật, vẫn nghịch với điều
răn thứ bảy. Về phương diện luân lư,
những việc sau đây bất hợp pháp: đầu cơ,
hối lộ, lậu thuế, giả mạo chi phiếu và
hóa đơn, chi tiêu quá mức, lăng phí. Cố
ư gây thiệt hại tài sản tư nhân hoặc công
cộng là nghịch với luật luân lư và phải
bồi thường (2408-2409).
Phải
giữ lời hứa, và
thi hành các hợp đồng
đă cam kết trong công bằng và hợp lư. Mọi
hợp đồng đều phải được
thỏa thuận và thi hành với thiện ư.
Các hợp đồng phải tuân theo công
bằng giao hoán quy định những sự trao đổi
giữa các cá nhân và giữa các tổ chức trong sự
tôn trọng đúng mức các quyền lợi của nhau.
Công bằng giao hoán phải được triệt để
tôn trọng. Không có công
bằng giao hoán th́ không thể có một h́nh thức công
bằng nào khác. Công
bằng giao hoán đ̣i chúng ta phải đền bù điều
bất công đă làm bằng cách
hoàn lại của cải đă lấy cắp cho
sở hữu chủ (2410-2412).
Các
tṛ chơi đỏ đen
hay đánh cá, về phương
diện luân lư, không thể chấp nhận được
khi chúng cướp đi những gí cần thiết để
nuôi sống bản thân và người khác. Cờ
bạc gian lận là một lỗi nặng ( 2413).
Điều
răn thứ bảy nghiêm cấm bất cứ hành vi
hoặc dịch vụ nào dẫn tới việc nô
lệ hóa con người, không nh́n nhận nhân phẩm
của họ, mua bán hoặc trao đổi họ như hàng
hóa (2414).
Tôn
trọng sự toàn vẹn của các tạo vật
- Điều răn này dạy ta phải tôn trọng sự toàn
vẹn của vạn vật. Khi
sử dụng các tài nguyên khoáng chất, thực vật và
động vật trong vũ trụ, con người
phải để ư đến ảnh hưởng trên
đời sống của tha nhân, kể cả những
thế hệ tương lai; quyền này đ̣i chúng ta
phải trân trọng sự toàn vẹn của vạn
vật. Thú
vật là những tạo vật của Thiên Chúa và
được Ngài ân cần chăm sóc. Chúng
hiện hữu để ca tụng và tôn vinh Ngài.
Do đó, con người phải biết thương
chúng. Ngài đă dựng nên
con người giống h́nh ảnh Ngài và trao cho quyền
quản lư chúng. V́
thế con người được phép ăn thịt thú
vật và lấy da làm y phục, thuần hóa chúng để
trợ lực ḿnh trong lao động và giải trí. Những
thí nghiệm y học và khoa học trên thú vật có
thể chấp nhận được về phương
diện luân lư, miễn là ở trong những giới
hạn hợp lư và góp phần vào việc chữa
bệnh hoặc cứu mạng sống con người.
Nhưng không được hành hạ hay giết
hại thú vật cách vô ích, hay chi phí những số
tiền quá đáng cho chúng (2415-2418).
III.
Học
thuyết xă hội của Hội Thánh
Qua
Tin Mừng, Hội Thánh nhận được mặc
khải trọn vẹn chân lư về con người, và
dạy cho họ biết các đ̣i hỏi của công lư và
ḥa b́nh, hợp với ư định khôn ngoan của Thiên
Chúa. Trong lănh vực kinh
tế xă hội, Hội Thánh chỉ đưa ra một phán
đoán luân lư "khi các quyền căn bản của con
người hoặc phần rỗi các linh hồn đ̣i
hỏi." Về mặt
luân lư, Hội Thánh quan tâm đến các khía cạnh
trần thế của công ích v́ chúng qui hướng
về Sự Thiện tối thượng, là cứu cánh
tối hậu của chúng ta. Hội
Thánh cố gắng phổ biến những lập trường
đúng đắn đối với của cải
trần thế và với các quan hệ kinh tế xă
hội (2419-2420).
Học
thuyết xă hội của Hội Thánh là tập hợp các
lời dạy của Hội Thánh về các biến cố
lịch sử, dưới ánh sáng mặc khải của
toàn bộ Lời Chúa, và sự trợ giúp của Chúa Thánh
Thần. Những người
thiện chí dễ dàng chấp nhận giáo huấn này khi
thấy các Kitô hữu thực hành trong đời sống.
Học thuyết xă hội của Hội Thánh đề
ra những nguyên tắc suy tư, những tiêu chuẩn phán
đoán, những đường hướng hành động:
Bất kỳ thể
chế nào chỉ căn cứ vào các yếu tố kinh
tế để quyết định những mối tương
quan xă hội, đều nghịch với bản chất và
hành vi của con người.
Về mặt luân lư, không
thể chấp nhận một lư thuyết coi lợi
tức là qui luật tuyệt đối và mục đích
tối hậu của sinh hoạt kinh tế. Những
thể chế đ̣i hy sinh những quyền lợi căn
bản của cá nhân và đoàn thể cho tổ chức
sản xuất tập thể đều đi ngược
với phẩm giá con người. Những
ǵ biến con người thành phương tiện
thuần túy để trục lợi, đều nô lệ
hóa con người, đưa tới việc tôn thờ
tiền bạc và góp phần truyền bá chủ nghĩa vô
thần. Hội Thánh
phi bác các ư thức hệ chuyên chế và vô thần đang
hoạt động dưới h́nh thức "chủ nghĩa
cộng sản" hoặc "chủ nghĩa xă hội".
Mặt khác, Hội Thánh cũng
phi bác chủ nghĩa cá nhân và việc coi luật thị
trường là qui luật tối thượng trên lao
động của con người, trong cách thực hành
của "chủ nghĩa tư bản". Các
tín hữu phải tác động vào thị trường
và các sáng kiến kinh tế, để có được
một điều hành hợp lư dựa trên một
bậc thang giá trị đúng đắn và v́ công ích
(2421-2425).
IV.
Hoạt
động kinh tế và công bằng xă hội (2426-2436)
Phát
triển kinh tế và gia tăng sản xuất đều
nhằm phục vụ những nhu cầu của con người.
Hoạt động kinh
tế được điều hành theo những phương
pháp riêng nhưng phải tôn trọng các khuôn khổ luân
lư và công bằng xă hội, để đáp ứng ư
định của Thiên Chúa về con người. Lao
động là công tŕnh trực tiếp của những
con người được tạo dựng theo h́nh
ảnh Thiên Chúa, và được mời gọi cùng nhau
tiếp nối công tŕnh tạo dựng khi làm chủ địa
cầu. Do đó, lao
động là một bổn phận. Khi
lao động, con người biểu dương các ân
huệ của Đấng Tạo Hóa và những tài năng Chúa
ban. Lao
động c̣n có giá trị cứu độ.
Nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, con người
được cộng tác với Người trong công tŕnh
cứu độ qua việc chu toàn những bổn
phận hằng ngày. Lao
động có thể là một phương thế thánh hóa
và thấm nhuần các thực tại trần thế
bằng Thần Khí của Đức Kitô.
Giá trị hàng đầu của lao động tùy
thuộc vào chính con người, là tác giả và người
thụ hưởng nó. Lao
động v́ con người, chứ không phải con người
v́ lao động. Mỗi
người có quyền nhờ lao động mà có các phương
thế để nuôi sống bản thân và gia đ́nh, cũng
như phục vụ cộng đồng nhân loại.
Mỗi người có quyền có sáng kiến trong
sinh hoạt kinh tế, sử dụng chính đáng các tài năng
của ḿnh để góp phần làm ra nhiều của
cải cho mọi người được hưởng,
cùng gặt hái những hiệu quả chính đáng do các
nỗ lực của ḿnh. Họ
phải để tâm tuân theo các qui định do chính
quyền hợp pháp đề ra v́ công ích (2426-2429).
Đời
sống kinh tế
liên can đến nhiều quyền lợi khác nhau, thường
đối nghịch nhau, nên hay xảy ra các xung đột.
Phải cố gắng
giải quyết các xung đột bằng thương lượng,
dựa trên sự tôn trọng các quyền lợi và
bổn phận của mọi thành phần xă hội (2430).
Nhiệm
vụ chính yếu của Nhà Nước
là bảo đảm sự an toàn để người
lao động có thể hưởng hiệu quả công
việc họ làm và do đó cảm thấy được
khuyến khích làm việc cách hiệu quả và lương
thiện.... Nhà Nước cũng có bổn phận giám sát
và hướng dẫn việc thực thi nhân quyền trong
lănh vực kinh tế (2431).
Các
nhà kinh doanh thương mại chịu
trách nhiệm trước xă hội về ảnh hưởng
đến nền kinh tế và sinh môi của công việc
họ làm, và quan tâm đến lợi ích của con người
chứ không chỉ lo gia tăng lợi tức (2432).
Mọi
người có quyền làm việc và
chọn nghề, không bị kỳ thị bất công.
Xă hội phải giúp đỡ để công dân có
công ăn việc làm (2433).
Người
lao động có quyền hưởng lương công
bằng.
Không trả hoặc
giữ tiền lương lại, là một tội
bất công nghiêm trọng. Để
định giá tiền lương cho công bằng, phải
lưu ư đến các nhu cầu và đóng góp của
mỗi người. Về
phương diện luân lư, sự thỏa thuận
giữa chủ và thợ không đủ để định
mức lương (2434).
Về
mặt luân lư, đ́nh công
là việc chính đáng nếu không thể tránh được
hay cần thiết để đạt được
lợi ích tương xứng.
Nhưng không được kèm theo bạo động,
hay nhằm những mục tiêu không trực tiếp liên
hệ đến các điều kiện làm việc, hay trái
nghịch với công ích (2435).
Không
đóng tiền an ninh xă hội do chính quyền hợp pháp
qui định là bất công. Thất
nghiệp luôn xúc phạm đến phẩm giá của
nạn nhân, và là một đe dọa cho thế quân b́nh
của đời sống. Ngoài
sự thiệt hại mà cá nhân người đó
phải gánh chịu, thất nghiệp c̣n đem lại
nhiều mối nguy cho gia đ́nh của họ (2436).
V.
Công
bằng và t́nh liên đới giữa các quốc gia (2437-2442)
Trên
b́nh diện quốc tế, t́nh trạng các nguồn tài
nguyên và các phương tiện kinh tế không được
phân bố đồng đều, đến nỗi gây nên
một "hố sâu" giữa các quốc gia.
Ngày nay, vấn đề xă hội mang một
chiều kích quốc tế, v́ nhiều lư do khác nhau như
tôn giáo, chính trị, kinh tế và tài chánh. Giữa
các quốc gia có liên hệ chính trị, cần phải liên
đới với nhau. Cần
phải có một cố gắng chung để huy động
các nguồn tài nguyên vào những mục tiêu phát triển
luân lư, văn hóa và kinh tế "nhờ xác định
lại những quyền ưu tiên và các bậc thang giá
trị." Các nước
giàu có trách nhiệm đối với những nước
nghèo. Đây cũng là
một đ̣i hỏi của công b́nh nếu sự sung túc
của các nước giàu là do những tài nguyên của các
nước nghèo, nhưng chưa được trả giá
đúng mức. Viện
trợ trực tiếp chỉ là nhất thời đáp
ứng những nhu cầu trước mắt và đột
xuất. Phải cải
tổ các thể chế kinh tế và tài chánh quốc
tế, để có những trao đổi công bằng hơn
với các nước chậm phát triển. Nền
tảng cho mọi phát triển trọn vẹn xă hội loài
người đ̣i phải nâng cao cảm thức về
Thiên Chúa và nhận thức về ḿnh. Các
mục tử của Hội Thánh không có trách nhiệm nhúng
tay trực tiếp vào cơ cấu chính trị cũng như
việc tổ chức đời sống xă hội.
Trách nhiệm này là ơn gọi của giáo dân;
họ cộng tác với đồng bào theo sáng kiến riêng
ḿnh. Có nhiều đường
lối cụ thể rộng mở cho việc tham gia chính
trị của họ; nhưng phải luôn nhắm tới công
ích và thích ứng với sứ điệp Tin Mừng cũng
như giáo huấn Hội Thánh.
VI.
Yêu
thương người nghèo (2442-2463)
Thiên
Chúa chúc phúc cho ai giúp đỡ người nghèo và
kết án ai lănh đạm với họ. Chúa
Giêsu nhận ra kẻ được Người tuyển
chọn qua việc họ đă làm cho người nghèo. Hội
Thánh vẫn luôn yêu thương người nghèo. T́nh
yêu đối với họ phải trở thành một
trong những động lực thúc đẩy các tín
hữu hoạt động và làm ăn, để có mà
chia sẻ với người túng thiếu. Điều
này không phải chỉ giới hạn ở sự nghèo khó
về vật chất nhưng c̣n hướng tới
nhiều h́nh thức nghèo đói văn hóa và tôn giáo.
T́nh yêu đối với kẻ nghèo không thể
đi đôi với ḷng ham muốn giàu sang quá độ cũng
như sử dụng của cải quá ích kỷ.
Các việc từ thiện là những hành vi bác ái,
qua đó chúng ta giúp đỡ tha nhân những ǵ cần
thiết cho thể xác và tinh thần. Dạy
dỗ, khuyên nhủ, an ủi, khích lệ, cũng như
tha thứ, nhẫn nhục, chịu đựng là những
hành vi bác ái về mặt tinh thần. Công
việc từ thiện về mặt vật chất
phải có: cho kẻ đói ăn, cho kẻ vô gia cư
tạm trú, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm
viếng bệnh nhân và kẻ tù đày, chôn xác kẻ
chết. Trong các việc
ấy, bố thí là một trong những bằng chứng
chính của t́nh bác ái, cũng là việc đẹp ḷng
Thiên Chúa. Sự khốn cùng
của con người xuất hiện dưới nhiều
h́nh thức. Sự
khốn cùng này là dấu chỉ cho thấy con người
sau nguyên tội yếu đuối từ bẩm sinh và
cần đến ơn cứu độ. V́
thế, Đức Kitô đă chạnh ḷng thương xót và
mang lấy thân phận khốn cùng của con người
và tự đồng hóa với "người bé nhỏ
trong các anh em." Khi ta
phục vụ người nghèo và người bệnh là
ta phục vụ chính Chúa Giêsu. Chúng
ta không được lơ là trong việc giúp đỡ
tha nhân, v́ chúng ta phục vụ Chúa Giêsu trong anh em .